Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Sự khác nhau giữa triết học mác và triết học trong lịch sử trong vấn đề chính trị xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.75 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây từ khoảng thế kỷ VIII đến
thế kỷ VI TCN, tại các quốc gia văn minh cổ đại như: Hy Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc.
Ngay từ đầu, dù cho ở phương Đông hay phương Tây, triết học cũng đều là hoạt
động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người. Mặc dù có vẻ
nằm hồn tồn trong phạm trù trừu tượng, triết học cũng có áp dụng thực tiễn. Điển
hình nhất là áp dụng trong nguyên tắc xử thế, như nguyên tắc xử thế trong nghề
nghiệp và đặc biệt là triết lý về chính trị - xã hội.
Trong suốt chiều dài phát triển của lịch sử triết học, đã có rất nhiều tư tưởng
về chính trị - xã hội. Ở mỗi thời kỳ chính trị - xã hội khác nhau, nó lại được định
nghĩa bằng những quan điểm khác nhau, giữa các nhà triết học khác nhau cũng có
những tư tưởng khơng giống nhau.
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như
dân tộc và các quốc gia với vấn đề về giành, giữ gìn, tổ chức và sử dụng quyền
lực nhà nước. Chính trị cịn là sự tham gia của nhân dân vào công việc của nhà
nước và xã hội, bao gồm các hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng
phái chính trị,… nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những
mục tiêu đã đề ra thỏa mãn lợi ích.
Trong đó, các nhà triết học của chủ nghĩa Mác Lênin đã đưa ra những
nhìn nhận vơ cùng đúng đắn về chính trị, cụ thể: Chính trị là lợi ích, là quan hệ
lợi ích, là sự đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi ích giai cấp; Căn bản nhất của
chính trị đó là việc tổ chức quyền lực nhà nước, là sự tham gia vào công việc
nhà nước, định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội dung cũng như
nhiệm vụ của nhà nước; Chính trị là những biểu hiện tập trung của kinh tế,
nhưng khơng thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế; Nghiên cứu về chính trị
là nghiên cứu đến lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm và liên quan tới vận mệnh hàng
triệu người. Việc giải quyết những vấn đề chính trị vừa được coi là khoa học,
vừa được coi là nghệ thuật.


2



Để làm rõ hơn về sự đúng đắn về quan niệm chính trị - xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tác giả lựa chọn đề tài: “Sự khác nhau giữa triết học Mác
và triết học trong lịch sử trong vấn đề chính trị - xã hội” làm đề tài tiểu luận.
NỘI DUNG
I. Một số khái niệm
1. Khái niệm triết học
Người Ấn Độ đọc “triết học” là dar sha na, có nghĩa là chiêm ngưỡng (hàm ý
là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ
phải); "Triết",nghĩa chữ Hán, có nghĩa là trí (bao hàm sự hiểu biết, nhận thức sâu
rộng, đạo lý); “triết học” gốc tiếng Hy Lạp cổ khó viết nên người ta chuyển sang
tiếng Latinh thành Philosophy- u mến (philos) sự thơng thái (sophy). Philosophy
vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con
người.
Nhà triết học (triết gia) là nhà thơng thái, có khả năng làm sáng tỏ bản chất
của mọi sự vật, hiện tượng. Với quan niệm như vậy, triết học khi mới ra đời khơng
có đối tượng nghiên cứu riêng mà bao gồm toàn bộ tri thức của nhân loại, là "khoa
học của mọi khoa học".
Thuật ngữ triết học bao gồm hai yếu tố: Yếu tố nhận thức (sự hiểu biết về vũ
trụ và con người, sự giải thích hiện thực bằng hệ thống tư duy) và Yếu tố nhận định
(đánh giá về mặt đạo lý để xây dựng thái độ và hành động đúng).
Quan niệm về môn học triết học ngày càng được hoàn thiện trong lịch sử cho
đến khi triết học Mác ra đời. Theo quan điểm mácxít, triết học là hệ thống lý luận
chung nhất của con người về thế giới, về vai trò và vị trí của con người trong thế
giới đó.
2. Khái niệm chính trị xã hội
Thuật ngữ “Chính trị” có lẽ được nhắc đến lần đầu tiên trong lịch sử nhân
loại bởi Aristotle-một triết gia Hi Lạp cổ đại, đặc biệt nó còn là tựa đề cho một tác
phẩm nổi tiếng và nhiều ảnh hưởng của ơng –cuốn “Politics” (Chính trị luận).



3

Tuy nhiên từ “Chính trị” và các vấn đề chính trị cơ bản như quyền lực và tổ
chức nhà nước đã được tiếp cận bởi các triết gia khác như Khổng Tử, Plato…. Dù
Aristotle đã khẳng định con người là động vật chính trị, mọi cơng dân có đạo đức
(khơng phải là nơ lệ hay phụ nữ) đều có quyền tham gia chính trị, nhưng một điểm
chung lớn trong lý luận của các triết gia cổ đại này là quyền lực chính trị tốt nhất
nên được nắm giữ bởi những ơng vua thơng thái.
Vì thế chính trị ở đây có nghĩa là nghệ thuật cai trị và quản lý thành bang của
một nhà lãnh đạo lỗi lạc, xuất chúng hay là khoa học giành và nắm giữ vương
quyền trong thiên hạ.
Dưới nhãn quan này đại bộ phận dân chúng bị gạt ra bên lề của các cuộc chơi
chính trị. Rồi khi có được quyền lực trong tay những kẻ cầm quyền đã tạo nên bao
nhiêu sự tha hóa, mục ruỗng trong bộ máy lãnh đạo và bao nhiêu vấn nạn quốc gia
mà hậu quả của tất cả vấn đề này đổ cả lên đầu người dân. Từ đó mặc nhiên chính
trị được hiểu như một thứ xấu xa, là đặc quyền của kẻ thống trị, đối kháng với lợi
ích và cuộc sống bình dị của người dân.
Khi nền văn minh nhân loại đã bước qua một trang mới hoàn toàn khác, cùng
với sự ra đời của nhiều luận thuyết cổ vũ cho chủ nghĩa tự do. Mà một sự cổ vũ to
lớn cho lý tưởng này là sự ra đời của một nhà nước hiến pháp đầu tiên trên thế giớiNhà nước Mỹ khẳng định quyền sống, quyền tự do, an ninh than thể, quyền tự do
tôn giáo, tự do ngôn luận…
Hiến pháp Hoa Kỳ là bản hiến pháp lâu đời nhất và nổi tiếng nhất với trên
200 năm lịch sử. Từ khi được hiệu lực năm 1789, nó đã được tham khảo nhiều lần
để làm mơ hình cho các hiến pháp của những quốc gia khác. Thủ tướng Vương
quốc Anh William Ewart Gladstone (1809 – 1898) đã miêu tả Hiến pháp này là "tác
phẩm tuyệt vời nhất từng được sản sinh ra vào một thời điểm nhất định bởi trí óc và
mục đích của con người".
Từ đây cả thế giới làm quen với một lý thuyết hoàn toàn mới về nguồn gốc
và bản chất của Nhà nước, nhà nước không phải là một thế lực thống trị xã hội mà



4

chính là một tổ chức quyền lực cơng, được người dân trao cho quyền lực để đổi lại
họ được sống dưới sự bảo vệ của Nhà nước và một trật tự luật pháp do Nhà nước
ban hành (luật pháp không trái với đạo đức và luân lý); và rằng quyền lực chính trị
đó khơng thể là quyền lực tuyệt đối vì “quyền lực có xu hướng tha hóa, quyền lực
tuyệt đối dẫn đến tha hóa tuyệt đối”.
Dưới nhãn quan triết học này, quyền lực chính trị xuất phát từ dân chúng, nó
được tạo lập để phục vụ xã hội. Chính trị là nghệ thuật hay khoa học vận hành và
quản lý xã hội bằng quyền lực Nhà nước nhưng nó phải bị hạn chế bằng luật pháp
và được giám sát bởi người dân thông qua các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tơn
giáo.
Như vậy người dân mọi thành phần có đủ tư cách để tham gia gián tiếp vào
nền chính trị quốc gia bằng những hoạt động xã hội cụ thể của mình; quyền tự do
báo chí tun ngơn quốc tế về nhân quyền của Liên hiệp quốc (10 tháng 12 năm
1948). cho phép người dân phát biểu quan điểm của mình đối với tất cả các vấn đề
của quốc gia; hơn nữa mọi công dân đủ tiểu chuẩn pháp quy đều có khả năng tham
gia vào hoạt động quản lý Nhà nước một cách trực tiếp. Từ nay chính trị chẳng còn
là vương quyền cha truyền con nối, cũng chẳng còn là đặc quyền của những người
thuộc tầng lớp quý tộc.
Bên cạnh đó, thuật ngữ xã hội có thể hiểu theo một cách chung nhất là: "Một
tập thể hay một cộng đồng những người được phân biệt với các nhóm người khác
bằng các lợi ích, mối quan hệ đặc trưng, chia sẻ cùng một thể chế và có cùng văn
hóa."
Từ các phân tích trên, có thể khái qt định nghĩa về triết học chính trị xã hội
là: Nghiên cứu các vấn đề cơ bản về nhà nước, chính quyền, chính trị, tự do, cơng
bằng, tài sản, quyền, luật và việc thực thi luật pháp bởi các cơ quan thẩm quyền.
Mục tiêu nghiên cứu của triết học chính trị nhằm lý giải về mối quan hệ cũng như

sự tồn tại của các vấn đề trên một cách thấu đáo bởi các nhà triết học; Trong ngôn
ngữ thông thường, “triết học chính trị xã hội” chỉ có nghĩa chỉ quan điểm chung,


5

hoặc niềm tin hay thái độ đạo đức cụ thể về chính trị trong một xã hội, một tập thể
mà không nhất thiết thuộc về chuyên ngành nào của triết học.
II. VÀI QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI QUA CÁC
GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ
1. Đặc điểm chính trị - xã hội của Khổng Tử
Khổng Tử (551 – 479 TCN) là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi
tiếng người Trung Hoa, các bài giảng và triết lý của ơng có ảnh hưởng rộng lớn đối
với đời sống và tư tưởng của các nền văn hóa Đơng Á. Người Trung Hoa đời sau đã
tôn xưng ông là Vạn thế Sư biểu (Bậc thầy của mn đời). Chính phủ Trung Quốc
hiện nay, trong nỗ lực truyền bá văn hóa Trung Hoa ra thế giới, đã cho thành lập
hàng trăm Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới.
Triết học của ông nhấn mạnh trên sự tu dưỡng đức hạnh cá nhân và cai trị
bằng đạo đức: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, sự chính xác của các mối
quan hệ xã hội, đạo đức và quy phạm làm người, “Đạo Trung Dung” và các đức
tính “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín”. Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên
mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Đạo gia trong suốt triều đại
nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống triết
học được gọi là Khổng giáo. Khổng giáo được một người Italia là Matteo Ricci đưa
vào Châu Âu, ông cũng là người đầu tiên La tinh hố tên Khổng Tử thành
"Confucius". Khổng giáo cịn được xem là một tơn giáo lớn của lồi người, nhất là
dân tộc Trung Hoa.
2. Quan điểm chính trị - xã hội của Lão Tử
Trong các phái Nho gia, Đạo gia, Pháp gia của các tư tưởng Trung Quốc thời
cổ đại, Người đầu tiên đề xướng học thuyết Đạo gia là Lão Tử. Về mặt triết học,

Lão Tử cho rằng nguồn gốc của vũ trụ là "đạo". Đạo sinh ra một, một sinh ra hai,
hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật. Sau khi sự vật được tạo ra thì phải có quy luật để
duy trì sự tồn tại của nó, quy luật ấy gọi là "đức". Như vậy, đạo đức ở đây là một


6

phạm trù thuộc về triết học, khác với đạo đức của Nho gia là thuộc về phạm trù
luân lý.
Về cách quản lý đất nước, Lão Tử chủ trương vô vi. Ông cho rằng cách tốt
nhất làm cho đất nước được thái bình là giai cấp thống trị khơng can thiệp đến đời
sống của nhân dân, không thu thuế quá nhiều, không sống xa hoa. Đồng thời nên
quay lại thời kỳ vừa thốt thai khỏi xã hội ngun thuỷ, khơng cần chữ viết, khơng
cần vũ khí, thuyền xe. Cịn đối với nhân dân thì chỉ cần làm cho tâm hồn họ trống
rỗng nhưng bụng họ thì no, chí của họ yếu nhưng xương cốt của họ mạnh. Khi đó
họ khơng biết gì và khơng có ham muốn. Lão Tử chủ trương một chính quyền theo
tự nhiên mà giữ giềng mối, “vơ vi nhi trị”, trị mà như không trị tức là trị vậy. Theo
Đạo mà trị nước vì nếu dùng trí thuật mà trị nước tức là làm hại nước. Chính quyền
gồm những người chất phác, ăn ở giản dị và cần kiệm, không xa hoa. Họ không can
thiệp vào chuyện của nhân dân, khơng tơn q hiền tài, khơng vận dụng lý trí để
ứng xử với dân. Luật pháp phải rộng rãi và uyển chuyển vì càng gia tăng luật lệ thì
dân càng bị trói buộc, khổ sở. Trọng dụng hiền tài chỉ làm dân tranh nhau để được
tiếng là người hiền. “Dứt thánh bỏ trí, dân lợi trăm phần. Dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại
thảo lành. Dứt xảo bỏ lợi, trộm cướp khơng cịn”. Ở trong nước, chính quyền khơng
nên dùng các hình phạt răn đe, nhất là đem cái chết ra dọa dân vì tới một lúc nào đó
dân khơng cịn sợ. Đối với bên ngồi, phải cố hết sức tránh nạn binh đao. Lão Tử
triệt để bác bỏ chiến tranh. Cực chẳng đã phải dùng thì nên điềm đạm, chừng mực.
“Nước lớn mà hạ mình trước nước nhỏ thì được nước nhỏ thần phục; nước nhỏ mà
hạ mình trước nước lớn thì tất được nước lớn che chở”. Tóm lại, phép trị quốc an
dân hay nhất để đem lại phúc lợi cho dân chúng là càng ít can thiệp càng tốt, để

mặc cho dân sống tự nhiên, mộc mạc và giản dị.
Chủ trương chính trị của Lão không được giai cấp thống trị đương thời chấp
nhận, nhưng tư tưởng ấy đã đặt cơ sở cho việc hình thành Đạo giáo ở Trung Quốc
sau này.
3. Tư Tưởng chính trị - xã hội của Hàn Phi Tử


7

Hàn Phi Tử (281 TCN - 233 TCN) là học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời
Chiến Quốc theo trường phái pháp gia, sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn
Tần Thủy Hoàng đang thống nhất Trung Hoa. Hàn Phi tuy là học trò của Tuân Tử,
nhưng đã bỏ đạo Nho theo đạo Pháp. Hàn Phi phủ định đức tính Nhân nghĩa của
nhà Nho, tự sáng lập ra triết lý chính trị riêng, có giá trị rất đáng kể. Triết lý chính
trị của Hàn Phi, chủ trương hình thành một hệ thống gồm ba chủ điểm là: Pháp,
Thuật và Thế.
Trong tư tưởng chính trị của Hàn Phi, quyền lực là tất cả. “Quyền thế bất khả
dĩ tá nhân, thượng thất kỳ nhất, hạ dĩ vi bách”. (Quyền thế chớ có chia sẻ cho người
ta, khi bề trên chia mất một quyền, thì kẻ dưới sẽ lạm dụng thành trăm). Hàn Phi
khơng những coi trọng quyền lực, cịn là kẻ sùng bái quyền lực. Đó là ý nghĩ chung
của kẻ chủ trương độc tài, chuyên chế từ cổ chí kim, từ đơng chí tây, họ coi quyền
lực như là chân lý, có quyền lực là có tất cả. Tư tưởng chủ yếu của Hàn Phi là
thuyết Pháp Trị. Tư tưởng của Hàn Phi Tử đối nghịch lại với tư tưởng của Nho giáo
(vốn cho rằng để quản lý xã hội thì dùng Nhân trị và Đức trị), ông cho rằng cách tốt
nhất để quản lý xã hội là dùng pháp luật: “Pháp luật không hùa theo người
sang...Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khơn cũng khơng từ, kẻ dũng cũng không
dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh của kẻ đại thần, thưởng cái đúng khơng bỏ
sót của kẻ thất phu”.
4. Tư tưởng chính trị của Tuân Tử:
Tuân Tử (313 TCN – 238 TCN) là một nhà Nho, nhà tư tưởng của Trung

Hoa vào cuối thời Chiến Quốc.
Về mặt tư tưởng chính trị của Tuân Tử, một phần là thừa kế chủ thuyết của
Khổng - Mạnh; phần khác là thuộc về sáng kiến riêng của Người. Trong phần thừa
kế, có hai điểm rõ rệt nhất là “quý dân” và “thượng hiền”. Phần sáng kiến độc đáo
của Tuân Tử, tức là chủ nghĩa Lễ trị. Điều này sở dĩ khác biệt với Khổng - Mạnh, là
vì trong vấn đề trị nước, Khổng - Mạnh định luận theo ý niệm đạo đức, có tính cách


8

chủ quan; cịn Tn Tử thì định luận theo giáo hóa Lễ, Nghĩa. Đó là nền tảng của
chính trị quốc gia, chẳng những là pháp chế để thống ngự thần dân, đồng thời còn
là then chốt của cuộc trị loạn, hưng vong của một nước.
5. Tư tưởng chính trị - xã hội của Socrates:
Socrate (470 TCN - 399 TCN) là triết gia vĩ đại nhất thời Hy Lạp cổ đại,
người được mệnh danh là bậc thầy về truy vấn thuộc phái biện thuyết trong trường
phái triết học phương Tây. Ngưòi ta xem ông như là người đầu tiên thiết lập nền
triết học đạo đức - người đề ra phương pháp tiếp cận chân lý bằng cách liên tục đặt
câu hỏi và trở thành con người gây tranh cãi kịch liệt. Câu hỏi của Socrates: Cơng
lý là gì? Quan điểm của ông là chúng ta hãy thương xót kẻ gây ra điều bất công chứ
không phải là nạn nhân của bất công. Theo ông, Luận điểm cơ bản của đạo đức học
duy lý cũng được vận dụng vào lĩnh vực chính trị. Phẩm hạnh (đức hạnh) chính là
cách diễn đạt khác của tri thức về chính trị. Socrates là người muốn duy lý hóa nhà
nước, muốn những người điều hành cơng việc quốc gia phải thật sự có tri thức, hiểu
biết. Socrates đã nâng sự lý giải vấn đề đạo đức - chính trị lên trình độ khái niệm,
chứng minh. Về mặt triết học, tính chất khách quan của phẩm hạnh, chính trị, pháp
quyền, đối lập với chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa chủ quan của phái biện thuyết.
Socrates: Luận điểm cơ bản của đạo đức học duy lý cũng được vận dụng vào lĩnh
vực chính trị. Phẩm hạnh (đức hạnh) chính là cách diễn đạt khác của tri thức về
chính trị. Socrates muốn duy lý hóa nhà nước, muốn những người điều hành cơng

việc quốc gia phải có tri thức, hiểu biết. Socrates có lẽ là người đầu tiên trong lịch
sử triết học phương Tây đã phân biệt quyền tự nhiên và quyền công dân, khẳng
định sự thống nhất hai quyền đó, chứ khơng tách rời nhau.
6. Tư tưởng chính trị - xã hội của Plato
Plato (428 TCN - 348 TCN) với Republic, Tác phẩm vĩ đại nhất của Plato và
của mọi thời đại, đã bàn về nhiều lĩnh vực: thần học, đạo đức học, siêu hình học,
tâm lý học, giáo dục học, chính trị học, và lý thuyết về nghệ thuật. Những vấn đề
của triết học hiện đại đều được đặt ra từ tác phẩm này: từ những vấn đề của


9

Nietzsche về đạo đức và quý tộc, những vấn đề về trở lại với thiên nhiên và giáo
dục tự do của Rousseau, élan vital của Bergson và phân tâm học của Freud. Trong
REPUBLIC, Plato bàn tới các vấn đề chính trị như: con người, tổ chức quốc gia,
lãnh đạo công quyền “Con người thế nào quốc gia thế ấy”, “Sự sụp đổ sẽ đến khi
những con buôn nhờ giàu sang mà trở thành người cai trị”, “Chính quyền cũng biến
hóa như tính tình của con người biến hóa”, “Quốc gia được cấu tạo bởi các bản tính
của những người đang ở trong nó”, “Tất cả các quốc gia đều gồm có hai quốc gia,
quốc gia của người nghèo và quốc gia của người giàu, hai quốc gia ấy xung đột
nhau gay gắt”
Cũng như Socrates, mối quan tâm hàng đầu của Platon trong triết học xã hội
là vấn đề phẩm hạnh. Bốn phẩm hạnh thường xuyên được nhắc đến là tiết độ, can
đảm (gan dạ), khôn ngoan, công bằng, dựa theo cách phân tầng linh hồn, phân tầng
xã hội và quan hệ giữa người với người. Tiết độ là phẩm hạnh cần có đối với tất cả
các cơng dân, khơng phân biệt địa vị xã hội. Can đảm không nhất thiết là phẩm
hạnh phổ biến. Chỉ cần một bộ phận công dân (các chiến binh) có được nó để bảo
vệ an ninh quốc gia. Khơn ngoan có thể hiện diện ở tất cả, song xét thực chất nó là
đặc quyền phẩm hạnh của các triết gia. Có thể gọi cơng bằng là “đức hạnh xã hội”,
vì nó thể hiện trong đời sống của cá nhân lẫn cộng đồng, đóng vai trị thước đo của

chế độ chính trị.
7. Học thuyết chính trị - xã hội của Aristotle
Aristotle (428 TCN - 348 TCN) là một triết gia, một nhà chính trị. “Chính trị
luận” của Aristotle là một tác phẩm kinh điển mang tính chất đột phá trong lịch sử
triết học và chính trị học không phải ở mức độ liệt kê quy mô mà ở tầm nhìn. Trước
Aristotle, chính trị chỉ đơn thuần được xem như mối quan hệ giữa người cai trị và
người bị trị trong một quốc gia. Thậm chí với Plato, người thầy của Aristotle, chính
trị vẫn là một thứ mơ hồ được đóng khung trong mơ hình nhà nước lý tưởng.
Aristotle thì khác, ơng là một triết gia hiếm hoi trong lịch sử thế giới thành cơng
trong vai trị chính trị – là người thầy, cố vấn cho vị hoàng đế vĩ đại nhất Hy Lạp cổ


10

đại: Alexadre Đại Đế. Bởi thế, ơng nhìn chính trị với con mắt của người trong cuộc
và thấy rằng chính trị là một lĩnh vực tổng thể: “Cũng giống như trong các ngành
khác của khoa học, chính trị cũng vậy, một hợp chất ln ln có thể được phân
giải ra thành những phần tử đơn giản hay nhỏ nhất của tổng thể. Do đó, chúng ta
phải xem xét các phần tử cấu thành nhà nước, hầu có thể thấy được các luật lệ khác
nhau của các loại chính quyền khác nhau như thế nào, và có thể rút ra được một kết
luận khoa học nào chăng về mỗi loại chính quyền”.
Những tư tưởng cơ bản về chính trị - xã hội của Aristotle: Xây dựng học
thuyết nhà nước lý tưởng trên nền tảng bản chất con người; Đặt vai trò và lợi ích
của nhà nước lên trên quyền lợi và tầm quan trọng của cá nhân; Chính con người
cần đến xã hội vì xã hội là một thực tại có giá trị đạo đức, phát sinh từ những yêu
cầu tất yếu của nhân loại; Quyền công dân dành cho tầng lớp thượng; Tầng lớp
thấp buộc phải lao động khơng có cơ hội đạt đến hạnh phúc.
8. Triết lý về chính trị - xã hội của Thomas Aquinas
Thomas Aquinas (1225 - 1274) là một triết gia và nhà thần học người Italia.
Theo ông, Thượng Đế là nhà lập pháp tối thượng (the superme lawgiver), đấng

sáng tạo mọi quy luật, siêu nhiên lẫn tự nhiên – bắt nguồn từ những quy luật gốc
ấy, luật pháp của con người được hình hành. Thomas Aquinas nhận định rằng trật
tự xã hội và những quy tắc cơng bằng của nó tn theo khn mẫu mà Thượng Đế
đã định sẵn trong thế giới tự nhiên. Những điều luật bất công, vốn không tuân theo
khuôn mẫu ấy, khơng thể được xem là luật pháp đích thực. Mặc dù, nói một cách
nghiêm chỉnh, con người khơng có bổn phận phải tuân theo những điều luật bất
công, nhưng vẫn có những lý do đạo đức địi hỏi sự vâng mệnh trước quyền lực,
bởi lẽ “mọi quyền lực đều xuất phát từ Ý chúa”. Con người phải tuân theo giới cầm
quyền, bởi vì khơng có quyền lực nào nằm ngồi quyền năng của Thượng đế.
Nắm quyền thống trị là sở hữu quyền lực, là bước lên cương vị và đảm nhận
trách nhiệm cao hơn người khác. Đối khán với quyền lực là đối kháng với thiên
mệnh, với “trật tự” mà Thượng đế đã định ra. Không chỉ quyết định thang bậc tôn ti


11

ở chốn thiên đường (celestial hierarchy), trật tự ấy cũng quyết định hệ thống thang
bậc trong giáo hội (ecclesiastical hierarchy) và cơ cấu xã hội (social order). Trong
xã hội trần tục, người lãnh đạo tối cao của nhà nước thọ lãnh thiên mệnh, thực hiện
trật tự của Thượng đế; mọi thần dân và thuộc cấp đều phải tuân theo. Thomas
Aquinas quan niệm rằng ngay cả hành động sai trái của kẻ cai trị tàn ác nhất cũng
là hành động gián tiếp của Thượng đế.
9. Triết lý chính trị - xã hội của Thomas Hobbes
Thomas Hobbes (1588 - 1679) là một nhà triết học người Anh nổi tiếng với
các tác phẩm về triết học chính trị. Cuốn sách Leviathan viết năm 1651 của ông đã
thiết lập nền tàng cho nền triết học chính trị phương Tây theo quan điểm lý thuyết
về khế ước xã hội. Lý thuyết về khế ước xã hội lần đầu tiên được Thomas Hobbes
đưa ra khi ông cho rằng con người ban đầu vốn sống ở trạng thái tự nhiên, trong
tình trạng vơ chính phủ, khi chưa hề có sự cưỡng bức có tổ chức lên mỗi cá nhân.
Con người qua khế ước xã hội từ bỏ những quyền tự do tự nhiên của mình để được

hưởng sự an toàn và trật tự của xã hội văn minh.
Hobbes là người ủng hộ chính thể chuyên chế nhưng ông cũng phát triển các
nguyên tắc cơ bản của tư tưởng tự do châu Âu: quyền được bầu cử của các cá nhân;
quyền bình đẳng tự nhiên của tất cả mọi người; tính nhân tạo của địa vị chính trị
(điều dẫn đến sự khác nhau sau này giữa xã hội và nhà nước); quan điểm tất cả
quyền lực chính trị hợp pháp phải mang tính "đại diện" và dựa trên sự đồng thuận
của nhân dân; Khế ước xã hội trong triết học và chính trị học là một học thuyết mô
tả việc con người cùng thỏa thuận từ bỏ trạng thái tự nhiên để xây dựng cuộc sống
cộng đồng. Về mặt luật pháp, khế ước xã hội thể hiện cụ thể là một tờ khế ước, một
bản hợp đồng trên đó các thành viên xã hội thống nhất các nguyên tắc để cùng
chung sống với nhau, diễn giải luật khá phóng thống cho phép mọi người được
làm bất kỳ điều gì mà pháp luật khơng cấm.
10. Tư tưởng chính trị - xã hội của John Locke


12

John Locke (1632 - 1704) với lý thuyết về quyền tự nhiên và khế ước xã hội
là cốt lõi cơ bản trong quan điểm của ông về nhà nước và tổ chức nhà nước. Ơng
cho rằng con người là ích kỷ và đầy ham muốn. Chính vì vậy mà ngay từ thời ở
trạng thái tự nhiên, khi nhà nước chưa ra đời, con người bên cạnh quyền tự nhiên
của mình đă phải tự cho mình quyền xét xử và trừng phạt kẻ khác để duy trì luật
của tự nhiên. Chính vì vậy, khi xă hội văn minh ra đời với thể chế nhà nước là hệ
quả của khế ước xã hội, đây là một bước tiến văn minh hơn và giúp duy trì luật của
tự nhiên thơng qua luật lệ của xã hội văn minh. Và ngay cả một nhà nước chuyên
chế do vua chúa cai trị cũng vẫn phải thực hiện đúng các chức năng của khế ước xã
hội như một chính quyền dân sự nếu khơng muốn bị diệt vong. Chức năng của một
chính quyền dân sự hợp lẽ là phải bảo vệ quyền tự nhiên của con người, tức là
quyền của mỗi công dân được sống, được tự do, có sức khỏe và của cải.
Chính những khái niệm về quyền của tự nhiên, khế ước xă hội và nhiều

đóng góp khác đă khiến ơng trở thành một nhà tư tưởng lớn của phong trào Khai
sáng và ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc Cách mạng Mỹ và bản Tuyên ngôn Độc lập
của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
11. Triết lý về chính trị - xã hội của Georg Wilhelm Friedrich Hegel
Hegel (1730 - 1831) là một nhà triết học người Đức, cùng với Johann
Gottlieb Fichte và Friedrich Wilhelm Joseph Schelling, Hegel được coi là người
sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm Đức cho rằng, tiến bộ xã hội chính là sự vận động
tiến về phía trước của cái kém hồn thiện đến cái hồn thiện hơn. Theo ơng, cái
chưa hồn thiện mang trong mình mặt đối lập của nó - cái hoàn thiện. Cái hoàn
thiện tồn tại ngay trong tiềm năng, trong tính xu hướng của cái chưa hồn thiện.
Mặc dù đề cao tính đặc thù của mỗi thời đại, song Hegel vẫn khẳng định rằng, mỗi
thời đại là một giai đoạn tất yếu trong tiến trình phát triển chung của nhân loại. Tuy
vậy, ông lại quá tư biện đến mức coi tiến bộ xã hội chính là quá trình vận động của
ý niệm. Đây là điểm mà G. Hegel thường bị phê phán là không đi xa hơn các lý
thuyết thần học trung cổ về sự phát triển xã hội. G. Hegel cũng tự mâu thuẫn với


13

chính mình trong khi cho rằng sự phát triển, theo logic nội tại của nó là vơ hạn thì
ơng lại biện minh rằng sự tồn tại của nhà nước quân chủ lập hiến Phổ là đỉnh cao
của sự phát triển lịch sử.
III. QUAN ĐIỂM VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
C. Mác (1818 - 1883) nhà kinh tế chính trị, nhà lãnh đạo cách mạng của Hiệp
hội Người lao động Quốc tế. Những hoạt động cách mạng và triết học của ông diễn
ra trong thập niên 1840 - giữa lúc chủ nghĩa tư bản đang trong thời kỳ phát triển
và giai cấp vô sản công nghiệp ra đời và có những hoạt động cách mạng chống chế
độ tư bản. Marx được nhắc đến với nhiều chủ đề khác nhau, nhưng ơng nổi
tiếng nhất với những phân tích lịch sử dựa trên thuật ngữ đấu tranh giai cấp,
được tổng kết lại trong những lời mở đầu cho Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (Das

Manifest der Kommunistischen Partei): “Lịch sử của tất cả các xã hội từ trước đến
nay là lịch sử của đấu tranh giai cấp”. Ông cũng là người sáng lập Chủ nghĩa Xã
hội Khoa học cùng Friedrich Engels. Tư tưởng của ông là học thuyết kế thừa các
hệ tư tưởng được thành lập trong thế kỷ XIX, bao gồm triết học Đức, kinh tế học
chính trị Anh hay chủ nghĩa xã hội học Pháp.
Trong quá trình sự nghiệp, C. Mác đã có nhiều tác phẩm bàn về vấn đề chính
trị - xã hội, thể hiện một số nội dung cơ bản, cụ thể như sau:
1. Về nguồn gốc giai cấp
Điểm xuất phát của C. Mác khi nghiên cứu về xã hội là “con người hiện
thực”, tức không phải con người chung chung, trừu tượng như một số các nhà triết
học trước đó, mà đây là con người đang sống trong một đất nước nhất định, một
dân tộc nhất định, một thời đại nhất định. C. Mác đã phát hiện ra một sự thật vô
cùng hiển nhiên là: “Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch
sử”. Nhưng muốn sống được phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và vài thứ


14

khác nữa”. Đây là nhu cầu đầu tiên và tối thiểu của con người để họ có thể sống,
tồn tại và muốn có những thứ đó con người buộc phải lao động, sản xuất. Quá trình
sản xuất là quá trình kết hợp thống nhất hữu cơ giữa người lao động và tư liệu sản
xuất. Chừng nào trong xã hội có sự tách rời giữa người lao động và tư liệu sản xuất,
hay nói cách khác, có tồn tại chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, lúc đó trong xã
hội xuất hiện giai cấp. Vì vậy, trong xã hội nguyên thủy, khi lực lượng sản xuất còn
thấp kém, với công cụ bằng đá, gậy gộc, cung tên... con người làm ra sản phẩm chỉ
đủ để tồn tại, duy trì nịi giống, chưa có sản phẩm dư thừa tương đối thì chưa xuất
hiện chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do đó, chưa xuất hiện việc phân chia
giai cấp trong xã hội. Đến xã hội chiếm hữu nô lệ, do xuất hiện chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất nên trong xã hội xuất hiện giai cấp. Chủ nô và nô lệ là hai giai
cấp cơ bản đối kháng trong xã hội này.

Do điều kiện lịch sử thời kỳ bấy giờ, C. Mác khơng nói rõ ngun nhân dẫn
tới việc phân chia giai cấp, nhưng ông cũng khẳng định rằng: “Sự tồn tại của các
giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”
và đó là giai đoạn xuất hiện chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Sau này Ph.
Ăng-ghen đã làm rõ hơn: “Quy luật phân công lao động là cái làm cơ sở cho sự
phân chia thành giai cấp”. Ngồi ra, Ph. Ăng-ghen cịn bổ sung, chiến tranh và
cướp bóc đã đẩy nhanh q trình phân hóa giai cấp: “Nhưng điều đó hồn tồn
khơng loại trừ việc sử dụng bạo lực, cướp bóc, mánh khóe và lừa bịp trong sự hình
thành các giai cấp, và không cản trở giai cấp thống trị, một khi đã nắm được chính
quyền sẽ củng cố địa vị của nó trên lưng các giai cấp lao động và biến việc quản lý
xã hội thành việc bóc lột quần chúng”.
2. Đấu tranh giai cấp là tất yếu trong xã hội có giai cấp
Theo C. Mác, trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động
của các giai cấp và tầng lớp bị trị. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị


15

chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị, tư tưởng và tinh
thần. Bởi sự hình thành giai cấp cũng là sự hình thành các lợi ích khác nhau. Lợi
ích giai cấp khơng phải do ý thức giai cấp quy định mà do địa vị kinh tế - xã hội
của giai cấp ấy tạo nên một cách khách quan. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng
mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố chế độ
kinh tế xã hội cho phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Lợi ích
cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là
nguyên nhân trực tiếp dẫn tới đấu tranh giai cấp.
Nguyên nhân sâu xa dẫn tới đấu tranh giai cấp, theo C. Mác là mâu thuẫn
giữa trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất đã lỗi thời.
Theo C. Mác, đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội chỉ có thể nổ ra
trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển tới mức mâu thuẫn không thể giải quyết với

quan hệ sản xuất đã lỗi thời trong lòng xã hội cũ. C.Mác gọi đây là "tiền đề thực
tiễn tuyệt đối cần thiết, vì khơng có nó thì tất cả sẽ chỉ là sự nghèo nàn sẽ trở thành
phổ biến; mà với sự thiếu thốn tột độ thì ắt sẽ bắt đầu trở lại một cuộc đấu tranh để
giành những cái cần thiết, thế là người ta lại không tránh khỏi rơi vào cũng sự ti
tiện trước đây”.
Sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc xã hội
phải xóa bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay thế nó bằng
một kiểu quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật
chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước
đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển
của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực
lượng sản xuất… Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội” đó chính là
cách mạng xã hội hay đấu tranh giai cấp.


16

3. Giải phóng con người
Từ việc giải đáp một cách duy vật về con người, bản chất con người, tính
hiện thưc, con người với tư cách thực thể sinh học - xã hội, với tư cách nhân cách,
vị trí và vai trị của con người trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại, tư tưởng
của C. Mác hướng đến mục đích giải phóng con người, giải phóng xã hội. Cũng
trong các nghiên cứu của mình, C. Mác khẳng định rằng: Xã hội tư bản là một bước
tiến trong lịch sử phát triển của nhân loại; là cơ sở cho sự phát triển của bản chất
con người, là điều kiện cho sự giải phóng xã hội, giải phóng nhân loại. Song sở hữu
tư nhân, nhất là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã trở thành nguyên nhân và suy
đến cùng, đó là nguyên nhân chủ yếu và cơ bản nhất gây ra những tai hoạ khủng
khiếp cho con người, làm tha hố con người. Theo ơng, “con người đã hiểu khái
niệm chế độ tư hữu, nhưng nó chưa làm rõ được cho mình bản chất của chế độ đó,

vì thế, chừng nào mà con người cịn chưa nhận thức được “bản chất tích cực của
chế độ tư hữu và chưa hiểu được tính chất con người của nhu cầu” thì chừng đó, họ
“cịn bị chế độ tư hữu cầm tù và truyền nhiễm”. Do vậy, việc xóa bỏ chế độ sở hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu là để cứu lấy con người, giải
phóng con người và “muốn xố bỏ tư tưởng về chế độ tư hữu, thì tư tưởng về chủ
nghĩa cộng sản là hồn tồn đủ rồi. Cịn muốn xoá bỏ chế độ tư hữu trong hiện thực
thực tế thì phải có hành động cộng sản chủ nghĩa hiện thực” và lực lượng xã hội có
sứ mệnh lịch sử thực hiện thành cơng sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng
nhân loại ấy chính là giai cấp vơ sản.
Hơn nữa, mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân, của cách mạng xã hội
chủ nghĩa là giải phóng con người, giải phóng xã hội, vì thế mà, có thể nói, chủ
nghĩa xã hội mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ
dừng lại ở ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người, mà trong hiện thực, con người
đã từng bước được giải phóng: con người đã từ “vương quốc của tất yếu” chuyển
sang “vương quốc tự do”, “trong đó sự phát triển tự do của mỗi con người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Sự tự do đem lại cho con người


17

quyền được lao động, được phân phối công bằng của cải vật chất và tinh thần, được
tham gia vào các công việc xã hội, được phát triển và vận dụng các năng lực của
mình thực hiện những nhu cầu cơ bản. Trong chủ nghĩa xã hội, tự do cá nhân không
chỉ biểu hiện trong các quyền cá nhân được hưởng, mà còn được biểu hiện trong
nghĩa vụ và trách nhiệm - thể hiện sự phát triển xã hội và con người.
IV. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC MÁC VÀ TRIẾT HỌC
TRONG LỊCH SỬ TRONG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
Từ các nội dung phân tích ở trên, có thể khái quát rằng, quan điểm về chính
trị xã hội của triết học Mác khác hẳn về bản chất so với các trường phái triết học
khác. Cụ thể:

- Triết học Mác chủ yếu quan tâm đến vấn đề giải phóng con người, mà trước
hết là những người lao động, đến giai cấp vô sản - lực lượng sản xuất cơ bản nhất
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đây là giai cấp cùng cực nhất của xã
hội. Trong khi đó, các tư tưởng khác đa phần đều đề cao các giai cấp thống trị, một
bộ phận nhỏ trong xã hội.
- Mục tiêu của triết học Mác là tìm ra con đường phấn đấu thích hợp, để đi
tới một xã hội trong đó giữa người với người có mối quan hệ tốt đẹp, khơng cịn áp
bức bất cơng, giàu lịng nhân ái. Đó là một xã hội văn minh, phát triển hài hoa với
nền sản xuất tiên tiến cơ sở khoa học cơng nghệ hiện đại trong đó con người được
hồn tồn giải phóng, đời sống ấm no, hạnh phúc. Trong khi đó, các tư tưởng khác
nhấn mạnh đến quyền lợi của một giai cấp, xây dựng một chế độ chính trị - xã hội
phục tùng.
- Triết học Mác lấy chủ nghĩa duy vật lịch sử với lý luận về hình thái kinh tế,
với các quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, quy luật về vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã
hội, quy luật về vai trò quyết đinh của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng...
làm cơ sở khoa học để nghiên cứu sự phát triển xã hội như nghiên cứu mọt quá
trình tự nhiên.


18

- Chủ nghĩa duy vật lịch sử đòi hỏi ngiên cứu xã hội, trong lịng xã hội,
khơng tìm kiếm yếu tố bên ngoài như các tư tưởng khác.
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử xem sự thay đổi của xã hội là thuộc tính vốn có
của xã hội con người làm nên lịch sử. Triết học Mác lấy chủ nghĩa duy vật biện
chứng nhất là các quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm phát
triển làm cơ sở pháp luật để xem xét sự vận động và phát triển xã hội. Trong xã hội
có giai cấp thì đấu tranh giai cấp ln ln là động lực sự phát triển.
Triết học Mác đã dự đoán được rằng xã hội không ngừng vận động và phát

triển. Chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản, nhưng do ảnh hưởng
điều kiện lịch sử cụ thể sự phát triển không đi theo con đường một chiều thẳng tắp,
giản đơn mà phát triển vừa liên tục, vừa gián đoạn, có lúc đi nhanh, có lúc đi chậm,
có khi quanh co thậm chí có lúc tụt lùi, có thành cơng, có thất bại nhưng cuối cùng
phát triển tiến lên vẫn là tất yếu không thể thay đổi được.
KẾT LUẬN
Ngày nay, có rất nhiều tư tưởng mới về chính trị - xã hội nhằm giải quyết vấn
đề phát sinh trong xã hội. Tuy nhiên, triết học Mác nói riêng và triết học Mác-Lênin
nói chung đang là lời lý giải đúng đắn nhất.
Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất
của tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét
tự nhiên cũng nh đời sống xã hội và tư duy con người.
Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện chứng và phơng pháp biện
chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa
duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết
học Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và t ư duy. Phép
biện chứng duy vật không chỉ là lý luận về phơng pháp mà còn là lý luận về thế
giới quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành nhân tố
định hớng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất
phát điểm của phơng pháp luận.


19

Như vậy, trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và phơng pháp luận
thống nhất hữu cơ với nhau, làm cho triết học Mác trở thành chủ nghĩa duy vật
hồn bị, một "cơng cụ nhận thức vĩ đại".
Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa học;
sự phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học.
Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin không phải là đơn thuốc vạn năng có thể

giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Bởi vậy trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn cần tránh cả hai khuynh hớng sai lầm: hoặc xem thờng triết học hoặc là tuyệt
đối hóa vai trò của triết học. Nếu xem thờng triết học sẽ rơi vào tình trạng mị mẫm,
dễ bằng lịng với những biện pháp cụ thể nhất thời, dễ mất phơng hớng, thiếu chủ
động và sáng tạo. Cịn nếu tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa
giáo điều, áp dụng máy móc những nguyên lý, quy luật chung mà khơng tính đến
tình hình cụ thể trong những trờng hợp riêng, dẫn đến những vấp váp, dễ thất bại.



×