Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập? Ý nghĩa phương pháp luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.46 KB, 21 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

TRIẾT HỌC

Mã phách:

………………………

Hà Nội, tháng 11 năm 2021


BÀI VIẾT TIỂU LUẬN

Câu 1: Anh (chị) hãy trình bày quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập? Ý nghĩa phương pháp luận?
Liên hệ việc vận dụng quy luật vào thực tiễn nghề nghiệp bản thân.
TRẢ LỜI
Trong triết học, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập vẫn là
công cụ hữu hiệu giúp con người kiểm soát được động lực của sự phát triển và tiến
bộ xã hội. Tuy nhiên, vận dụng đúng và có hiệu quả quy luật này vào đời sống xã hội
bao giờ cũng khơng giản đơn. Trong khi đó, đồng thuận xã hội, ổn định xã hội, đoàn
kết xã hội,... lại cũng là những động lực của sự phát triển xã hội mà từng quốc gia
cũng như cộng đồng thế giới, từ lâu đã coi là hiển nhiên và vẫn đang không mệt mỏi
thực hiện.
Thứ nhất: Mặt đối lập
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính
quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại một cách khách quan
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.


Sự tồn tại của các mặt đối lập là khách quan và phổ biến trong tất cả các sự vật.
Thứ hai: Mâu thuẫn biện chứng
Mâu thuẫn biện chứng là trạng thái mà các mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại
lẫn nhau.
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên,
xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong
hiện thực và nguồn gốc phát triển của nhận thức.
Chúng ta cần phân biệt mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn logic hình thức.
Mâu thuẫn logic hình thức chỉ tồn tại trong tư duy, xuất hiện do sai lầm trong tư duy.
Thứ ba: Sự thống nhất của các mặt đối lập


Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách
rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia
làm tiền đề.
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có
những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó là sự “đồng nhất” của các
mặt đối lập. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của
chúng. Tuy nhiên, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn khi diễn ra sự cân
bằng của các mặt đối lập.
Cuối cùng: Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và
phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc
vào tính chất, mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và điều kiện diễn ra cuộc đấu
tranh.
Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, cụ thể như
sau:
Thứ nhất: Các mặt đối lập, sự thống và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Trong sự thống nhất đã ẩn chứa sự đối lập. Trong mâu thuẫn, sự thống nhất của

các mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì trong quy định
ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu
tranh lẫn nhau.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được chia làm nhiều giai đoạn.
Thông thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ nhưng xung khắc,
đối chọi lẫn nhau. Nhưng khi các mặt đối lập này phát triển theo hướng ngược chiều
nhau đến một mức độ nào đó sẽ hình thành mâu thuẫn. Khi đó, các mặt đối lập có xu
hướng xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau.
Thứ hai: Vai trò mâu thuẫn với sự vận động và phát triển:


Như chúng ta đã biết, từ khi Chủ nghĩa xã hội được xây dựng, các mức xã hội
chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế vận hành và quản
lý kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như đặc trưng riêng
biệt của Chủ nghĩa xã hội, là các đối lập với nền kinh tế thị trường.
Các nước tư bản chủ nghĩa cũng đã từng sử dụng cơ chế kinh tế tập trung
nhưng nhanh chóng bỏ nó ngay sau chiến tranh và đã đạt được thành tựu to lớn về
kinh tế và xã hội. Nhưng nền kinh tế thị trường vẫn gặp phái rất nhiều mâu thuẫn tồn
tại.
Thứ ba: Tính khách quan và phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn):
Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy là tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế
giới đều luôn luôn khác biệt nhau, nhưng tất cả các sự vật, hiện tượng đó là tồn tại
trong mối liên hệ phổ biến với nhau. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
có tính khách quan vì cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng và tính phổ biến do sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong tất cả các lĩnh vực.
Do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có tính khách quan và phổ
biến nên nó có tính đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong mỗi
lĩnh vực khác nhau. Hay trong mỗi một sự vật, hiện tượng khơng chỉ có một mức độ
nào đó thì mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đặt đến một mức độ nào đó

thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết, sự vật mới ra đời. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn
mới ra đời và hình thành một q trình mới, làm cho sự vật khơng ngừng vận động và
phát triển.
Thứ tư: Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhìn từ góc độ triết
học:
Nhìn chung, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường vận
động theo cơ chế của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nếu để tự phát, nền
kinh tế nhiều thành phần sẽ đi lên Chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu có sự đấu tranh thì


có thể giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một q trình khó khăn,
phức tạp nhất là đối với Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế.
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trị quản
lý của nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước trực tiếp quyết định các vấn đề kinh
tế, xã hội.
Hiện nay, cơ chế quản lý trong giai đoạn mới hình thành nên cịn đang thiếu
hụt, chưa hồn chỉnh, dẫn tới mơi trường sản xuất, kinh doanh thiếu ổn định, an tồn.
Tính chất không rõ ràng, thiếu xác định trên cả phương diện kinh tế - xã hội dường
như đang rất phổ biến, rất đặc trưng cho các quan hệ trong nền kinh tế nước ta. Do
đó, q trình chuyển hóa này vấp phải khá nhiều mâu thuẫn nội tại.
Ví dụ quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Trong mỗi mâu thuẫn thường có hai mặt đối lập liên hệ gắn bó với nhau tạo
tiền đề cho nhau cùng tồn tại, triết học gọi đó là sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Ví dụ như trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo
những chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất,
sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Cịn tiêu dùng là mục
đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm được sản xuất ra đều cần có
người tiêu dùng.
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu
dùng. Nếu như khơng có q trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ khơng

thể có tiêu dùng.
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng, đây
không phải là đối tượng nói chúng mà là đối những đối tượng nhất định do bản thân
sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất khơng chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó cịn quyết định về
phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu


cầu cho người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại sản phẩm
nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm đó.
Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của
hai mặt đối lập, chúng có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ
với nhau từ đó tạo điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
- Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập làm sáng tỏ nguồn
gốc của sự vận động, phát triển của các sự vật và có ý nghĩa phương pháp luận
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
+ Phải có thái độ khách quan trong việc nhận thức mâu thuẫn của sự vật đó là
thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, xuất phát từ
bản thân sự vật để tìm ra mâu thuẫn của nó, phải xem xét phân tích một cách chi tiết,
cụ thể.
+ Phải nắm vững phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó là thơng qua đấu tranh
giữa các mặt đối lập chứ khơng được phép dung hịa các mặt đối lập, tuy nhiên phải
vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh.
+ Phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức giải quyết mâu thuẫn thơng qua
hình thức chuyển hóa mặt đối lập. Đó có thể là một trong hai mặt đối lập chuyển hóa
vào mặt cịn lại, hoặc mặt này thủ tiêu mặt kia, hoặc cả hai mặt cùng chuyển hóa sang
những hình thức mới của mình.

Ngày nay, trong đời sống xã hội, hầu hết các mâu thuẫn xã hội và các hiện
tượng có liên quan đến xung đột xã hội, dù ở phạm vi nhóm nhỏ hay cộng đồng, quốc
gia cũng như quốc tế, cũng đều tiềm ẩn những nguy cơ tiêu cực, ln có khuynh
hướng dẫn tới những hậu quả nguy hiểm làm đổ vỡ xã hội, thậm chí chiến tranh.
Khơng phải ngẫu nhiên mà các chủ đề đồng thuận xã hội, đoàn kết xã hội, giảm thiểu
xung đột xã hội, chung sống hịa bình, giải quyết tranh chấp bằng phương pháp phi


bạo lực, hịa giải và hồ hợp dân tộc hay mềm dẻo về sách lược... luôn luôn là chủ đề
thường trực trong đời sống chính trị xã hội của các quốc gia và cộng đồng thế giới.
Vấn đề là ở chỗ, nếu chủ trương không thể sử dụng giải pháp nhân nhượng
trong việc giải quyết mâu thuẫn, mọi mâu thuẫn xã hội cần phải được giải quyết triệt
để, cả hai mặt đối lập đều cần phải đấu tranh đến mức tự xóa bỏ, làm cho sự vật trở
thành cái mới..., như địi hỏi của lý thuyết mâu thuẫn, thì hậu quả xã hội của điều đó
rõ ràng là khơn lường. Học thuyết mâu thuẫn của triết học duy vật biện chứng trong
những trường hợp rất phổ biến này, cần phải được giải thích như thế nào, liệu nó (học
thuyết mâu thuẫn - quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập) có sai hay
hoặc có gì bất hợp lý ở đây không?
Thực ra vấn đề này không mới. Từ lâu các nội dung có liên quan đến vấn đề đã được
tranh cãi và thảo luận trong khuôn khổ các chủ đề như điều hòa mâu thuẫn, sự kết
hợp giữa các mặt đối lập hay sự thỏa hiệp, liên minh nhất thời giữa các lực lượng đối
lập, sự tự tiêu hủy của mâu thuẫn... Lý luận về xung đột xã hội được cho là khởi
nguồn từ C.Mác, nhưng ngày nay cũng trở thành một bộ môn trong xã hội học
phương Tây có mục đích là giải quyết xung đột xã hội chủ yếu bằng các công cụ
pháp lý và chính trị, để tránh bạo lực xã hội.
Về phương diện triết học, những người ủng hộ phương thức triệt để trong giải
quyết mâu thuẫn thường cho rằng, ở đây có sự lầm lẫn trong phân loại mâu thuẫn xã
hội: Khơng phải tất cả, mà chỉ có số ít mâu thuẫn xã hội hay xung đột xã hội là mâu
thuẫn biện chứng. Chỉ những hiện tượng nào chứa trong nó sự đối lập về một thuộc
tính hoặc về một khuynh hướng đối lập nhau thì mới được xem là mâu thuẫn biện

chứng. Tuy vậy, ngay cả điều này cũng đã từng tranh cãi không hồi kết. Bởi ngay cả
mâu thuẫn giữa hai cá nhân, mâu thuẫn trong nội bộ dân cư, hay các xung đột ngẫu
nhiên trong đời sống xã hội... cũng hồn tồn có thể tìm thấy sự đối lập về lợi ích
hoặc đối lập về một khuynh hướng, một tính chất nào đó.
Khơng cần thiết phải sa vào những tranh cãi khá phức tạp đó, chúng tơi muốn
nói rằng những vấn đề như điều hòa mâu thuẫn, sự kết hợp giữa các mặt đối lập,
đoàn kết xã hội, đồng thuận xã hội. (trong đa số các trường hợp) đều là những nội
dung lý luận có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội. Không thể chỉ


vì trung thành với lý luận về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập mà
buộc phải xem nhẹ hay phủ nhận ý nghĩa tích cực của việc giải quyết mâu thuẫn xã
hội theo các chiều hướng đó.
Trong khi thừa nhận mâu thuẫn là động lực của sự phát triển, chúng tôi cho
rằng việc giải quyết mâu thuẫn xã hội bằng các biện pháp điều hòa mâu thuẫn, kết
hợp giữa các mặt đối lập, đoàn kết xã hội, đồng thuận xã hội, thương lượng giữa các
lực lượng xã hội,... cũng đều là các phương thức có ý nghĩa tích cực đối với sự phát
triển xã hội, nếu việc giải quyết triệt để mâu thuẫn xã hội có thể gây những tổn thất
lớn hơn đối với xã hội. Với những vấn đề như mâu thuẫn cá nhân, mâu thuẫn nhóm
xã hội trong nội bộ dân cư, xung đột sắc tộc, mâu thuẫn quốc gia, chiến tranh và hịa
bình..., thì điều hịa mâu thuẫn để đạt tới đồn kết xã hội, đồng thuận xã hội, ổn định
xã hội và tránh chiến tranh... gần như có nghĩa tuyệt đối. Nghĩa là khơng thể phủ
nhận đó là những động lực thực sự của sự phát triển xã hội, có ý nghĩa tích cực cả
trước mắt và lâu dài đối với tiến bộ xã hội.
Mặt khác, như việc vận dụng quy luật vào thực tiễn hiện nay trong đơn vị như:
công tác phê bình và tự phê bình đánh giá một con người thì phải đánh giá các mặt
trong con người đó. Tức là đánh giá 2 mặt trong một vấn đề. Trong một tập thể chi
bộ, cơ quan đơn vị con đường đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn, đây là con đường
duy nhất, đúng đắn và đây cũng là lẽ sống. Cần thực hiện tốt công tác đấu tranh phê
bình, tự phê bình (Nghị quyết Trung ương 4) từ đó tìm ra các giải pháp, phương

hướng giải quyết phù hợp nâng cao nhận thức, chất lượng từng đảng viên từ đó giúp
sinh hoạt Chi bộ đạt hiệu quả càng cao. Vì vậy bản thân là đảng viên, là cơng chức
phải gương mẫu, nêu gương thực hiện tốt công tác phê bình và tự phê bình mạnh dạn
đấu tranh với những biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống phai
nhạt lý tưởng; bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người tốt. Bản thân luôn trong sáng trong công
việc, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện sai trái, luôn thực hiện đúng các quy
định của Đảng và Nhà nước.Bản thân hành đúng và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung
dân chủ, luôn nêu cao tinh thần ý thức tổ chức kỷ luật, tuyệt đối chấp hành sự phân
công điều động của tổ chức. Thực hiện đúng không vi phạm quy định về những điều
đảng viên không được làm.Ln có tinh thần cầu thị, lắng nghe, tiếp thu sửa chữa


khuyết điểm và đấu tranh với các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lối sống
thực dụng, nói khơng đi đơi với làm.Thực hiện tự phê bình và phê bình; tơn trọng,
lắng nghe ý kiến đóng góp phê bình; đấu tranh với những biểu hiện chia rẽ, bè phái,
làm mất đồn kết nội bộ.
Tóm lại, Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật không dễ vận
dụng. Quan điểm và thái độ của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về mâu thuẫn trong
các tác phẩm kinh điển đều rất triệt để. Sứ mệnh lịch sử của các ông thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX là làm cách mạng xã hội nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn
thế giới để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, nên tư tưởng về mâu
thuẫn của các ông rất phù hợp với thái độ triệt để cách mạng, không khoan nhượng,
đẩy sự vận động của mâu thuẫn đến tận cùng, xóa bỏ cái cũ đến tận gốc, xây dựng cái
mới. Tuy nhiên, thái độ tuyệt đối hóa tính triệt để trong việc giải quyết các mâu thuẫn
xã hội, về mặt lơgíc sẽ đương nhiên có xu hướng dẫn đến phá vỡ ổn định chính trị,
xóa bỏ trật tự hiện tồn, xóa bỏ sự đồng thuận xã hội, đoàn kết xã hội..., và kết cục sẽ
là xung đột xã hội gia tăng. Đó là điều có thể tránh được.
* Liên hệ việc vận dụng quy luật vào thực tiễn nghề nghiệp bản thân.
Bản thân tôi là một cán bộ quản lý giáo dục tôi thấy quy luật thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập thể hiện rất rõ nét trong tất cả các mặt hoạt động cũng như

các mối quan hệ như:
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt chất lượng giáo dục (đầu ra) với
thu hút tuyển sinh (đầu vào) của các nhà trường.
Ta thấy giữa chất lượng giáo dục ( đầu ra ) của các nhà trường và tuyển sinh
(đầu vào) phát triển theo chiều hướng trái ngược với nhau. Đầu vào chính là việc
cung cấp cho nhà trường học sinh để nhà trường thực hiện quá trình giáo dục, đào tạo
để tạo ra sản phẩm của giáo dục chính là đầu ra. Cịn đầu ra chính là mục đích cuối
cùng của q trình giáo dục và đào tạo của các nhà trường.


Nếu như khơng có việc tuyển sinh (đầu vào) thì sẽ khơng có đối tượng để tạo
ra q trình giáo dục và đào tạo cũng như khơng thể có đầu ra cho giáo dục.
Do đó việc tuyển sinh đầu vào sẽ định hướng cho việc thực hiện quá trình giáo
dục và đào tạo như thế nào để có đầu ra đạt chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu
cần đạt của cấp học. Và ngược lại, chất lượng đào tạo( đầu ra) ảnh hưởng không nhỏ
đến việc tuyển sinh đầu vào của các nhà trường. Nếu chất lượng đào tạo tốt thì nhà
trường có uy tín, có sức hút, học sinh đông và ngược lại, nếu chất lượng giáo dục
thấp, đầu ra không đáp ứng được yêu cầu, chất lượng khơng cao thì khơng thu hút
được học sinh.
Như vậy có thể thấy trong thể thống nhất đó là q trình giáo dục và đào tạo
của nhà trường luôn song song tồn tại hai mặt đối lập và thống nhất với nhau đó là
tuyển sinh đầu vào và chất lượng giáo dục ( đầu ra). Hai mặt này là đối tượng của
nhau, tạo ra nhau, đấu tranh với nhau và quyết định lẫn nhau. Giữa chúng có mỗi
quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ đó tạo điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa,
cùng phát triển.
Câu 2: Trình bày cơ sở lí luận và nội dung nguyên tắc lịch sử cụ thể. Vận dụng
cơ sở lí luận và nội dung đó trong thực tiễn như thế nào?
Liên hệ việc vận dụng quy luật vào thực tiễn nghề nghiệp bản thân.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể (quan điểm lịch sử cụ thể) là khoa học về mối liên
hệ phổ biến và về sự phát triển, tức là một hệ thống các nguyên lý, quy phạm, phạm

trù nói về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển xảy ra trong toàn bộ thế giới. Mỗi
sự vật, hiện tượng hay quá trình tồn tại trong hiện thực đều được tạo thành từ những
yếu tố, bộ phân khác nhau; có mn vàn sự tương tác (mối liên hệ, quan hệ) với nhau
và với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau; qua đó nó bộc lộ ra thành
những đặc điểm tính chất khơng giống nhau. Thêm vào đó, mỗi sự vật, hiện tương
hay quá trình đều tồn tại trong tiến trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chính
mình; q trình này thể hiện một cách cụ thể bao gồm mọi sự thay đổi và phát triển
diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, tương tác với những sự vật, hiện


tượng hay q trình khác nhau, trong những khơng gian và theo những thời gian
không như nhau.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể bao gồm toàn bộ nội dung của
hai nguyên lý là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai ngun lý cơ bản và đóng
vai trị xương sống trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác – Lênin khi xem
xét, kiến giải sự vật, hiện tượng. Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Nội dung hai nguyên lý
cơ bản như sau:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện
tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện
tượng trong thế giới.
- Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong trong đó khi xem
xét sự vật, hiện tượng khách quan phải ln đặt chúng vào q trình luôn luôn vận
động và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật).
Phương pháp thống nhất cái lịch sử và cái lơgíc
Vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể vào thực tế, nhất thiết phải áp dụng phương
pháp lịch sử và phương pháp logic. Phương pháp lịch sử là phương pháp diễn lại tiến

trình phát triển của các hiện tượng và các sự kiện lịch sử với mọi tính chất cụ thể của
chúng. Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử,
nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức tổng quát, nhằm vạch ra bản chất
quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận động của chúng. Tiêu chuẩn của chân
lý là lý luận ăn khớp với thực tiễn, tức là cái lơgích phản ảnh đúng bản chất của lịch
sử. Mặc khác, trong nhận thức, cái lơgíc khái quát được mà chưa được thực tiễn lịch
sử kiểm tra thì chưa hẳn đã là chân lý, vì chân lý bao giờ cũng cụ thể trong tri giác,
Lê-nin nhấn mạnh: “nếu chân lý là trừu tượng thì tức là khơng phải chân lý”. Vì thế,
trong thực tế, hai phương pháp lịch sử và lơgíc phải thâm nhập vào nhau và ảnh
hưởng lẫn nhau.


Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc lịch sử – cụ
thể sẽ mang lại hiệu quả gì? Ngược lại nếu khơng tơn trọng ngun tắc lịch sử – cụ
thể sẽ mang lại hậu quả gì?
Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại
và phát triển cụ thể của những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể,
áp dụng cho những sự vật cụ thể, đang tồn tại trong những điều kiện, hồn cảnh, quan
hệ cụ thể mà khơng nên áp dụng những khuôn mẫu chung chung cho bất cứ sự vật
nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể nào.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc lịch sử – cụ
thể sẽ giúp nhận thấy:
- Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua
những độ nào; đang (đã hay sẽ) thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên những
chất, lượng mới nào…
- Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu
thuẫn đó đang nằm ở giai đoạn nào, có vai trị như thế nào đến sự vận động, phát triển
của sự vật…
- Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái cũ

nào đang (đã hay sẽ) phải mất đi, cái mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện…
- Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là những
cái riêng hay cái đơn nhất, điều gì là cái chung hay cái đặc thù/ cái phổ biến; chung
quy định nhau, chuyển hóa lẫn nhau như thế nào
- Bản chất của sự vật là gì, nó được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện
tượng nào là giả tưởng, hiện tượng nào là điển hình
- Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thơng qua những hình
thức nào; hình thức nào phù hợp với nội dung của sự vật, hình thức nào khơng phù
hợp với nội dung, cái gì làm cho nội dung của sự vật biến đổi
- Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh
ra những khả năng nào; mỗi khả năng đó trong những điều kiện cụ thể nào có độ tất
yếu hiện thực hóa ra sao…


Nhận biết được những điều đó sẽ giúp ta:
+ Có quan điểm đánh giá chính xác đặc điểm cũng như những điểm mạnh,
điểm yếu của sự vật đó
+ Dễ dàng có phương hướng, hành động đúng đem lại hiệu quả
+ Áp dụng những chính sách cụ thể vào tình hình thực tế một cách đúng đắn,
mang lại thắng lợi.
+ Tổng quát được các sự kiện xảy ra trong nghiên cứu khoa học hay các biến
cố xảy ra trong các tiến trình lịch sử nhân loại; nhận thức được tính mn vẻ của tự
nhiên, tính phong phú của lịch sử trong sự thống nhất.
- Nguyên tắc lịch sử – cụ thể còn được coi là “linh hồn” phương pháp luận của
triết học Mác – Lênin. Nó tổng hợp trong mình những nguyên tắc, quan điểm, yêu
cầu mang tính phương pháp luận của triết học Mác – Lênin, do đó, hiểu theo nghĩa
rộng, nó cũng chính là phương pháp biện chứng. Vì thế trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn, nếu không tôn trong nguyên tắc lịch sử – cụ thể đồng nghĩa với việc đi
ngược lại với phương pháp biện chứng, tức phương pháp siêu hình:
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh

thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đấy chỉ là sự
biến đổi về số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng.
Mà hậu quả của phương pháp siêu hình là làm cho con người chỉ nhìn thấy
những sự vật riêng biệt mà khơng nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy,
chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà khơng nhìn thấy sự phát sinh và sự
tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà
quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà khơng thấy rừng.
Nội dung của nguyên tắc
Về nội dung của nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn được
V.I.Lênin nêu rõ là phải xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng
nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai
đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem
hiện nay nó đã trở thành như thế nào.


Như vậy, nguyên tắc lịch sử - cụ thể tái tạo lại sự vật, hiện tượng thơng qua
lăng kính của những ngẫu nhiên, những bước quanh co, những gián đoạn theo tình tự
khơng gian và thời gian, theo trình tự của sự hình thành sự vật, hiện tượng; nhờ đó
mà có thể phản ánh được sự vận động đa dạng và nhiều vẻ của các hình thức biểu
hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó.
- Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ
biến, là phương thức tồn tại của vật chất; nghĩa là phải nhận thức được rằng, vận
động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định
và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó.
- Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu phải chỉ rõ được những giai đoạn mà nó
đã trải qua trong q trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ
thể trong nhận thức và thực tiễn, để nhận thức và giải thích được những thuộc tính,
những mối liên hệ tất yếu đặc trưng, những chất và lượng vốn có của sự vật, hiện
tượng.

- Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn yêu cầu chỉ ra được mối liên hệ khách quan;
chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hố thành sự vật, hiện tượng
mới thơng qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ định, sự
vật, hiện tượng phủ định là sự kế tục sự vật, hiện tượng bị phủ định, là sự bảo tồn sự
vật, hiện tượng bị phủ định trong dạng đã được cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện
tượng phủ định.
- Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn luôn quán triệt nguyên tắc
lịch sử - cụ thể để nhận thức sự vật, hiện tượng với đầy đủ các mối liên hệ trong sự
tồn tại khách quan vốn có của nó, để nhận thức được vị trí, vai trị của từng mối liên
hệ quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
* Vận dụng cơ sở lí luận và nội dung đó trong thực tiễn
Trong việc ứng phó với diễn biến của dịch bệnh Covid -19 ở nước ta hiện nay
Cho đến hết quý I năm 2021, tình hình dịch bệnh ở nước ta vẫn trong tầm kiểm
soát. Các ca nhiễm mới trong nước hầu hết đều được phát hiện khi đã ở trong khu


vực cách ly. Các ca nhiễm trong cộng đồng chỉ là cá biệt và được phát hiện, khoanh
vùng và đưa đi cách ly ngay sau khi nghi mắc hay có kết quả xét nghiệm dương tính.
Tuy vậy, với việc các biến chủng mới liên tục xuất hiện với tính chất lây lan
nhanh hơn so với chủng loại ban đầu và sự lơ là chủ quan của một số địa phương
cũng như người dân nên tình hình dịch bệnh từ quý II/2021 trở nên cực kỳ phức tạp
và nghiêm trọng. Đặc biệt là sau kỳ nghỉ lễ 30/4 – 01/05. Tính đến ngày 13/9/2021.
Tình hình dịch bệnh nghiêm trọng nhất là ở các tỉnh phía Nam bao gồm: TP. Hồ Chí
Minh, Bình Dương, Đồng Nai và Long An.
Đánh giá sự vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong công tác phịng
chống dịch COVID 19 ở Việt Nam
Cơng tác chống dịch của nước ta luôn được Đảng, Nhà nước và Chính phủ
quan tâm, chỉ đạo rất mạnh mẽ. Do đó Nhà nước cũng đã đưa ra những chính sách
phù hợp, linh hoạt, mạnh mẽ theo hướng đổi mới, sáng tạo vận dụng theo nguyên tắc

lịch sử - cụ thể như kim chỉ nam để phù hợp với từng thời điểm diễn ra trên thực tế.
Cơng tác phịng chống dịch COVID 19 ở nước ta đạt được những kết quả, cũng có
những hạn chế trong cơng tác này, cụ thể như sau:
Những kết quả đạt được
Thứ nhất, Việt Nam đã huy động mọi nguồn lực và cả hệ thống chính trị vào
cuộc. Ngay từ những ngày đầu khi dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát, Việt Nam đã
chủ động huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị trên tồn quốc cùng phòng
chống dịch. Hàng loạt văn bản chỉ đạo của Đảng, Chính phủ được ban hành, nhiều
phương án, biện pháp phòng chống được triển khai nhằm nhắc nhở người dân mức độ
nguy hại của dịch bệnh, đồng thời nâng cao nhận thức và sự đồng thuận, thống nhất
giữa các cấp ủy Đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Các hoạt động
phịng chống dịch khơng chỉ được thực hiện bởi ngành y tế, mà cịn có sự tham gia
của lực lượng vũ trang, ngoại giao, các cơ quan thông tấn, báo chí. Các chủ trương,
chính sách của Đảng và Chính phủ được nhân dân ủng hộ, chung tay thực hiện.


Thứ hai, tạo ra khuôn khổ hành lang pháp lý và thể chế tương đối đầy đủ, rõ
ràng, minh bạch và hiệu quả đối phó với dịch bệnh và nhấn mạnh bảo vệ quyền con
người. Để đối phó với dịch bệnh, Việt Nam đã có khung pháp lý và thể chế tương đối
đầy đủ, rõ ràng, minh bạch và hiệu quả. Về pháp lý, có thể khẳng định, các chỉ đạo,
bước đi trong công tác lãnh đạo của Đảng và Chính phủ đều dựa trên cơ sở đánh giá
thực tiễn và luật pháp. Trong thời gian đối phó với đại dịch COVID-19, Nhà nước đã
đưa ra nhiều văn bản cấp thiết đối với tình hình, trong đó có Quyết định số 447/QĐTTg công bố dịch bệnh trên cả nước, đồng thời bắt buộc thực hiện các quy định trong
các văn bản, chỉ thị của Thủ tướng như Chỉ thị 16/CT-TTg.
Thứ ba, Việt Nam có những quyết sách nhanh chóng, kịp thời và quyết liệt.
Căn cứ tình hình thực tế, Chính phủ Việt Nam đưa ra những chỉ thị, nghị định, mang
tính hành động nghiêm khắc, quyết liệt; Chính phủ ban hành Nghị quyết 42/NQ-CP
về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Đến đợt dịch
thứ 4 kể từ tháng 05/2021, do tình hình dịch bệnh tại Việt Nam chuyển biến có nhiều
ca lây nhiễm cộng đồng khơng kiểm sốt được do đó các Chỉ thị 15, Chỉ thị 16 và Chỉ

thị 19 đều là những chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp phòng, chống
dịch COVID-19 được ban hành để phù hợp từng địa phương trong những thời điểm
khác nhau. Không chỉ có những quyết sách kịp thời, Việt Nam cịn thường xuyên cập
nhật và tuyên truyền cho người dân qua nhiều kênh thơng tin.
Thứ tư, Chính phủ Việt Nam đưa ra những quyết sách tạo sự cơng bằng. Trong
ứng phó với dịch bệnh, Việt Nam đã có cách tiếp cận công bằng với mọi đối tượng
khác nhau trong xã hội, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo. Các chỉ thị của
Đảng và Chính phủ đều bảo đảm để mọi người dân đều được tiếp cận với các cơ sở,
dịch vụ y tế và vật tư y tế.
Thứ năm, trong ứng phó với dịch COVID-19, trách nhiệm giải trình được thể
hiện qua trách nhiệm trong nội bộ và trách nhiệm đối với xã hội. Trách nhiệm trong
nội bộ được nêu rõ trong các văn bản chỉ đạo của Ban Bí thư và Chính phủ. Chẳng
hạn, chỉ thị 19/CT-TTg của Thủ tướng nêu rõ: “Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan


thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục (...) đề cao
kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm của người đứng đầu, thực hiện nghiêm các biện pháp
phịng, chống dịch”. Theo đó, các cơ quan có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc các
chỉ đạo và chịu trách nhiệm trước Chính phủ, giải trình với Chính phủ, Thủ tướng các
vấn đề trong q trình phịng chống dịch bệnh.
Những vấn đề cịn hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm, cơng tác phòng chống dịch COVID-19 cũng còn
những bất cập do dịch bệnh phức tạp với biến thể mới xảy ra trên diện rộng, nguồn
lực trong nước chưa kịp thời đáp ứng đầy đủ, cụ thể:
Hành lang pháp lý và thể chế đối phó với dịch bệnh cịn cứng nhắc chưa phù
hợp với thực tế. Đặc biệt kể từ đợt dịch thứ 4 bùng phát, tại một số địa phương có
những khung pháp lý khi áp dụng vào thực tế còn cứng nhắc, chưa phù hợp. Mỗi tính
có quy định riêng như việc quy định các mặt hàng thiết yếu nên dẫn đến tỉnh này cho
mặt hàng đó là thiết yếu được lưu chuyển tỉnh khác thì khơng cho đó là thiết yếu.
Việc giãn cách xã hội quá nhiều ngày từ khi dịch bùng phát mạnh khiến nhiều

người gặp khó khăn do dịch đã chạy xe máy về quê vì nếu cịn tiếp tục ở lại khơng có
thu nhập mưu sinh. Trên thực tế vẫn cịn nhiều trường hợp khơng chứng minh được
dẫn đến “không đủ điều kiện” để được hưởng trợ cấp do dịch, dẫn đến việc người dân
không chấp hành Chỉ thị, chống đối
Kể từ khi đại dịch COVID-19 xuất hiện tại Việt Nam đến nay, cộng đồng
doanh nghiệp vẫn nỗ lực duy trì sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, riêng về mặt kinh
tế, tác động nguy hiểm khác với những lần bùng phát dịch trước là ứng xử của các địa
phương với dịch lần này đã gây ra đổ vỡ chuỗi cung ứng, doanh nghiệp hoạt động
của họ đã bị ảnh hưởng do một số khu vực đã bị đóng cửa, làm dấy lên lo ngại về sự
gián đoạn chuỗi cung ứng. Ngồi ra, cịn là khó khăn của toàn thể các doanh nghiệp
lớn, nhỏ nếu tiếp tục diễn biến phức tạp sẽ nhiều doanh nghiệp phá sản, mất khả năng
thanh toán,..


Phương hướng khắc phục
Trong các hành lang pháp lý như chỉ thị, quyết định và hướng về phòng, chống
dịch COVID-19 của Đảng, Nhà nước ngồi nhanh chóng, kịp thời, quyết liệt còn cần
phải đặt các quy định này trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa trong các
hình thức biểu hiện với không gian và thời gian nhất định.
Các thông tin liên quan đến dịch COVID-19 và hoạt động phịng, chống dịch
của Chính phủ phải được cơng bố đầy đủ, cập nhật, rõ ràng, dễ truy cập và dễ hiểu
đối với mọi người dân. Mọi người dân đều phải được tiếp cận để có thể nhận thức
được vấn đề nghiêm trọng trong việc phòng chống dịch COVID 19 để có thể tạo
được sự đồng thuận trong xã hội.
Kêu gọi các tỉnh thành chung tay quyên góp hỗ trợ những khu vực cịn khó
khăn, và thực tế đến tận tay các hồn cảnh, khơng để xảy ra các vấn đề trung gian.
Triển khai các chính sách hỗ trợ tới từng người dân bị ảnh hưởng COVID-19 để
người dân sớm ổn định đời sống trong và sau dịch bệnh. Đồng thời, các tổ chức
doanh nghiệp cần có chính sách hỗ trợ trong thời gian dịch sớm ổn định sản xuất và
phát triển kinh tế.

Nhà nước cần đẩy mạnh việc tiếp cận nguồn vắc xin ngồi nước và đẩy nhanh
q trình nghiên cứu vắc xin trong nước để chủ động hơn nữa trong công tác đẩy lùi
dịch bệnh.
Riêng trong ngành GDĐT, Cụ thể như ở Vĩnh Long. Quán triệt Chỉ thị số
24/CT-TTg, ngày 03 tháng 9 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh
triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tổ chức dạy học an toàn, bảo đảm chương trình và
mục tiêu chất lượng giáo dục, đào tạo ứng phó với đại dịch Covid-19; Thực hiện Chỉ
thị số 800/CT-BGDĐT, ngày 24 tháng 8 năm 2021 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo (GDĐT) về thực hiện nhiệm vụ năm học 2021-2022 ứng phó với dịch
COVID-19, tiếp tục thực hiện đổi mới, kiên trì mục tiêu chất lượng GDĐT; Triển
khai thực hiện Kế hoạch số 1951/KH-SGDĐT, ngày 26 tháng 8 năm 2021 của Sở


GDĐT về “Dạy học hiệu quả - Đảm bảo an toàn Covid-19” năm học 2021-2022; Để
thực hiện một số nhiệm vụ chung như: Bảo đảm an toàn trường học, chủ động, linh
hoạt thực hiện chương trình, kế hoạch năm học để ứng phó với diễn biến phức tạp, đa
chiều của dịch Covid-19; Triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông ban
hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ
GDĐT (Chương trình GDPT 2018) đối với lớp 6, tiếp tục thực hiện Chương trình
giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 162006/QĐ-BGDĐT ngày
05/5/2006 của Bộ trưởng Bộ GDĐT (Chương trình GDPT 2006) đối với các lớp từ
lớp 7 đến lớp 12; bảo đảm hồn thành chương trình năm học đáp ứng u cầu về chất
lượng giáo dục trong tình huống diễn biến phức tạp của dịch COVID-19,…
Bản thân tham mưu lãnh đạo đã chỉ đạo triển khai kịp thời đến các cơ sở giáo
dục và các tổ chuyên môn bằng các văn bản với một số nội dung như sau:
Thứ nhất, tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19
Tiếp tục đẩy mạnh cơng tác tun truyền phịng, chống dịch COVID-19 trong
tồn đơn vị và với phụ huynh, học sinh, cộng đồng; phối hợp chặt chẽ với cơ quan y
tế địa phương để hướng dẫn, chỉ đạo cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh luôn
nghiêm túc thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch; thường xuyên theo dõi sức

khỏe, báo cáo ngay với cơ quan y tế khi thấy có những biểu hiện bất thường gần với
các dấu hiệu biểu hiện của dịch COVID-19.
Kiểm tra, rà soát để bổ sung, bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế; thực
hiện vệ sinh trường lớp; đối với các cơ sở giáo dục được trưng dụng làm cơ sở cách
ly y tế liên quan đến cơng tác phịng, chống dịch COVID-19 thì phải được tổng vệ
sinh, khử trùng thật kĩ trước khi đưa trở lại thực hiện nhiệm vụ năm học mới.
Thực hiện các biện pháp giãn cách trong điều kiện có thể; thường xuyên nhắc
nhở cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh rửa tay sát khuẩn, hạn chế tụ tập số đông
khi không thật cần thiết.


Theo dõi, kịp thời phát hiện sớm các trường hợp có biểu hiện nghi ngờ mắc
COVID-19, báo cáo với cơ quan y tế địa phương để thực hiện phương án xử lí theo
đúng quy định.
Thứ hai, xây dựng kế hoạch giáo dục nhà trường để chủ động, linh hoạt ứng
phó với tình hình COVID-19, bảo đảm hồn thành chương trình năm học
Các cơ sở giáo dục xây dựng Kế hoạch của nhà trường theo hướng điều chỉnh
nội dung dạy học của Bộ GDĐT (khi có chỉ đạo cụ thể), trong đó bảo đảm yêu cầu
thực hiện nội dung cốt lõi, làm cơ sở để chủ động, linh hoạt trong tổ chức thực hiện
các nội dung còn lại phù hợp với tình hình phịng, chống dịch Covid-19; xây dựng
các phương án dạy học khác nhau căn cứ vào tình hình dịch Covid-19 tại địa phương
trong đó ưu tiên dạy học trực tuyến đối với các nội dung mang tính lí thuyết, có thể
hướng dẫn học sinh khai thác sách giáo khoa để học tập hiệu quả; tận dụng tối đa
khoảng thời gian học sinh có thể đến trường để dạy học trực tiếp, nhất là các nội dung
thực hành, thí nghiệm kết hợp với việc ôn tập, củng cố những nội dung đã học trực
tuyến. Thực hiện có hiệu quả các hình thức, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá,
đảm bảo hồn thành chương trình đúng kế hoạch thời gian năm học đã được Ủy ban
nhân dân tỉnh phê duyệt.
Thực hiện kế hoạch giáo dục theo khung thời gian 35 tuần thực học (học kỳ I:
18 tuần, học kỳ II: 17 tuần). Bên cạnh phân phối chương trình tham khảo do Sở

GDĐT ban hành, căn cứ vào thực tiễn đơn vị, các cơ sở giáo dục có thể linh hoạt xây
dựng phân phối chương trình riêng, trong đó đảm bảo thời gian kết thúc học kỳ I, kết
thúc năm học theo Quyết định số 2289/QĐ-UBND, ngày 27 tháng 8 năm 2021 của
Ủy ban nhân dân tỉnh.
Đối với lớp 6 thực hiện theo Chương trình GDPT 2018. Các cơ sở giáo dục xây
dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục của nhà trường theo Công văn số
1746/SGDĐT-GDTrH-GDTX, ngày 26/7/2021 của Sở GDĐT về việc triển khai thực
hiện chương trình GDTrH năm học 2021-2022; chỉ đạo tổ/nhóm chun mơn, giáo
viên xây dựng kế hoạch dạy học bám sát yêu cầu cần đạt theo Chương trình GDPT


2018, vận dụng linh hoạt các bộ sách giáo khoa để tổ chức hiệu quả dạy học trực tiếp
và trực tuyến.
Nói tóm lại, nét quan trọng nhất của nguyên tắc lịch sử cụ thể là mô tả sự kiện
cụ thể theo trình tự nghiêm ngặt của sự hình thành sự vật, hiện tượng. Giá trị của
nguyên tắc này là ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản ánh được sự vận động lịch sử phong
phú và đa dạng của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó,
nhận thức được bản chất của nó từ đó áp dụng trong thực tiễn sẽ đạt hiệu quả cao./.
* Liên hệ việc vận dụng quy luật vào thực tiễn nghề nghiệp bản thân.
Là một cán bộ quản lý tại cơ sở giáo dục, việc vận dụng quy luật trên vào thực
tế nghề nghiệp được thể hiện như sau:
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid - 19 đang diễn biến hết sức phức tạp cho nên
đòi hỏi ngành giáo dục nói chung và các cơ sở giáo dục nói riêng phảiứng phó một
cách linh hoạt ở từng thời điểm nhằm đảm bảo mục tiêu kép đó là vừa phịng chống
dịch bệnh đồng thời thực hiện nhiệm vụ giáo dục trong năm học của ngành đề ra.
- Hiện nay ở Việt Trì - Phú Thọ tình hình dịch bệnh đang rất căng thẳng, số ca
nhiễm Covid ngày càng tăng và ở hầu khắp các phường xã của thành phố. Vì vậy học
sinh phải tạm dừng đến trường để đảm bảo an tồn trong cơng tác phịng dịch.
Tuy nhiên để đảm bảo mục tiêu đề ra trong nhiệm vụ năm học, với phương châm
" dừng đến trường nhưng không dừng học", các nhà trường đã xây dựng kế hoạch

dạy học theo từng giai đoạn cụ thể phù hợp với đặc điểm tình hình nhà trường cũng
như tình hình chung của tồn thành phố.
Việc thích ứng linh hoạt trong hồn cảnh lịch sử cụ thể như vậy đảm bảo cho
thực hiện các mục tiêu đề ra của ngành nói chung và mỗi nhà trường nói riêng.



×