Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

THÔNG TIN VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.29 KB, 34 trang )

UBND THÀNH PHỐ HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
THÔNG TIN VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Mã phách:

………………………...............

Hà Nội, tháng 11 năm 2021


BÀI VIẾT TIỂU LUẬN
MÔN THÔNG TIN VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG
QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Câu 1: Anh (chị) hãy cho biết những công việc chủ yếu của người lãnh
đạo, người quản lý trường học.
Ứng dụng CNTT hỗ trợ như thế nào đối với công việc của người lãnh
đạo, người quản lý trường học? Anh (chị) hãy lấy dẫn chứng minh họa.
Lãnh đạo là khả năng thuyết phục và gây ảnh hưởng trên người khác để
hoàn thành những mục tiêu mong muốn. Nói cách khác, lãnh đạo thiên về khía
cạnh nhân bản và nhắm đến “người” để nối kết họ thành một đội ngũ và động viên
họ tiến tới mục tiêu mong muốn. Có hai loại lãnh đạo là lãnh đạo chính thức và
lãnh đạo khơng chính thức. Lãnh đạo chính thức là người lãnh đạo có thực quyền.
Người lãnh đạo có thực quyền là người lãnh đạo đồng thời đóng vai trị quản trị
viên trong một tổ chức, được trao ban quyền hạn và chức năng hành xử trên người
khác để thi hành một công tác theo hoạch định. Người lãnh đạo khơng chính thức
hay cịn gọi là lãnh đạo tự nhiên, là người lãnh đạo do thiên phú với phong cách lôi


cuốn người khác. Tuy họ không có quyền hạn chính thức để sai khiến, nhưng lời
nói của họ có giá trị, được người khác lắng nghe và thực hiện. Những người lãnh
đạo tự nhiên này thường được người khác ngưỡng mộ như một nhân chứng gương
mẫu về cách tổ chức và thực hiện đối với đời sống cá nhân cũng như xã hội.
Người lãnh đạo dù là chính thức hay khơng chính thức (tự nhiên) là người
đưa ra những quyết định, vạch ra những mục tiêu, hoạch định những chương trình,
… để tổ chức thực hiện. Họ là người chỉ huy, là nhà tổ chức và là những chiến lược
gia của tổ chức. Trong chuyên môn người ta nói người lãnh đạo là chủ nhân của 5
Ws (What? Why? When? Where? Who?) và do đó, họ là người quyết định “H”
(how?). Nói cách khác, một người lãnh đạo giỏi là người biết:


- Muốn làm gì (what?);
- Tại sao làm việc ấy (why?);
- Khi nào thì làm (when?);
- Làm ở đâu (where?);
- Ai là người sẽ làm (who?).
Sau khi nắm vững những nguyên tắc ấy, họ sẽ quyết định làm như thế nào
(how?)
Vai trò người lãnh đạo là vai trò người đứng mũi chịu sào và linh động khi
hành xử chức năng của mình. Do đó, khó có thể đề ra ngun lý chung cho phong
cách một nhà lãnh đạo.
Những đặc điểm bề ngồi của một người lãnh đạo chỉ có giá trị tương đối.
Ngược lại, thái độ của một người lại đóng vai trị rất quan trọng trong phong cách
lãnh đạo của họ. Thực vậy, trước tiên và cần thiết nhất, thái độ của một người là
kết quả của ý thức về nhân bản của người đó. Một người có ý thức nhân bản cao sẽ
có thái độ tốt. Thái độ tốt sẽ có lối hành xử tốt, khơng chỉ với cơng tác mà cịn đối
với người trong tương quan đội ngũ.
Chẳng hạn, người lãnh đạo khi đối diện với một nhân viên lười biếng, thiếu
tinh thần cộng tác, và có thói quen làm việc cẩu thả, họ phải thẳng thắn khi trực

diện cộng sự viên đó, là khiển trách, kỷ luật tùy theo mức độ vi phạm nguyên tắc
làm việc của tổ chức. Khi đối diện một nhân viên chăm chỉ, làm việc với tinh thần
cộng tác và duy trì một thói quen làm việc tốt như đúng giờ, chính xác, … người
lãnh đạo sẽ khen thưởng cho họ. Như vậy kỷ luật hoặc khen thưởng hay ban
thưởng là một thái độ công bằng (fair) của người lãnh đạo. Dĩ nhiên, thái độ này
phải được thực hiện một cách đồng đều với tất cả mọi nhân viên.


Cơng bằng (fair) khơng chưa đủ, người lãnh đạo cịn cần sự cứng rắn (firm)
trong thái độ của mình khi tiến hành công việc hay trong tương quan với nhân
viên. Một người lãnh đạo được gọi là tốt là một người “fair” và “firm”. Công bằng
với nhân viên và cứng rắn với ngun tắc và cơng việc. Họ có thể vui vẻ và dễ dãi
với bạn bè và nhân viên khi không làm việc nhưng không thể giữ thái độ ấy trong
công tác. Công tác được đề ra và nằm trong cấu trúc quản trò của tổ chức với
những ràng buộc bằng ngun tắc. Do đó, cơng tác phải được thi hành đúng đắn và
phù hợp với nguyên tắc của tổ chức. Bất kỳ ai làm sai nguyên tắc là vi phạm qui
định của tổ chức. Họ cần được phê bình, cảnh cáo, khiển trách hay sửa sai tùy theo
mức độ vi phạm.
Lãnh đạo độc đoán là sự áp đặt cơng việc với sự kiểm sốt chặt chẽ. Người
lãnh đạo độc đốn thường lấy mình làm thước đo giá trị. Họ không quan tâm đến ý
kiến của người khác trong đơn vị mà chỉ hoàn toàn dựa vào kiến thức và kinh
nghiệm của chính mình. Hình thức này thường phù hợp với lối quản trò cổ điển,
hoặc khi tổ chức đang trong tình trạng xấu, cần đổi mới để phát triển, … Nhất là
khi tinh thần kỷ luật và trật tự của tổ chức lỏng lẻo cần sửa đổi.
Người lãnh đạo theo đường lối lãnh đạo dân chủ là người biết tạo ra những
cuộc thảo luận giữa đội ngũ để tìm một quyết định chung. Một khi đã quyết định
dù là ý kiến của bất cứ thành viên nào trong đội ngũ, công tác sẽ được thực hiện
theo quyết định đó. Lối lãnh đạo này đem lại sự nhất trí trong tổ chức và giúp nhân
viên nắm quyền chủ động trong việc thi hành công tác. Nhân viên trong các tổ
chức với lối lãnh đạo này thường có cơ hội phát huy sáng kiến cao. Do đó, tinh

thần làm việc cũng cao và đạt hiệu quả. Hầu hết các công ty lớn của Mỹ hay một
số nước đang áp dụng hình thức lãnh đạo này trong mọi khâu cơng việc của công
ty.


Nhiều tổ chứcthương mại mang tầm cỡ trung bình hay nhỏ thường áp dụng
cả hai hình thức lãnh đạo trên cùng một lúc. Các cá nhân lãnh đạo áp dụng lối lãnh
đạo dân chủ là lắng nghe ý kiến của nhân viên và đem áp dụng vào công tác. Khi
áp dụng, họ vẫn dùng lối áp đặt và giám sát chặt chẽ để bảo đảm chất lượng sản
xuất, hoặc dịch vụ. Tuy nhiên, khi người lãnh đạo biết sử dụng hình thức hỗn hợp,
họ thường nhẹ nhàng hơn khi áp dụng hình thức độc đốn và tơn trọng nhân viên
hơn một người lãnh đạo chỉ hoàn toàn theo lối lãnh đạo độc đốn.
"Quản lý là gì?" là câu hỏi mà bất cứ người học quản lý ban đầu nào cũng
cần hiểu và mong muốn lý giải. Nó liên quan đến định nghĩa về quản lý.
Quản lý được định nghĩa là một công việc mà một người lãnh đạo học suốt
đời không thấy chán và cũng là sự khởi đầu của những gì họ nghiên cứu. Quản lý
được giải thích như là nhiệm vụ của một nhà lãnh đạo thực thụ, nhưng không phải
là sự khởi đầu để họ triển khai cơng việc. Như vậy, có bao nhiêu nhà lãnh đạo tài
ba thì có bấy nhiêu kiểu định nghĩa và giải thích về quản lý.
Vậy suy cho cùng quản lý là gì? Định nghĩa quản lý là yêu cầu tối thiểu nhất
của việc lý giải vấn đề quản lý dựa trên lí luận và nghiên cứu quản lý học.
Xét trên phương diện nghĩa của từ, quản lý thường được hiểu là chủ trì hay phụ
trách một cơng việc nào đó.
Bản thân khái niệm quản lý có tính đa nghĩa nên có sự khác biệt giữa nghĩa
rộng và nghĩa hẹp. Hơn nữa, do sự khác biệt về thời đại, xã hội, chế độ, nghề
nghiệp nên quản lý cũng có nhiều giải thích, lý giải khác nhau. Cùng với sự phát
triển của phương thức xã hội hoá sản xuất và sự mở rộng trong nhận thức của con
người thì sự khác biệt về nhận thức và lý giải khái niệm quản lý càng trở nên rõ rệt.
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả trong và
ngoài nước đã đưa ra giải thích khơng giống nhau về quản lý. Cho đến nay, vẫn

chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Đặc biệt là kể từ thế kỷ XXI, các


quan niệm về quản lý lại càng phong phú. Các trường phái quản lý học đã đưa ra
những định nghĩa về quản lý như sau:
- Tailor: "Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc gì và
hãy chú ý đến cách tốt nhất, kinh tế nhất mà họ làm ".
- Fayel: "Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh nghiệp,
chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều
chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều
chỉnh và kiểm soát ấy”.
- Hard Koont: "Quản lý là xây dựng và duy trì một mơi trường tốt giúp con
người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định".
- Peter F Druker: "Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của nó khơng
nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó không nằm ở sự logic mà ở
thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích".
- Peter. F. Dalark: "Định nghĩa quản lý phải được giới hạn bởi môi trường
bên ngồi nó. Theo đó, quản lý bao gồm 3 chức năng chính là: Quản lý doanh
nghiệp, quản lý giám đốc, quản lý công việc và nhân công".
Chủ trương của Peter. F. Dalark là giới hạn doanh nghiệp từ góc độ xã hội,
lấy quản lý làm chức năng chính của doanh nghiệp. Vì thế, quản lý trở thành chức
năng và vai trị của tổ chức xã hội, nó cũng sẽ thơng qua các doanh nghiệp góp
phần xây dụng chế độ xã hội mới để đạt được mục tiêu lý tưởng là "một xã hội tự
do và phát triển". Nếu không có quản lý hiệu quả thì doanh nghiệp khơng thể tồn
tại và từ đó khơng thể xây dựng một xã hội tự do và phát triển.
Từ đó có thể thấy, cơ sở chính trong giải quyết độ khó của vấn đề là "quan
điểm về hệ thống", cơ sở chính trong giải quyết độ khó về thời gian là "quan điểm
về sự chuyển động”. Như vậy, đặc điểm lớn nhất trong lý luận của Peter F. Dalark



là cách nhìn hệ thống mở và chuyển động". Đây cũng là quan niệm cốt lõi trong tư
tưởng triết học về quản lý của ông.
- Tư tưởng triết học về quản lý của Peter F. Dalark
Quản lý doanh nghiệp phải theo nguyên tắc: "lấy hiệu quả kinh tế thực tế
làm nguyên tắc hoạt động, đây là một cách nhìn tổng thể lấy thành tích làm cốt
lõi".
Nguyên tắc quản lý dành cho giám đốc cần có động lực mạnh mẽ quản lý mục tiêu
và kiểm soát bản thân để họ trở thành một người giám đốc giỏi.
Quản lý cơng việc thì nhấn mạnh: cơng việc cần có sức sản xuất và phải
thơng qua những cơng cụ phân tích, tổng hợp, kiểm sốt và thí nghiệm.
Quản lý nhân cơng coi trọng nguồn nhân lực, làm cho họ có cơ hội, chủ
động phát huy ưu điểm của mình, thoả mãn nhu cầu về chức năng và địa vị xã hội
của họ trong công việc, đưa đến cho họ cơ hội, quyền lợi như nhau để mỗi người
thể hiện giá trị, hồi bão của mình.
Tóm lại, quản lý là quan niệm chứ khơng phải kỹ thuật, là tự do chứ không
phải bị khống chế, là nhiệm vụ thực tế chứ không phải lý luận; là thành tích chứ
khơng phải tiềm năng, là trách nhiệm chứ không phải quyền lực; là cơ hội chứ
không phải chướng ngại; là đơn giản chứ khơng phải phức tạp.
Có thể kể ra nhiều ý kiến khác nhau về định nghĩa quản lý, trên đây chỉ là
một vài ý kiến mang tính đại diện trên cơ sở phân tích tổng hợp những quan điểm
khơng giống nhau. Tóm lại, những quan điểm đó tuy rất rõ ràng, đúng đắn nhưng
chưa đầy đủ. Chúng chỉ chú trọng đến quản lý như là một hiện tượng chứ chưa làm
bộc lộ rõ bản chất của nó. Vậy, làm thế nào để khái quát khái niệm quản lý một
cách đơn giản và tương đối toàn diện?


Như chúng ta đều biết, quản lý thực chất cũng là một hành vi, đã là hành vi
thì phải có người gây ra và người chịu tác động. Tiếp theo cần có mục đích của
hành vi, đặt ra câu hỏi tại sao làm như vậy? Do đó, để hình thành nên hoạt động
quản lý trước tiên cần có chủ thể quản lý: nói rõ ai là người quản lý? Sau đó cần

xác định đối tượng quản lý: quản lý cái gì? Cuối cùng cần xác định mục đích quản
lý: quản lý vì cái gì?
Có được 3 yếu tố trên nghĩa là có được điều kiện cơ bản để hình thành nên
hoạt động quản lý. Đồng thời cần chú ý rằng, bất cứ hoạt động quản lý nào cũng
không phải là hoạt động độc lập, nó cần được tiến hành trong mơi trường, điều
kiện nhất định nào đó.
Với những phân tích trên mọi hoạt động quản lý đều phải do 4 yếu tố cơ bản
sau cấu thành:
- Chủ thể quản lý, trả lời câu hỏi: do ai quản lý?
- Khách thể quản lý, trả lời câu hỏi: quản lý cái gì?
- Mục đích quản lý, trả lời câu hỏi: quản lý vì cái gì?
- Mơi trường và điều kiện tổ chức, trả lời câu hỏi: quản lý trong hồn cảnh
nào?
Vì bản thân hành vi quản lý là do 4 yếu tố trên tạo thành, do vậy 4 yếu tố đó
đương nhiên cần được thể hiện trong định nghĩa về quản lý. Tiếp theo, do hoạt
động quản lý đích thực cần vận dụng chức năng và phương pháp quản lý để đạt
được mục đích quản lý đề ra nên điều này cũng cần được thể hiện trong định nghĩa
về quản lý. Tuy nhiên, Fayel trong định nghĩa quản lý đã trực tiếp chỉ ra rằng:
Quản lý chính là lập kế hoạch, tổ chức, thực hiện, chỉ huy, tiến hành, kiểm soát; và
nếu lý giải một cách đơn giản như vậy thì quản lý lại trở thành một hành động cụ
thể mà mất đi bản chất thống nhất của nó. Định nghĩa quản lý nên phản ánh khách


quan đặc trưng cơ bản của hoạt động quản lý, thể hiện bản chất quản lý, hay có thể
nói, trong định nghĩa về quản lý nhất định phải đề cập đến bản chất của quản lý là
theo đuổi năng suất, hiệu quả.
Dựa trên tác dụng, vai trò của những yếu tố trong quản lý kể trên và quan hệ
lôgic giữa chúng, có thể khái quát ý nghĩa cơ bản của quản lý. Thơng thường mà
nói, quản lý là hành vi mà những thành viên trong tổ chức thực hiện ở một môi
trường nhất định nhằm nâng cao năng suất công việc, để đạt được mục đích của tổ

chức.
Thực ra, nếu một mực truy đến cùng câu hỏi "quản lý là gì?” thì bản thân
câu hỏi hầu như khơng có giá trị. Cho dù chúng ta có thảo luận, nghiên cứu ra sao,
về mặt lí luận mà nói, chúng ta vẫn không đạt được sự thống nhất, trên thực tế
cũng không thể đưa ra một kết luận chung. Nhưng chính vì câu hỏi "quản lý là gì?"
có sức ảnh hưởng sâu rộng đến mỗi một học giả nghiên cứu vấn đề quản lý, đến
mỗi một người thực hiện công việc quản lý như vậy nên làm rõ vấn đề này mới
thực sự có ý nghĩa, mặc dù để làm rõ vấn đề "quản lý là gì?" quả thực là cơng việc
khơng mấy dễ dàng.
Chúng ta hãy bàn về khái niệm "quản lý" trên phạm vi rộng lớn hơn, quy mô
hơn như trên phạm vi quốc gia chẳng hạn. Trong một tờ báo có đăng tải số liệu
thống kê năm 2001 cho biết: thu nhập bình quân đầu người nước Mỹ bằng 11 lần
một số nước châu Á. Thu nhập bình quân đầu người của Mỹ không phải do một
người Mỹ mà là giá trị bình qn của tồn bộ người dân Mỹ tạo nên. Sự cách biệt
về thu nhập bình quân này không phải do sự cách biệt về chỉ số thông minh của
người dân hai nước mà là do khả năng tương tác của họ khơng giống nhau. Cụ thể
nói đến cơng việc thì đó là phương thức quản lý và chiến lược quản lý của hai nước
là không giống nhau.


Có thể đưa ra kết luận rằng: Quản lý khơng đơn giản chỉ là khái niệm, nó là
sự kết hợp của ba phương diện:
Thứ nhất, thông qua tập thể để thúc đẩy tính tích cực của cá nhân.
Thứ hai, điều hoà quan hệ giữa người với người, giảm mâu thuẫn giữa hai
bên.
Thứ ba, tăng cường hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, thông qua hỗ trợ để làm được
những việc mà một cá nhân không thể làm được, thông qua hợp tác tạo ra giá trò
lớn hơn giá trò cá nhân - giá trò tập thể.
Trong xã hội ngày nay, ở đâu chúng ta có thể nhìn thấy lãnh đạo: mỗi quốc
gia đều có Đảng cầm quyền và Chính phủ lãnh đạo; các doanh nghiệp đều có chủ

tịch hội đồng quản trò, chủ tịch điều hành, tổng giám đốc, giám đốc bộ phận lãnh
đạo; quân đội cũng không thể rời xa sự lãnh đạo của các quan chức quân đội các
cấp. Ngay cả các tổ chức phi chính phủ cũng có người đứng đầu có quyền uy lãnh
đạo các thành viên trong tổ chức.
Trong cuộc sống thực tế, khơng ít người cho rằng lãnh đạo và quản lý là
cũng một khái niệm, giữa chúng khơng có gì khác nhau, q trình lãnh đạo gần
như chính là q trình quản lý. Song thực ra, giữa chúng có sự khác biệt và cũng
có liên quan với nhau.
Những nhà quản lý học có những quan điểm khác nhau về định nghĩa lãnh
đạo, nhưng nội dung bản chất là giống nhau. Họ đều cho rằng lãnh đạo là người
dẫn dắt cấp dưới thực hiện mục tiêu của tổ chức. Quản lý và lãnh đạo đều có mục
đích là thực hiện mục tiêu của tổ chức, nhưng chúng có điểm khác biệt rõ rệt như
sau:
* Lãnh đạo và quản lý không thuộc cùng một phạm trù.


Lãnh đạo là một chức năng của quản lý, thường được gọi là chức năng lãnh
đạo, còn chức năng khác của quản lý lại khơng phải là lãnh đạo. Ví dụ: công việc
mà những người tham mưu trong tổ chức làm là công tác quản lý, nhưng không
phải là công tác lãnh đạo. Quản lý ở đây chỉ hành vi quản lý, công tác lãnh đạo vừa
bao gồm hành vi quản lý, vừa bao gồm hoạt động nghiệp vụ khác. Ví dụ: một
người lãnh đạo doanh nghiệp cần gặp và tiếp nhân vật quan trọng, tham gia đàm
phán, tham dự những hoạt động chung.
Thông thường, lãnh đạo chủ yếu là lãnh đạo con người, xử lý quan hệ giữa
người với người, đặc biệt là quan hệ cấp trên và cấp dưới. Đây là vấn đề cốt lõi
trong hoạt động quản lý. Cịn về quản lý, ngồi quản lý con người, đối tượng của
quản lý cịn bao gồm tài chính, vật chất. Quản lý không chỉ xử lý quan hệ giữa
người với người mà còn phải xử lý mối quan hệ tài chính và vật chất, giữa vật chất
và con người, giữa con người và tài chính. Phạm vi mà quản lý đề cập đến rộng
hơn nhiều so với lãnh đạo.

* Quản lý và lãnh đạo khác biệt nhau nhưng có liên quan mật thiết với nhau
Lãnh đạo và quản lý thuộc hai tầng hoạt động khác nhau song chúng lại có
quan hệ mật thiết khó tách rời. Hoạt động lãnh đạo tập trung vào việc đưa ra quyết
sách, xác định mục tiêu, kế hoạch phấn đấu, vạch ra chính sách tương ứng và
phương hướng lãnh đạo khu vực, ban ngành, đơn vị tiến lên phía trước, … Cịn
quản lý tập trung giữ vững và tăng cường hoạt động của tổ chức để đảm bảo thực
hiện tốt mục tiêu mà lãnh đạo đã xác định.
Qua phân tích về người lãnh đạo, quản lý ở trên, dựa trên đặc thù về chức
năng, nhiệm vụ của các nhà giáo tại các nhà trường phổ thơng, có thể có thể đưa ra
một số cơng việc chủ yếu của người lãnh đạo, quản lý các trường phổ thơng như
sau:
ỨNG DỤNG CƠNG NGHỆ THƠNG TIN TRONG QUẢN LÝ


Thuật ngữ công nghệ thông tin (CNTT) (information technology- IT) xuất
hiện khoảng những năm 70 của thế kỷ XX. Thuật ngữ này thực chất gắn liền với sự
phát triển của máy vi tính (computer), thiết bị manh nha ra đời từ thời chiến tranh
thế giới thứ II.
Máy vi tính là thiết bị điện tử cho phép lập chương trình, tính toán hay vận
hành logic với tốc độ cao hoặc thu thập, lưu giữ, liên kết, xử lý thông tin. Từ
những năm 1950 đến nay đã có 4 thế hệ máy vi tính ra đời. Mỗi thế hệ đều phản
ánh sự thay đổi về phần cứng, với việc giảm kích thước nhưng tăng khả năng hoạt
động của máy vi tính. Một số mốc lịch sử liên quan đến máy vi tính:
- Giữa thập kỷ 60 của thế kỷ XX, máy vi tính thế hệ thứ ba với kỹ thuật
mạch tích hợp và bộ nhớ bán dẫn ra đời. Được sử dụng rộng rãi trong kinh doanh
và quản lý kinhtế.
- Năm 1981 máy vi tính cá nhân (PC) ra đời. Hàng triệu máy vi tính được
sử dụng phổ biến trong hầu hết các lĩnh vực. Công nghiệp phần mềm phát
triểnmạnh.
- Thập niên 1990: Bùng nổ các mạng viễn thông truyền dữ liệu quốc gia và

quốc tế. Internet và các dịch vụ thông tin trở thành "kết cấu hạ tầng" cho một xã
hội thơng tin hình thành và khơng ngừng pháttriển.
Theo từ điển American Heritage thì CNTT là “sự phát triển, cài đặt hay vận
hành các hệ thống máy vi tính và các phần mềm ứng dụng”. Theo từ điển Oxford,
“CNTT là việc nghiên cứu hoặc sử dụng thiết bị điện tử, đặc biệt là máy vi tính, để
lưu giữ, phân tích và gửi thông tin”. Theo định nghĩa của hiệp hội CNTT của Hoa
Kỳ (Information Technology Association of America), CNTT là “việc nghiên cứu,
thiết kế, phát triển, vận hành, hỗ trợ và quản lý hệ thống thơng tin dựa trên máy vi
tính, đặc biệt là các phần mềm ứng dụng và phần cứng máy vi tính”. “Thơng tin” ở
đây có thể được “biểu hiện” ở dạng chữ, hình ảnh, âmthanh.


Sau thuật ngữ CNTT, vào khoảng năm 2000 thì thuật ngữ CNTT và truyền
thông (CNTT và TT) (Information and communication technologies – ICT) ra đời.
CNTT và truyền thông (TT) theo quan điểm của UNESCO là các dạng công nghệ
đượcsử dụng để truyền, xử lý, lưu giữ, tạo, trình bày, chia sẻ hay trao đổi thông tin
bằng các phương tiện điện tử. Các công nghệ ở đây bao gồm radio, tivi, video,
DVD, điện thoại (cả điện thoại cố định và di động), hệ thống vệ tinh, máy vi tính
và phần cứng, phần mềm mạng cùng với tất cả các thiết bị, dịch vụ liên quan đến
các công nghệ này như e-mail (thư điện tử), blog (trang viết cá nhân trên mạng),
hội nghị qua mạng, … Tức là có thể thấy, khái niệm CNTT và TT rộng hơn rất
nhiều so với khái niệm CNTT. Việc “rộng” hơn ở đây là rộng hơn về phương tiện.
Trong xu thế hiện nay, người ta cũng không tập trung phân biệt hai thuật ngữ này.
Hiện nay các văn bản pháp quy của Nhà nước cũng đang sử dụng thuật ngữ CNTT
theo nghĩa như CNTT và TT. Cụ thể: Luật Công nghệ thông tin của Quốc hội Nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 67/2006/QH11, ngày 29/6/2006; Nghị
định số 71/2007/NĐ-CP, ngày 03/5/2007 về quy định chi tiết và hướng dẫn thực
hiện một số điều của Luật CNTT về công nghiệp CNTT; Quyết địnhPhê duyệt đề
án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt
động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và

đào tạo giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025” ngày 25/01/2017, của
Thủ tướng Chính phủ; Hay Công văn số 4095/BGDĐT- CNTT ngày 10/9/2018,
của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2017
– 2018 về CNTT, …
Ở Việt Nam, khái niệm CNTT cũng đã được đưa ra đầu tiên trong Nghị
quyết số 49/CP của Chính phủ năm 1993: CNTT là tập hợp các phương pháp khoa
học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại - chủ yếu là máy tính và các
mạng viễn thơng - nhằm cung cấp các giải pháp tổng thể để tổ chức, khai thác, và
sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin phong phú và tiềm tàng trong


mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội. Trong Luật CNTT, tại điều 4 cũng
đã định nghĩa:
1. Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và
công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao
đổi thông tin số;
2. Thông tin số là thơng tin được tạo lập bằng phương pháp dùng tín hiệusố.
Qua các định nghĩa trong và ngoài nước về CNTT, chúng ta rút ra một số
nhận xét sau về nội hàm của khái niệm CNTT:
- Về gốc của khái niệm, người ta ra đi từ khái niệm “công nghệ”, một khái
niệmcónhiềunghĩa.Nêntùytheongữcảnh,cơngnghệcóthểđượchiểulàcơngcụ,

máy

móc hay là phương pháp, quy trình giải quyết vấn đề. Ở đây chúng tôi hiểu “công
nghệ” theo nghĩa là công cụ, phương tiện kỹ thuật.
- Về phương tiện chủ yếu: gồm máy vi tính, phần mềm máy vitính.
- Về đối tượng xử lý: là thơng tin ở dạng tín hiệusố.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể hiểu như sau: CNTT là tập hợp
công cụ kỹ thuật hiện đại gồm chủ yếu là máy vi tính và phần mềm máy vi tính

được sử dụng để xử lý, lưu giữ, trình bày, chuyển đổi, bảo vệ, gửi và nhận thơng
tin số một cách antồn.
Các nhà quản lý có liên quan đến một loạt các quyết định về công nghệ, các
quyết định đó là rất quan trọng cho sự thành công của tổ chức. Khi ứng dụng
CNTT trong các công ty, các nhà quản lý bị thách thức với các quyết định về:
• Việc sử dụng cơng nghệ để thiết kế và cấu trúc tổ chức
• Việc tạo ra các liên minh và đối tác liên kết điện tử


Đây là một xu hướng phát triển để các công ty kết nối với khách hàng và nhà
cung cấp nguyên vật liệu cũng như các nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ.
• Việc lựa chọn các hệ thống để hỗ trợ các loại việc khác nhau trong công ty
Nhân viên có thể sử dụng máy trạm để thực hiện cơng việc của họ. Chọn
một nhà cung cấp, thiết kế hệ thống và thực hiện nó là những thách thức lớn cho
quản lý.
• Xác định chiến lược World Wide Web
Người quản lý phải xác định xem và làm thế nào công ty có thể tận dụng lợi
thế về các cơ hội do Web cung cấp.
• Hệ thống xử lý giao dịch thường xuyên
Các ứng dụng này xử lý cơ bản trong giao dịch kinh doanh. Ví dụ: chu kỳ
đặt hàng từ khi nhận mua hàng, đặt hàng thông qua vận chuyển hàng hóa, hóa đơn,
nhận thanh tốn. Những thói quen này hệ thống xử lý qua mạng phải hoạt động để
công ty kinh doanh. Khi đó, người quản lý phải loại bỏ các tài liệu vật lý trong xử
lý giao dịch và thay thế bằng truyền điện tử qua mạng.
• Hệ thống hỗ trợ cá nhân
Các nhà quản lý ở nhiều vị trí khác nhau sử dụng máy tính và mạng cá nhân
để hỗ trợ cơng việc cho nhân viên.
• Báo cáo và kiểm sốt
Các nhà quản lý có truyền thống quan tâm đến việc kiểm soát tổ chức và báo
cáo kết quả cho Hội đồng quản trị cơng ty, cổ đông và niêm yết công khai. Thông

tin cần thiết để báo cáo và kiểm soát được chứa trong một hoặc nhiều cơ sở dữ liệu
trên mạng máy tính nội bộ.
• Quy trình sản xuất tự động


Một trong những chìa khóa để sản xuất cạnh tranh, nhằm tăng hiệu quả và
chất lượng sản phẩm của công ty là sản xuất của công ty phải được tự động hóa.
Cải tiến tương tự có thể được tìm thấy trong lĩnh vực dịch vụ. Cụ thể, thông qua
các công nghệ như xử lý hình ảnh, lưu trữ quang học và xử lý quy trình cơng việc,
trong đó giấy được thay thế bằng hình ảnh điện tử được chia sẻ bởi các nhân viên
sử dụng máy trạm nối mạng.
• Sản phẩm nhúng
Càng ngày, các sản phẩm càng chứa thông tin nhúng. Một ơ tơ hiện đại có
thể chứa sáu hoặc nhiều máy tính trên chip.
Một tính năng chính của CNTT là những thay đổi mà nó mang lại. Trong
những ngày đầu của công nghệ, thay đổi là dần dần và thường không đặc biệt quan
trọng. Sự ra đời của máy tính cá nhân đã đẩy nhanh tốc độ thay đổi. Đặc biệt, khi
Internet ra đời vào khoảng năm 1992, sự thay đổi trở nên theo cấp số nhân và
mang tính cách mạng.
CNTT đã chứng minh khả năng thay đổi hoặc tạo ra những điều sau đây:
• Trong các tổ chức
Tạo thủ tục mới, quy trình làm việc, nhóm làm việc, cơ sở tri thức, sản phẩm
và dịch vụ và truyền thơng.
• Cơ cấu tổ chức
Tạo điều kiện cho các mối quan hệ mới, tăng phạm vi kiểm soát, quyền
quyết định cho quản lý cấp dưới, giám sát, hình thành các bộ phận, phạm vi địa lý
và tổ chức "ảo".
• Quan hệ tổ chức
Tạo quan hệ khách hàng - nhà cung cấp mới, quan hệ đối tác và liên minh.



• Nền kinh tế
Thay đổi bản chất của thị trường thơng qua:
- Thương mại điện tử;
- Phân phối, hình thức tiếp thị và quảng cáo mới;
- Quan hệ đối tác và liên minh;
- Chi phí các giao dịch và phương thức quản trò trong các mối quan hệ
khách hàng - nhà cung cấp.
• Giáo dục
Tăng cường giáo dục thơng qua hội nghị truyền hình, e-mail, các cuộc họp
điện tử, phần mềm nhóm và bài giảng điện tử. Tạo điều kiện học tập từ xa thơng
qua e-mail, phần mềm nhóm và hội nghị truyền hình.
Cung cấp quyền truy cập vào số lượng lớn tài liệu tham khảo; tạo điều kiện
cho các dự án hợp tác độc lập trên tồn thế giới.
• Phát triển quốc gia
CNTT tạo cơ hội để cải thiện giáo dục. Đồng thời, cung cấp cho các công ty
thông tin tồn cầu liên quan đến sản xuất của cơng ty, tạo điều kiện cho thương mại
phát triển. Do đó thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia.
Trong vài năm qua, sáu xu hướng chính đã thay đổi mạnh mẽ cách các tổ
chức sử dụng công nghệ. Những xu hướng này khiến người quản lý bắt buộc phải
làm quen với cả việc sử dụng công nghệ và cách kiểm sốt nó trong tổ chức.
Những xu hướng này, cụ thể như sau:
1. Sử dụng công nghệ để biến đổi tổ chức
Hiệu ứng tích lũy về những gì tất cả các công ty công nghệ đang cài đặt là
để biến đổi tổ chức và cho phép các loại cấu trúc tổ chức mới. Khả năng này của


CNTT để chuyển đổi các tổ chức là một trong những các cơng cụ mạnh nhất có
sẵn cho một người quản lý ngày nay.
2. Việc sử dụng công nghệ xử lý thông tin như là một phần của chiến lược

công ty
Trên nền tảng kỹ thuật số, các cơng ty có thể xử lý thông tin đem lại hiệu
quả tuyệt vời trong kinh doanh: “Uber, cơng ty taxi lón nhất thế giới không sở hữu
chiếc xe nào. Facebook, nhà sở hữu phương tiện truyền thông lớn nhất thế giới,
không tạo ra nội dung nào. Alibaba, nhà bán lẻ có giá trị nhất thế giới, khơng có tí
hàng lưu kho nào. Và Airbnb, nhà cung cấp phòng ở cho thuê lớn nhất thế giới,
khơng có chút bất động sản nào” [9].
3. Cơng nghệ như một phần lan tỏa của môi trường làm việc
Từ lớn nhất tập đoàn kinh doanh nhỏ nhất, chúng tôi thấy công nghệ được
sử dụng để giảm lao động, nâng cao chất lượng, cung cấp dịch vụ khách hàng tốt
hơn hoặc thay đổi cách thức công ty hoạt động. Các nhà máy sử dụng công nghệ
để thiết kế các bộ phận và kiểm soát sản xuất. Cửa hàng sửa chữa tự động nhỏ sử
dụng hệ thống máy tính cá nhân đóng gói để chuẩn bị đơn đặt hàng cơng việc và
hóa đơn cho khách hàng của mình, ...
4. Việc sử dụng công nghệ để hỗ trợ người lao động tri thức
Máy tính cá nhân có sức hấp dẫn rất lớn. Nó rất dễ sử dụng và có nhiều phần
mềm mạnh mẽ các chương trình có sẵn có thể làm tăng đáng kể năng suất của
người dùng. Khi được kết nối với mạng trong tổ chức và Internet, đó là một công
cụ to lớn cho những người lao động tri thức.
5. Sự phát triển của máy tính từ một thiết bị tính tốn sang phương tiện cho
thơng tin liên lạc.


Đầu tiên máy tính thay thế thiết bị thẻ đục lỗ và đã được sử dụng cho các
nhiệm vụ hoàn tồn tính tốn. Từ các máy tính tập trung lớn, cơng nghệ phát triển
thành máy tính để bàn, máy tính cá nhân. Người dùng muốn truy cập vào thông tin
được lưu trữ ở các địa điểm khác nhau, các công ty phát triển các mạng để liên kết
các thiết bị đầu cuối và máy tính với các máy tính khác. Các mạng này đã phát
triển và trở thành một phương tiện cho nội bộ và bên ngoài liên lạc với các tổ chức
khác. Đối với nhiều công nhân ngày nay, các khía cạnh giao tiếp của máy tính quan

trọng hơn khả năng tính tốn của chúng.
6. Sự phát triển của Internet và World Wide Web
Internet cung cấp một lượng lớn thơng tin trực tuyến, thơng tin mà người
dùng có thể tìm kiếm từ máy tính của mình. Mạng liên kết mọi người và các tổ
chức lại với nhau, đẩy nhanh q trình truyền thơng. Internet cung cấp kiến thức
chun mơn bất kể thời gian và khoảng cách và cung cấp quyền truy cập vào thơng
tin tại bất kỳ vị trí nào được kết nối với Internet. Các cơng ty có thể mở rộng phạm
vi địa lý của họ bằng điện tử mà khơng cần phải mở chi nhánh văn phịng. Internet
dẫn tự nhiên đến thương mại điện tử, tạo ra cách mới để tiếp thị, hợp đồng và hoàn
thành giao dịch.
Đối với các nước đang phát triển, CNTT mang lại triển vọng tiếp cận và
nâng cao chất lượng giáo dục. Nó đại diện cho một chiến lược bình đẳng hóa đầy
tiềm năng cho các nước đang phát triển.
CNTT hỗ trợ rất lớn cho việc nắm bắt và thu nhận kiến thức, tạo ra những cơ
hội chưa từng có cho các nước đang phát triển đẩy mạnh hệ thống giáo dục, nâng
cao năng lực tạo lập và thi hành chính sách, mở rộng cơ hội cho kinh doanh và cho
người nghèo. Một trong những khó khăn lớn nhất mà người nghèo và những người
sống trong các quốc gia nghèo phải chịu là bị cô lập về công nghệ. CNTT hứa hẹn


sẽ giảm bớt cảnh cơ lập đó và mở cho họ con đường đến với kiến thức mà trước
đây không lâu là điều khơng tưởng.
CNTT có bốn chức năng cơ bản:


Thu thập: Q trình lấy dữ liệu để dùng cho các cơng việc sau này (ví

dụ: lưu trữu cơ sở dữ liệu về giáo viên, học sinh, cơ sở vật chất nhà trường, mượn
sách, …);



Xử lý: Liên quan trực tiếp đến máy tính bao gồm các tác vụ như chuyển

đổi, phân tích, tính tốn, tổng hợp dữ liệu;


Lưu cất: Thơng tin được lưu trữ trong các vật mang tin (đĩa từ, đĩa

quang) mà máy tính có thể đọc được và chuyển đổi về trạng thái gốc;


Truyền: chuyển thơng tin từ vị trí này sang vị trí khác.

Ngồi ra CNTT bao gồm bốn ưu thế nổi trội:


Tốc độ cao: Đó là đặc trưng của máy tính có thể thực hiện hàng tỷ thao

tác/giây;
• Nhất quán: được thực hiện trước sau như một không phụ thuộc thời tiết,
sức khỏe, tác động môi trường,…
• Chính xác: Cho phép trong khoảng khắc nhận ra các sai sót mà con
người khơng nhận biết được nhờ các thuật tốn;
• Ổn định: trong các lần tính tốn khác nhau, từ một giá tròđầu vào bao
giờ cũng chỉ có một giá trịđầu ra.
Nhờ các chức năng và ưu thế nổi trội nói trên, CNTT có triển vọng to lớn
sau đây với giáo dục.
CNTT là một công cụ mạnh mẽ, tiềm năng để mở rộng các cơ hội giáo dục,
cả chính thức và khơng chính thức, cho cư dân những vùng sâu, vùng xa và nông
thôn vốn vẫn không được học hành vì các lý do xã hội, văn hóa như người thiểu số,



nữ giới, người tàn tật, người già cũng như cho tất cả những người vì lý do kinh tế
hay do eo hẹp về thời gian đã không thể đăng ký đến học ởtrường.


Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu

Có người đã định nghĩa đặc trưng của CNTT là khả năng vượt thời gian và
không gian. CNTT khiến việc học khơng cần thiết phải đồng bộ, hay đào tạo có thể
không cần thiết trùng khớp về thời gian giữa giảng và nghe giảng của học sinh,
họcviên.


Tiếp cận những tài nguyên đào tạo từ xa

Giáo viên và học sinh đã không cịn phải phụ thuộc hồn tồn vào sách và
các tài liệu in trong các thư viện với số lượng hạn chế nữa. Với Internet và World
Wide Web, một tài nguyên giáo trình học về hầu hết các mơn học và trên các
phương tiện khác nhau có thể tiếp cận được bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào trong ngày
với số lượng người không hạn chế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với nhiều
trường học ở các nước đang phát triển, và thậm chí một số trường ở các nước phát
triển, những nước chỉ có nguồn thư viện không được cập nhật với số lượng hạn
chế. CNTT cũng tạo điều kiện tiếp cận với những nguồn tài nguyên con ngườinhững chuyên gia, nhà nghiên cứu, giáo sư, lãnh đạo doanh nghiệp, và các bạn bè
ở khắp thếgiới.
Một trong những lý do phổ biến nhất cho việc sử dụng CNTT trong các lớp
học là để chuẩn bị tốt hơn cho thế hệ học sinh hiện tại, khi họ làm việc trong mơi
trường CNTT, đặc biệt là máy tính, Internet và các công nghệ liên quan, ngày càng
trở nên phổ biến. Kiến thức cơ bản về công nghệ hoặc khả năng sử dụng CNTT
một cách có hiệu quả vì thế đã được xem như là một lợi thế cạnh tranh trong thị

trường cơng việc đang ngay càng tồn cầu hóa. Kiến thức công nghệ cơ bản, tuy
nhiên, không phải là kỹ năng duy nhất mà một công việc lương cao trong nền kinh
tế tồn cầu hóa địi hỏi. EnGauge của Phịng thí nghiệm giáo dục khu vực trung


tâm phía bắc (North Central Regiáonal Educational Laboratory (U.S.) đã phân biệt
cái gì gọi là “Những kỹ năng của thế kỷ XXI” bao gồm kiến thức cơ bản về kỹ
thuật số (kiến thức về tính năng, nhìn, khoa học, cơng nghệ, thơng tin, văn hóa và
nhận biết tồn cầu), tư duy sáng tạo, trật tự cao hơn, giao tiếp hiệu quả, logic và
hiệu suất cao.
Tiềm năng của CNTT nhằm củng cố quá trình thu nạp kỹ năng làm việc đã
ràng buộc việc sử dụng CNTT như một công cụ để tăng chất lượng giáo dục, gồm
cả việc chuyển sang giảng dạy theo kiểu lấy học sinh làm trungtâm.
Để góp phần triển khai Đề án tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy-học, nghiên cứu khoa học góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm
2025 (được phê duyệt theo Quyết định số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017 của Thủ
tướng Chính phủ); Căn cứ vào hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT các năm học
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo cũng như Phòng Giáo dục và
Đào tạo; Người lãnh đạo, quản lý nhà trường phổ thơng có thể ứng dụng CNTT
trong cơng tác của mình trên các mặt cụ thể sau [2]:
Ứng dụng công nghệ thông tintrong các hoạt động điều hành và quản lý
giáo dục
a) Đưa vào sử dụng chính thức cơ sở dữ liệu ngành Giáo dục
- Cơ sở dữ liệu trường, lớp, đội ngũ, học sinh, …
- Tích hợp phần mềm thống kê số liệu quản lý giáo dục (EMIS, và phần
mềm thống kê chất lượng giáo dục tiểu học (EQMS) vào cơ sở dữ liệu ngành);
Tiếp tục duy trì có hiệu quả phần mềm quản lý hành chính điện tử (e-office)
kết nối tất cả các Sở GDĐT với Bộ GDĐT phục vụ trao đổi thông tin, trao đổi văn
bản điện tử, quản lý điều hành trên môi trường mạng.



b) Triển khai sử dụng hồ sơ điện tử (sổ điểm, học bạ, sổ liên lạc) phục vụ
công tác quản lý và lưu trữ;
c) Triển khai bổ sung các dịch vụ công trực tuyến, đặc biệt các dịch vụ
công phục vụ phụ huynh, học sinh, một số dịch vụ cụ thể:
- Dịch vụ xét tuyển học sinh đầu cấp (cung cấp đầy đủ các loại mẫu đơn, nộp
hồ sơ trực tuyến, công khai danh sách đăng ký, công khai kết quả xét tuyển và trả
kết quả qua mạng);
- Cung cấp miễn phí thơng báo điểm học tập và rèn luyện qua tin nhắn OTT,
email và website trường học.
- Dịch vụ thanh tốn tiền học phí, tiền bán trú,… qua mạng.
d)

Sử dụng thư điện tử và cổng thông tin điện tử trong trao đổi thơng tin các

cấp, trong và ngồi nhà trường;
e) Tăng cường ứng dụng CNTT vào công tác truyền thông của ngành; phổ
biến đến cán bộ, giáo viên, học sinh và nhà trường khai thác hiệu quả các hệ thống
thông tin của Bộ gồm:
- Cổng thông tin điện tử của Bộ GDĐT tại địa chỉ húttps://moet.gov.vn;
- Cổng thông tin thi và tuyển sinh của Bộ GDĐT tại địa chỉ
húttps://thituyensinh.vn;
- Kho bài giảng e-leanring tại địa chỉ húttps://elearning.moet.edu.vn.
- Phân công một lãnh đạo nhà trường phụ trách và viên chức CNTT (vị trí
việc làm theo Thơng tư số 16/2017/TT-BGDĐT) làm đầu mối triển khai nhiệm vụ
CNTT;


- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền trên môi trường mạng và thông

qua các hội nghị, hội thảo, cuộc thi để nâng cao nhận thức về vai trò của ứng dụng
CNTT trong các hoạt động giáo dục đào tạo.
- Ban hành quy chế quản lý, duy trì và khai thác sử dụng các hệ thống
CNTT, phân công cụ thể trách nhiệm về quản lý, sử dụng hệ thống; triển khai ứng
dụng CNTT phải đi đôi với việc đảm bảo an tồn, an ninh thơng tin.
Trong quản lý trường phổ thông, các chức năng cơ bản của người quản lý là:
– Lập kế hoạch;
– Tổ chức;
– Chỉ đạo và kiểm tra.
Người Hiệu trưởng phải thể hiện được các vai trị chủ yếu của người quản
lý:
– Đại diện cho chính quyền;
– Hạt nhân thiết lập bộ máy tổ chức, thiết lập điều hành đội ngũ nhân lực
trong mọi hoạt động của Nhà trường;
– Người chủ chốt trong việc tổ chức huy động và sử dụng các nguồn lực;
– Tác nhân xây dựng mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình và xã hội,
vận hành hệ thống thơng tin quản lý giáo dục, ứng dụng CNTT trong các hoạt động
giáo dục và quản lý giáo dục của nhà trường.
Người Hiệu trưởng cũng khơng thể thiếu được các vai trị lãnh đạo:
– Chỉ đường và hoạch định;
– Đề xướng sự thay đổi ;
– Thu hút, dẫn dắt;


– Thúc đẩy phát triển.
Ngày nay CNTT được ứng dụng trong mọi lĩnh vực để làm tăng hiệu suất
và chất lượng cơng việc. Có thể ứng dụng CNTT trong cơng tác quản lý ở trường
phổ thông nhằm:
– Nâng hiệu suất thu thập và quản lý thông tin;
– Hỗ trợ lập kế hoạch và quản lý kiểm tra giám sát theo kế hoạch;

– Hỗ trợ thuyết trình, điều khiển, dẫn dắt trong các cuộc họp, thảo luận
nhằm thông báo hay giải quyết vấn đề;
– Hỗ trợ ra quyết định dựa trên thể hiện, phân tích và so sánh các phương án.
Để hỗ trợ người cán bộ quản lý nhà trường phổ thơng trao đổi thơng tin
trong và ngồi trường bằng các trang web riêng của từng trường. Đây là cổng
thông tin điện tử quan trọng cho mỗi đơn vị. Các trường phổ thơng cịncó các phần
mềm quản lý nhà trường thống nhất dùng chung do Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng
như các Sở Giáo dục và Đào tạo trạng bị. bên cạnh đó, người cán bộ quản lý của
các nhà trường cần biết thêm một số công cụ CNTT hỗ trợ quản lý. Ví dụ:
– Một số ứng dụng của Google Document rất dễ dùng và rất hữu ích trong
một số công việc quen thuộc:
+ Ứng dụng Google Drive để chia sẻ, hợp tác biên soạn, phê duyệt trực
tuyến các văn bản chỉ đạo, quản lý;
+ Ứng dụng Form trong Google Drive để thực hiện khảo sát thơng tin từ
phía giáo viên, học sinh, cán bộ quản lý giáo dục về đề xuất biện pháp quản lý mới
hay đánh giá, giám sát việc triển khai các hoạt động của ngành, của trường;
+ Ứng dụng Google Calendar để thiết lập lịch công tác trực tuyến của đơn
vị, của ngành.


×