Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận cao học triết Bản thể luận trong lịch sử triết học trước mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.66 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:
Triết học ra đời khoảng thế từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công
nguyên. Theo tiếng Hy Lạp cổ, triết học được ghép bởi 2 từ “philos - tình
u” và “sophia - sự thơng thái”. Theo nghĩa đen, triết học là tình yêu đối với
sự thông thái. Người Trung Quốc hiểu triết học là sự hiểu biết sâu sắc. Người
Ấn Độ hiểu triết học (Dar’sana) là con đường suy ngẫm để đưa con người đến
lẽ phải. Ngày nay triết học được hiểu là hệ thống tri thức lý luận chung nhất
của con người về thế giới; về vị trí, vai trị của con người trong thế giới ấy.
Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, phương pháp luận. Trước khi
có sự ra đời của triết học Mác - Lênin triết học còn được coi là khoa học của
các khoa học, ở khía cạnh nào đó điều này cũng hợp lý ở chỗ khoa học nào
cũng cần trí thức triết học với tư cách là phương pháp luận hướng dẫn nó phát
triển.
Tổng kết toàn bộ lịch sử triết học đặc biệt là triết học cổ điển Đức,
Ph.Ăngghen đã khái quát: “Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt
của triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại” giữa ý thức và
vật chất, giữa tinh thần và giới tự nhiên. Đó là những lý luận về nguồn gốc, về
sự tồn tại, hay những quan niệm về nguồn gốc của thế giới hay còn gọi là bản
thể luận. Trong lịch sử triết học trước Mác các nhà triết học đã bàn rất nhiều
về nguồn gốc của thế giới, đó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm, giữa vật chất và ý thức, sự vận động và phát triển của thế giới.
Và tất cả những nghiên cứu lập luận về bản thể luận trong lịch sử triết học đều
là cơ sở, là nền tảng lí luận cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
phép biện chứng duy vật lịch sử Mac.
Trong lịch sử triết học, triết học phương Đơng trong đó nổi bật có triết
học Ấn Độ và triết học Trung Quốc thì các triết gia không bàn nhiều về vấn
đề bản thể luận nhưng trong triết học phương Tây các triết gia rất quan tâm
nghiên cứu vấn đề bản thể luận. Đây chính là hạt nhân cho việc hình thành thế
1



giới quan đúng đắn của triết học Mác, để hiểu rõ hơn về lịch sử nghiên cứu về
bản thể luận tôi chọn chuyên đề “Bản thể luận trong lịch sử triết học trước
Mác” là nội dung cho bài tiểu luận mơn triết học của mình.
Trong q trình nghiên cứu, thu thập tài liệu làm tiểu luận sẽ không thể
tránh khỏi sai sót rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cơ để bài viết
của tơi hồn thiện hơn. Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn tới các giảng viên
trong khoa Triết đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu mơn Triết
học.

2


NỘI DUNG
1. Khái niệm “Bản thể luận”:
Thuật ngữ bản thể luận có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Nó là sự kết hợp
giữa hai từ: on: cái thực tồn, và logos: lời lẽ, học thuyết.. tạo thành “Học
thuyết về tồn tại”. Theo nghĩa này bản thể luận được hiểu là học thuyết triết
học về thực tồn nói chung, hồn tồn độc lập với các dạng tồn tại cụ thể của
nó. Thời đó, thuật ngữ “bản thể luận” chưa được sử dụng với tư cách là một
khái niệm mà mới chỉ xuất hiện những tư tưởng về nó, chỉ đến thế kỷ XVII
thuật ngữ này mới chính thức xuất hiện và đưa ra những cách hiểu đặc thù về
nó.
Trong triết học trước Mác, với cách hiểu bản thể luận hay “triết học đầu
tiên” là học thuyết về tồn tại nói chung nên nó cùng nghĩa với siêu hình học một hệ thống những định nghĩa phổ biến có tính chất tư biện về tồn tại. Khi
đó bản thể luận được hiểu như là những nguyên nhân sâu xa, khó xác định
được bằng cảm tính, bằng tri thức kinh nghiệm, mà chỉ có thể hiểu được bằng
tư duy, bằng lý tính.
Tóm lại, một cách chung nhất, khái niệm bản thể luận thường được
hiểu như là lý luận về bản thể, lý luận về nguồn gốc, về tồn tại hay bản thể

luận là quan niệm về thế giới.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Thứ nhất giữa ý thức và vật
chất: cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào? Thứ hai
con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Việc giải quyết
hai mặt vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở phân chia các trường phái triết
học lớn trong lịch sử chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, khả tri luận
(thuyết có thể biết) và bất khả tri luận (thuyết khơng thể biết). Ngồi ra cịn
chủ nghĩa nhị nguyên và hoài nghi luận (chủ nghĩa hoài nghi). Về thực chất
chủ nghĩa nhị nguyên có cùng bản chất với chủ nghĩa duy tâm, cịn hồi nghi
luận thuộc về bất khả tri luận. Mặt khác bất khả tri luận thường có mối quan
3


hệ mật thiết với chủ nghĩa duy tâm, còn khả tri luận gắn liền với chủ nghĩa
duy vật.
Trong lịch sử triết học những người cho rằng bản chất của thế giới là
vật chất: Vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất là cái có
trước và quyết định ý thức của con người được coi là các nhà duy vật, học
thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật.
Ngược lại, những người cho rằng: Bản chất của thế giới là ý thức, ý thức là
tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai và ý thức quyết định vật chất được coi là
các nhà duy tâm, học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau gọi là
chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc
xã hội, đó là sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt,
một đặc tính nào đó của q trình nhận thức và thường gắn với lợi ích của các
giai cấp, tầng lớp áp bức nhân dân lao động. Mặt khác chủ nghĩa duy tâm và
tơn giáo cũng thường có mối liên hệ mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau
để cùng tồn tại và phát triển. Trong lịch sử nhà duy tâm có hai đặc tính cơ bản
là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa
duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi

phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan
khẳng định mọi sự vật hiện tượng chỉ là “phức hợp những cảm giác” của cá
nhận. Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của tinh
thần, ý thức nhưng tinh thần, ý thức được quan niệm là tinh thần khách quan ý
thức khách quan có trước và tồn tại độc lập với giới tự nhiên và con người.
Các nhà duy tâm khách quan, thực thể tinh thần ấy chính là “ý niệm tuyệt
đối”, “tinh thần tuyệt đối” hay lý tính thế giới”.
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm chủ nghĩa duy vật và sự tồn tại, phát
triển của nó có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng
thời thường gắn với lợi ích giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Nó là
kết quả của q trình đúc kết, khái quát hóa những tri thức của nhận loại về
nhiều lĩnh vực để xây dựng nên hệ thống quan điểm chung, đồng thời định
4


hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn của mình. Trên cơ sở phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy
vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong
lịch sử.
2. Quan niệm về bản thể luận trong lịch sử triết học
2.1. Quan niệm về bản thể luận thời kì cổ đại.
2.1.1. Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Đông
Thường được ví là cái nơi của văn minh nhân loại, trong dịng chảy của
tư tưởng phương đơng, những tư tưởng triết học được thể hiện đậm nét ở một
số quốc gia tiêu biểu như Trung Quốc, Ấn Độ... với những quan niệm về bản
thể luận rất đặc sắc.
* Quan niệm của triết học Ấn độ cổ trung đại về bản thể luận Ấn độ là
một trong những quốc gia có nền văn minh phát triển sớm của nhân loại. Do
đặc thù của sự phát triển kinh tế, điều kiện tự nhiên và đặc biệt là sự phát triển
tôn giáo nên những tư tưởng triết học cũng chịu ảnh hưởng nhiều từ những tư

tưởng tơn giáo có tính “hướng nội”. Điều đó cũng xảy ra tương tự trong quan
niệm về bản thể luận của họ.
Các nhà triết học ở Ấn độ cổ đại ban đầu quan niệm bản thể của thế
giới chính là các vị thần có tính chất tự nhiên. Họ giải thích rằng vũ trụ tồn tại
ba thế lực có liên hệ mật thiết với nhau là thiên giới, trần thế và địa ngục. Khi
bắt đầu xuất hiện tư duy triết học về bản thể luận, các trường phái triết học
khác nhau của người Ấn độ cổ đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về bản
thể luận. Đầu tiên phải kể đến những tư tưởng triết học trong kinh Upanisad.
Đây là bộ kinh được ra đời rất sớm, khoảng thế kỷ VIII- VI tr. CN. Nội dung
căn bản của kinh Upanisad là vạch ra bản nguyên tối cao bất diệt của thể giới.
Đó là: “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman. Là thực thể duy nhất, có trước, tồn
tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập về nó
sau khi chết. Linh hồn của con người (Atman) chỉ là sự biểu hiện của một bộ
phận của “ tinh thần tối cao”.
5


a. Phái Samkhya:
Samkhya nghĩa là “số”, “đếm”. Tư tưởng của Samkhya có nguồn gốc
rất cổ và ảnh hưởng của nó rất lớn. Thởi sơ kỳ Samkhya có tinh thần duy vật.
Nó phủ nhận sự tồn tại của Brahman và thần, chỉ thừa nhận thế giới là thế giới
vật chất tồn tại, vận động theo quy luật nhận quả: Kết quả đã tồn tại trong
nguyên nhân trước khi nó xuất hiện. Quan niệm về bản thể bắt đầu từ nguyên
nhân. Theo họ, nếu thế giới là vật chất thì nguyên nhân của nó cũng là vật
chất. Đó là
vật chất đầu tiên, nhưng không phải là vật chất ở dạng thô hay có thể
nhận thức được bằng cảm tính. Đó là vật chất ở dạng tinh tế, tiềm ẩn, không
xác định. Thế giới vật chất là thể thống nhất của ba yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng,
tươi); Rajas (kích thích, động); Tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố này ở trạng
thái cân bằng thì yếu tố vật chất đầu tiên (Prakriti) chưa biểu hiện (chưa nhận

thức đươc bằng trực quan) nhưng khi sự cân bằng bị phá vỡ thì đây chính là
điểm khởi đầu của sự sinh thành vạn vật của vũ trụ. Đó chính là quan niệm
của sự hình thành thế giới hữu
hình đa dạng từ thế giới vơ hình, đồng nhất.
Thời kì hậu samkhuya có khuynh hướng nhị ngun thừa nhận song
song tồn tại yếu tố đầu tiên là vật chất (prakriti) và tinh thần (purusa). Và yếu
tố purusa có tính phổ quát vĩnh hằng bất biến. Purusa truyền sinh khí và năng
lực biến hóa vào prakriti.
b. Các trường phái Nyaya -Vaisesika
Quan niệm bản nguyên duy nhất, đầu tiên của thế giới là những hạt vật
chất không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng được phân biệt ở chất lượng, khối
lượng và hình dạng, tồn tại trong một mơi trường đặc biệt được gọi là Anu
(nguyên tử). Phái Lokayata, với quan điểm duy vật và vô thần tương đối triệt
để quan niệm bản nguyên của tồn tại được tạo thành bởi bốn yếu tố: đất,
nước, lửa, khơng khí. Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động
trong khơng gian và cấu thành vạn vật. Tính đa dạng của thế giới chính là do
6


sự kết hợp khác nhau của những yếu tố bản nguyên ấy. Từ quan điểm đó phái
này cho rằng con người cũng chỉ là sự hợp thành của những yếu tố bản
nguyên vật chất đó nên sự tồn tại hay mất đi của con người cũng bị quy định
bởi sự kết hợp khác nhau của các yếu tố đó. Vì thế linh hồn con người không
tồn tại bất tử giống như thể xác của họ.
Như vậy, trong sự phát triển tư duy trừu tượng của mình, triết học Ấn
độ cổ trung đại đã đặt ra và bước đầu giải quyết nhiều vấn đề của triết học.
Trong khi giải quyết những vấn đề thuộc về bản thể luận, nhiều tư tưởng với
yếu tố biện chứng với tầm khái quát sâu sắc đã được thể hiện và phát triển.
Hầu hết các trường phái triết học đều “biến đổi theo xu hướng từ vơ thần đến
hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên”.

c. Phật giáo
Quan niệm về “Tâm”, “Chân như - Thực tướng”, “Pháp”, “nhân
duyên”, “sắc - không”
Phật giáo trước hết là một tơn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý
phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học thuần tuý mà mục
đích chính của tư tưởng phật giáo là sự giải thốt chúng sinh khỏi nỗi khổ
của cuộc đời. Đó là mục đích tối cao, là vấn đề trung tâm của các giáo lý
Phật giáo. Tuy nhiên, trong quá trình thuyết pháp và truyền bá tư tưởng, rất
nhiều những quan điểm, triết lý Phật giáo lại thể hiện những khía cạnh triết
học sâu sắc mà một trong số chúng là những vấn đề liên quan đến tư tưởng
về bản thể luận.
Một trong những khái niệm trọng tâm trong quan niệm về bản thể luận
của phật giáo là khái niệm Tâm. Đây là lý thuyết của Phật về bản chất tồn tại
của thế giới. Cái Tâm ban đầu vốn tròn đầy, yên tĩnh, chưa xao động. Bản thể
của Tâm được ví như mặt nước lặng trong, do gió thổi (vọng tâm sinh khởi)
mà tạo ra sóng to, sóng nhỏ, bọt, bong bóng… Gió ngừng thổi thì sóng hết,
bọt tan chúng lại trở về với mặt nước n lặng. Đó chính là bản thể của nó.
Vậy Tâm là cái bất biến, có sẵn, khơng thay đổi. Những biểu hiện biến đổi
7


của tâm là do có tác động từ bên ngồi, có sự tiếp xúc của “lục căn” (cơ quan
cảm giác chủ quan) với “lục trần” (thế giới khách quan) làm xuất hiện tâm với
tính cách là ý thức chủ quan làm tâm xao động, chạy theo cái ảo, giả mà sinh
ra “tham”, “sân”, “si”... là quá trình tạo nghiệp, tạo nhân, dễ làm che mờ bản
chất, làm con người đi vào vịng ln hồi khơng dứt. Nhưng khi vượt qua
được điều đó, khi con người được giải thốt, có được trí tuệ bát nhã để phá
tan vơ minh, khi cái tâm ý thức khơng cịn bị tác động và chi phối bởi các yếu
tố khách quan thì vạn vật lại trở về chính nó - cái Tâm ban đầu, thanh tịnh,
yên tĩnh, trong trẻo, là khởi nguồn của tồn tại.

Như vậy, thế giới hiện tượng (vạn tượng) đều từ bản thể (chân tâm,
chân như) mà ra. Cái chân như đó là pháp chân thật, khơng hình khơng tướng,
lúc nào cũng vậy, bất biến. Tức là, thế giới vật chất cụ thể do nhân duyên tạo
thành chỉ là hư ảo, cái bản thể khơng hình tướng mới là chân thực duy nhất.
Như vậy, cái bản thể, cái chân như đó ở trong thế giới trần tục, lẫn với bụi đời
(cửu hỗn phàm trần) chứ khơng phải ở sự tồn tại bí ẩn nào. Người giác ngộ sẽ
thấy ra điều đó
cịn người trần tục lại tưởng Bồ đề ở rất xa xôi. Khi giác ngộ thì bản thể
thần diệu đó vốn là hư khơng, nhưng vẫn biểu hiện ra mn hình vạn trạng để
nhận dạng ra nó.
Một trong những quan niệm điển hình của Phật giáo khi đề cập đến vấn
đề bản thể luận là khái niệm “Không”. Trong quan hệ với “sắc”, nếu “khơng”
là cái bắt đầu của mọi tính, đó là bản tính vũ trụ, là chân như pháp tính” hoặc
“phật tính”, nói tắt là “như” hay “chân như”, nó là cái độc lập tự tại, không do
ai sinh ra thì “sắc” được hiểu như là hiện tượng bộc lộ ra và tồn tại không thể
tách rời “không” (bản thể). “Sắc” cịn được hiểu là vật chất đối lập với
“khơng” là tâm, là tinh thần. Theo tư tưởng Bát Nhã thì sắc tức là khơng,
khơng tức là sắc, sắc chẳng khác khơng; khơng chẳng khác gì sắc. Trong sắc
có khơng, trong khơng có sắc. Kinh Phật thường có cụm từ sắc sắc khơng
khơng để nói về sự vơ thường của đời sống.
8


Từ quan niệm “khơng” đó, Phật giáo đưa ra khái niệm “Pháp”. Ngồi
ra, Phật giáo cịn đưa ra quan niệm “Nhân duyên” như là một yếu tố cấu thành
nên tồn tại.
Thế giới quan phật giáo có những yếu tố duy vật và vô thần, chứa đựng
nhiều tư tưởng biện chứng sâu sắc. Tính duy vật vơ thần thể hiện rõ trong
quan niệm về tính tự thân sinh thành và biến đổi của vạn vật. Không do một
lực lượng thần linh hay thượng đế tối cao nào. Tính biện chứng sâu sắc thể

hiện trong luận giải về tính chất “vơ ngã”, “vô thường”. Phật dạy vạn vật
chuyển biến không ngừng trong từng satna (từng giây, từng phút. Thậm chí
chỉ bằng cái nháy mắt). Từ con người cho đến vũ trụ vạn vật đều vận hành
theo quy luật: thành, trụ, hoại, không (hoặc sinh, trụ. dị, diệt) được ví như bốn
mùa xuân, hạ, thu, đông hay sinh, già, bệnh, chết. Trong bốn thời kỳ đó, thời
kỳ Trụ lại là hết sức ngắn ngủi, chỉ bằng một satna. Tức là mọi hiện tượng
đang tồn tại thực tế trước mắt không phải là cố định mà ở trên một dòng biến
đổi thường xuyên, vĩnh viễn vơ thủy, vơ chung. Vì thế gian vơ thường nên
mọi vật đều vơ tự tính (khơng có tự tính hay là khơng có bản thể riêng). Đó
chính là sự vơ ngã (anatman) ở con người.
Chính từ quan điểm bản thể luận này mà những tư tưởng căn bản của
Phật giáo mới hướng tới việc lý giải nỗi khổ của đời người và tìm cách giải
thốt con người khỏi nỗi khổ trong thuyết “Tứ diệu đế”.
Triết học Ấn Độ là một trong những nơi triết học vĩ đại của lồi người
thời kì cổ đại. Nó chứa đựng những yếu tố duy vật, vơ thần và manh nha hình
thành các tư tưởng biện chứng sơ khai. Tuy nhiên, tư duy triết học thời kì này
bộc lộ nhiều hạn chế như: Coi linh hồn con người là bất tử (Đạo Phật) hay
phán đoán về thế giới hiện tượng của phái jaina.
1.1.2. Quan niệm của triết học Trung quốc cổ trung đại về bản thể
luận
a. Trường phái triết học Âm Dương - Ngũ hành

9


Trường phái triết học cổ nhất của Trung quốc cổ đại lại hướng đến việc
lý giải sự tồn tại của thế giới trong sự tương tác của các yếu tố tự nhiên trong
thế giới mà thành. Với quan điểm duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự
phát, lấy chính tự nhiên để giải thích các hiện tượng của tự nhiên, các quan
điểm này hướng tới việc phân tích sự tác động của các yếu tố cơ bản có trong

tự nhiên tạo thành sự vật (học thuyết ngũ hành) hay là sự liên hệ, tương tác
giữa hai mặt đối lập, hai thế lực vật chất cơ bản để tạo nên vũ trụ (học thuyết
âm dương). Học thuyết Thái cực, Âm dương luận: Đây là quan niệm, học
thuyết về sự liên hệ, tác động qua lại giữa hai mặt đối lập, hai thế lực vật chất
cơ bản của thế giới là âm và dương, là bản thể làm nên sự tồn tại của thế giới.
Theo đó, mọi sự vật, hiện tượng của vũ trụ đều bắt nguồn từ bản thể tối cao “khí” = “thái cực” = nguyên thể đầu tiên, cội nguồn của thế giới. “Dương” là
ánh sáng mặt trời hay
những gì thuộc về ánh sáng mặt trời, “Âm” có nghĩa là thiếu ánh sáng
mặt trời, tức là bóng râm hay bóng tối. Về sau Âm Dương được coi như hai
khí, hai nguyên khí hay hai thế lực của thế lực vũ trụ. Sự tác động và chuyển
hóa của âm và dương trong thái cực tạo ra sự vận động, biến hóa khơng
ngừng của vũ trụ Học thuyết Ngũ hành cho rằng: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là
yếu tố vật
chất đầu tiên (hay là năm thứ khí cơ bản) tạo ra vạn vật trong vũ trụ.
Các yếu tố này trong mối quan hệ tương sinh, tương khắc là khởi nguồn sinh
diệt của thế giới. Những tư tưởng này thể hiện sự phát triển của nhận thức duy
vật, biện chứng trong tư tưởng của người phương Đông cổ đại.
b. Trường phái triết học của phái đạo gia
Một trong những quan điểm tiêu biểu của người Trung quốc cổ đại về
bản thể luận là quan điểm về Đạo của Lão Tử - người sáng lập ra trường phái
triết học đạo gia, một trong ba trường phái triết học lớn nhất của trung quốc
thời cổ đại.

10


Theo Lão tử, “Đạo” là cái có trước trời đất, trống khơng và lặng n
nhưng lại có ở mọi nơi, là nguồn gốc của vạn vật. Nó là sự thống nhất của thế
giới, là bản nguyên sâu kín, huyền diệu mà từ đó vạn vật có danh tính, có hình
thể được sinh ra. Đạo là thực thể vật chất của khối “hỗn độn”, “mập mờ”,

“thấp thống” khơng có đặc tính, khơng có hình thể, nhìn khơng nhìn thấy,
nghe khơng nghe thấy, bắt khơng bắt được, chẳng thể gọi tên. Nó tồn tại bất
luận con
người nhận thức được hay không. Ở khía cạnh bản thể luận, khái niệm
“đạo” của Lão tử được đề cập ở ba khía cạnh là thể, tướng và dụng.
+ Thể của “đạo” theo quan niệm của Lão tử không đồng nhất với cách
hiểu về “bản thể” theo quan niệm phương Tây. Theo Lão Tử, đó là cái chỉ
nguồn gốc nguyên thủy của vũ trụ vạn vật, là cái “tổng nguyên lý” chi phối sự
sinh thành, biến hóa của trời đất.
“Đạo” mang tính khách quan, tự nhiên, có nghĩa là nó vốn như vậy,
mộc mạc, thuần phác, khơng bị chi phối, nhào nặn bởi con người và hoàn tồn
độc lập với ý thức con người – nó sinh ra vạn vật nhưng bản thân nó khơng có
ý chí, mục đích. “Đạo” với bản tính tự nhiên chứa đựng trong nó cả tồn tại lẫn
khơng tồn tại, cả tĩnh lặng lẫn biến đổi, cả siêu hình và hữu hình. Một tính
chất khác của “đạo” là tính lặng yên và trống khơng, đây là một định tính căn
bản, nó vơ cùng vô tận, chứa đựng vạn vật mà không đầy, biến hóa đa dạng
khơn lường mà khơng hết, nó là cái sâu kín, mầu nhiệm, khơng danh tính,
khơng hình thể, khơng thể nói ra được bằng lời.
+ Tướng của “đạo”: đạo với tư cách cơ sở đầu tiên của vạn vật không
phải là thể cố định, đặc biệt là thực thể của cả một khối hỗn độn, khơng có bất
cứ tính quy định nào ngồi tính khách quan, tự nhiên chất phác, trống rỗng đó là cái tồn tại tuyệt đối, sâu kín, thấp thống, là thể thống nhất khơng phân
chia giữa hữu với vô, sáng với tối…, là cái “nhìn khơng thấy, nghe khơng
thấy, nắm khơng được, đón khơng thấy đầu mà theo không thấy cuối, ở trên
không sáng tỏ, ở dưới không mờ tối” . Như vậy, tướng của đạo theo nghĩa là
11


các biểu hiện đa dạng của nó khơng chỉ một sự vật, hiện tượng cụ thể hữu
hình nào, mà chỉ là cái mà tất cả mọi vật được sinh ra từ nó, là cái tồn tại tiềm
ẩn đằng sau những thay đổi của vạn vật. Đạo vừa duy nhất, vừa mn hình

vạn trạng, vừa bất biến lại vừa khả biến. Trong Đạo đức kinh, Lão Tử thường
lấy nước để diễn đạt trạng thái “tướng” phổ biến của “đạo” - sự mềm mại,
linh hoạt và dễ thích ứng của nước.
+ Dụng của “đạo” tức là cơng dụng, năng lực của nó - trạng thái vận
động, biến đổi sản sinh vạn vật. Đạo có sức sáng tạo vơ cùng lớn lao, có thể
bao quát, ngự trị trời đất, nhờ đạo mà vạn vật hiển hiện ra trong vũ trụ bằng
mn loại hình dạng khác nhau. Năng lực của đạo là ở chỗ khơng làm, n
tĩnh nhưng khơng có gì mà nó khơng làm, khơng có cái gì mà sự tồn tại, phát
triển của chúng không cậy đến đạo. Dùng hai chữ “đạo” và “đức” là để chỉ cả
“thể” và “dụng” của đạo, đạo là thể của đức, đức là dụng của đạo… Như vậy,
“đạo” là hạt mầm chứa lẽ sống chưa hiển lộ - là cái gốc của mn vật. Có thể
thấy những quan điểm về bản thể luận trong khái niệm “Đạo” của Lão tử, nếu
gạt bỏ những điểm hạn chế về thế giới quan và lập trường duy tâm, đã phần
nào tiêu biểu cho cho những quan niệm biện chứng đầy tinh tế và bí hiểm của
người phương đơng. Quan điểm này vừa thể hiện quan điểm trực quan
nguyên sơ của người trung quốc cổ đại nhưng lại hàm chứa trong đó những
đốn định, cảm nhận sâu sắc về sự tồn tại và biến hoá của vũ trụ, điều chỉ xuất
hiện khi tư duy trừu tượng đạt tới trình độ cao.
Đến thời nhà Tống, quan niệm về bản thể luận của người Trung quốc
lại có những thay đổi. Học thuyết về Lý - Khí của Tống Nho, với các đại diện
chủ yếu là Trình Hạo, Trình Di, cho rằng “Lý” hay “thiên lý” là bản thể của
thế giới vạn vật. Lý không sinh, không diệt, tồn tại khắp nơi. Lý hay thiên lý
vừa là nguyên tắc tối cao của giới tự nhiên, vừa là của đời sống xã hội. Vì Lý
khơng thể cảm nhận được nên nó là hư khơng, nhưng sự hiện hình của nó
trong các sự vật cụ thể làm nên sự hiện hữu của nó. Tuy nhiên, nhằm bảo vệ
và thể chế hoá ý niệm đạo đức và nguyên tắc của xã hội phong kiến đương
12


thời, các nhà tư tưởng giai đoạn này đã rơi vào lập trường duy tâm khi khẳng

định tính có trước, tuyệt đối, vĩnh cửu, không thể thêm bớt, không thể nhìn
thấy, nghe thấy… của Lý. Quan điểm này càng trở nên cực đoan khi họ vận
dụng nó vào trong đời sống xã hội để khẳng định và duy trì vị thế của giai cấp
phong kiến như một cái Lý đã định sẵn. Với tư tưởng như vậy nên quan niệm
về bản thể của họ đã trở thành chỗ dựa tinh thần của giai cấp thống trị.
Phạm trù “Tâm”, “Lương tri - Lương năng” trong triết học Nho gia.
Nho giáo, với nội dung chủ yếu thiên về giải quyết các vấn đề chính trị - xã
hội và con người nên lại đưa ra những quan niệm khác khi lý giải về bản
nguyên của tồn tại.
Theo Mạnh Tử tâm là cái chủ thể trong mỗi con người, là cái thần linh
có đủ mọi lý và trời phú cho con người để hiểu biết, ứng đối với vạn vật, vạn
sự. Tâm có quan hệ với Tính. Tính là cái lý hồn tồn của tâm. Đem cái tâm
tính ấy mà ứng xử với vạn vật bên ngồi là tình. Cho nên tâm của ta với tâm
của trời đất là một thể. Và khi tận tâm tính con người có thể biết được trời,
hiểu rõ đạo lý, tức là con người có thể trở thành thánh thiện bởi vì tâm vốn có
“lương năng” và “lương tri”, đó là cái biết, sinh ra đã biết, do trời phú cho (ý
niệm bẩm sinh)... Lương tri - lương năng (quan điểm của Vương Thủ Nhân
1472-1528): là cơ sở để xây dựng luân lý đạo đức của xã hội phong kiến, nó
là cái khả năng, cái biết do tự nhiên mà có chứ khơng phải do giáo dục, học
tập mà có ở con người, là cái vĩnh viễn khơng thay đổi do vậy con người phải
“phản tỉnh” để căn cứ theo nó mà hành động, cư xử cho hợp lễ nghĩa.
Đây là những quan điểm duy tâm chủ quan về bản nguyên thế giới mà
ở đó con người đóng vai trị quyết định hay là có sự hợp nhất với trời. Tóm
lại, các nhà tư tưởng trung quốc thời cổ đại, với những tư tưởng triết học
phong phú và đa dạng đã đưa ra những quan điểm khác nhau về bản thể luận,
thể hiện cuộc đấu tranh của các quan điểm duy vật và duy tâm trong thời kỳ
này. Tuy nhiên, tựu chung lại, các tư tưởng của họ, thơng qua cách giải thích

13



và lý giải về sự tồn tại của hiện thực, dù cách này hay cách khác đều hướng
vào việc bảo vệ và duy trì trật tự Phong kiến hiện hành.
2.2. Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Đông
* Triết học phương Tây cổ đai
Trên cơ sở làm rõ nội hàm của khái niệm “bản thể luận” và trình bày
một cách khái quát lịch sử hình thành, phát triển của khái niệm này trong triết
học phương Tây, từ cổ đại đến hiện đại, bài viết đã đưa ra và phân tích nội
dung của cách tiếp cận bản thể luận để từ đó đi đến khẳng định rằng, cách tiếp
cận bản thể luận không phải là cách tiếp cận mới, nhưng là một trong những
cách tiếp cận có tính gợi mở cao, cho phép nhìn nhận tiến trình phát triển của
lịch sử triết học từ một góc độ khác và là cách tiếp cận hữu dụng trong việc
nghiên cứu lịch sử triết học.
Với tư cách một thành tố căn bản, là “thể nền” của bất kỳ hệ thống triết
học nào, bản thể luận và đi liền với nó là cách tiếp cận bản thể luận đã cho
thấy lơgíc vận động nội tại của triết học nói chung, đặc biệt và cụ thể hơn là
của triết học Tây Âu. Chỉ khi đề cập đến nội dung bản thể luận của tư tưởng
triết học Tây Âu, chúng ta mới có thể nắm bắt được tính đặc thù, cũng như sự
tăng trưởng tri thức ở nó, vì bản thể luận ln đóng vai trò thể nền và là khâu
liên kết, hợp nhất mỗi một hệ thống triết học thành một thể thống nhất, có
quan hệ với tư tưởng triết học quá khứ, hiện tại và mở ra các xu hướng vận
động tiếp theo của tư tưởng ấy vào tương lai. Như vậy, vấn đề đầu tiên trong
quá trình nghiên cứu lịch sử triết học phương Tây chính là việc làm rõ nội
hàm của các khái niệm “bản thể luận” và “cách tiếp cận bản thể luận”. Đây là
những khái niệm quen thuộc đối với giới nghiên cứu lịch sử triết học phương
Tây, song tiếc thay, vẫn chưa được chúng ta tìm hiểu một cách đầy đủ. Nhằm
bổ khuyết lỗ hổng này, chúng tơi mạnh dạn trình bày một số ý kiến của mình
trong bài viết này.
Để hiểu rõ thực chất của cách tiếp cận bản thể luận, theo chúng tôi,
trước hết cần phải làm rõ nội hàm của khái niệm “bản thể luận”, vì qua đó,

14


chúng ta mới có thể xác định được các nguyên tắc tiếp cận bản thể luận với
đối tượng nghiên cứu. Trước hết, chúng ta cần khẳng định rằng, bản thể luận
là bộ phận cơ bản nhất của siêu hình học. Tên gọi “bản thể luận” chỉ xuất hiện
lần đầu tiên ở thế kỷ XVII, trong “Lexicon philosophicum” (Bách khoa thư
triết học) của triết gia R.Goclenius được xuất bản tại Phrăngphuốc (Đức) vào
năm 1613(1). Muộn hơn
hiện

trong

các

tác

một

chút,

thuật

ngữ

này

cũng

đã


xuất

phẩm của A.Calovius (xuất bản tại Rostock, năm

1636) và của J.B. du Hamel (xuất bản tại Pari, năm 1687). Năm 1656,
J.Clauberg cũng đã sử dụng thuật ngữ này trong “Siêu hình học” được xuất
bản tại Amsterdam. Thuật ngữ này được phổ biến rộng rãi trong triết học sau
khi C.Vơnphơ (C.Wolff) sử dụng nó để chỉ một bộ phận căn bản của siêu hình
học, bên cạnh vũ trụ luận, tâm lý học và thần học. Như vậy, tên gọi “bản thể
luận” chỉ xuất hiện vào thế kỷ XVII, nhưng tư tưởng bản thể luận đã xuất hiện
từ rất sớm trong lịch sử triết học, ngay từ thời Cổ đại. Nói một cách chung
nhất, bản thể luận được hiểu là học thuyết về tồn tại và khái niệm “tồn tại” là
một trong các khái niệm cơ bản của triết học phương Tây. Khái niệm này liên
hệ mật thiết và hữu cơ với quá trình hình thành triết học phương Tây tới mức
chính nó, chính sự lý giải về nó đã tạo thành bản chất của phương pháp tư duy
triết học Tây Âu. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu lịch sử bản thể luận, lịch
sử các quan niệm, học thuyết triết học về tồn tại, về khái niệm tồn tại là con
đường duy nhất để làm sáng tỏ nội dung của khái niệm này. Chỉ thơng qua đó,
chúng ta mới có thể có được nội dung các nguyên tắc, cách tiếp cận bản thể
luận.
Thuật ngữ bản thể luận có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nó là sự kết hợp
giữa hai từ on (ỹv) - “cái thực tồn”, cái đang tồn tại và logos (ởỹóùũ) - lời lẽ,
học thuyết, tạo thành “học thuyết về tồn tại”.
Chúng ta cần phân biệt hai bộ phận của siêu hình học để có thể thấy rõ
hơn được vị trí, đối tượng và cách tiếp cận của bản thể luận và qua đó, cũng
thấy được vai trò hết sức quan trọng của bản thể luận với tư cách bộ phận căn
15



bản nhất của siêu hình học. Siêu hình học được phân thành siêu hình học
chung (metaphysica generalis), hay cịn gọi là siêu hình học đại cương và siêu
hình học chuyên ngành (metaphysica specialis). Siêu hình học đại cương có
đối tượng nghiên cứu là những cơ sở sâu xa, những quy tắc, cấu trúc cơ bản
của tồn tại, như Arixtốt nói, nó nghiên cứu “cái thực tồn như là cái thực
tồn”(2)hay “cái gì là tồn tại của cái thực tồn”; cịn siêu hình học chun
ngành có đối tượng nghiên cứu là Thượng đế (Thần học tự nhiên), linh hồn
(Tâm lý học tự nhiên) và thế giới (Vũ trụ học). Như vậy, bản thể luận chính là
bộ phận siêu hình học chung (đại cương) của siêu hình học. Nói chung, theo
nghĩa cổ điển thì bản thể luận có nhiệm vụ lý giải cấu trúc cơ bản của tồn tại
và do vậy, bản thể luận (siêu hình học đại cương) mang tính trừu tượng cao
nhất. Các câu hỏi, như: Con người là gì? Có Thượng đế khơng? hay: Thế giới
có điểm khởi đầu khơng?... là lĩnh vực thuộc về siêu hình học chun ngành
chứ khơng phải là của bản thể luận. Chính vì đặc trưng trừu tượng nhất của nó
mà học giả Uwe Meixner đã coi bản thể luận chỉ có “tính chất mơ tả thuần
t”(3). Theo ơng, bản thể luận có nhiệm vụ mô tả cấu trúc nền tảng của “tất
cả những cái hiện thực và những cái không hiện thực”, tức là của tất cả những
cái thực tồn.
Từ thời Cổ đại, các nhà triết học đã phân biệt tồn tại (Sein) với thực tồn
(Seiendes, hiện hữu). Cái thực tồn là tổng thể những cái có thực và khơng có
thực, kể cả những cái đang ở dạng khả năng. Nhưng, ở tổng thể những cái đa
dạng ấy, có thể tìm thấy một điểm chung, một dấu hiệu “trung tính” thể hiện ở
chỗ, thế giới nói chung là đang thực tồn. Khái niệm “tồn tại” biểu thị điều đó.
Tại sao một vật nói chung lại thực tồn, sự thực tồn đó căn cứ trên cái gì? Cái
gì là ngun nhân của nó? Tồn tại là cái tối hậu mà con người có thể đặt câu
hỏi về nó, song nó lại khơng thể xác định theo cách thức thông thường.
Khái niệm “tồn tại” lần đầu tiên được triết gia Hy Lạp - Pácmênít bàn
tới. Ông cho rằng, bản chất của mọi sự vật trong thế giới là tồn tại, khơng thể
có cái khơng-tồn tại, bởi chúng ta khơng thể hình dung được cái khơng–tồn
16



tại là cái gì. Tồn tại là cái chỉ có thể nhận thức được bằng lý tính. Mọi tư duy
bao giờ cũng là tư duy về tồn tại. Tư duy, do vậy, đồng nhất với tồn tại.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, thuật ngữ “siêu hình học” khơng phải
do Arixtốt đưa ra, mà do nhà triết học Andronikos Rhodos, trong quá trình
phân định các tác phẩm của Arixtốt, đưa ra vào khoảng năm 70 sau CN., tức
là sau khi Arixtốt đã qua đời. Nghĩa ban đầu của thuật ngữ “siêu hình học” là
nghiên cứu “những cái sau vật lý”, tức là những ngun nhân sâu xa (vơ hình,
siêu hình), cơ sở của hiện thực mà chúng ta không thể đạt được bằng kinh
nghiệm, cảm tính, mà chỉ có thể đạt được nhờ vào lý tính, vào tư duy.
Vậy, bản thể luận cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về cấu trúc cơ
bản của tất cả những cái thực tồn bằng cách nào? Nói chung, nó có thể thực
hiện điều ấy bằng hai cách thức khác nhau. Một mặt, chúng ta có thể xem xét
các kinh nghiệmcủa mình về những cái thực tồn và từ đó, tìm cách xác định
những đặc trưng, tính chất cơ bản của chúng. Đây là con đườngtrực tiếp tiếp
cận tới cấu trúc cơ bản của tất cả những cái thực tồn. Nhưng trên thực tế, các
nhà triết học thường ít chọn con đường này, mà họ sử dụng “con đường
vịng”, gián tiếp thơng qua ngơn ngữ. Chẳng hạn, Arixtốt đã đi theo hướng
này với học thuyết về phạm trù của ơng. Các phạm trù chính là nội dung của
tồn tại, được phân cấp thành “thực thể” (Substanz, hay “bản chất”) và “tuỳ
thể” (Akzidenz, các dạng thức thể hiện “bản chất”, phụ thuộc vào “bản chất”).
Con đường gián tiếp thơng qua ngơn ngữ này có ưu điểm hơn so với
con đường trực tiếp thông qua kinh nghiệm, bởi cấu trúc của ngôn ngữ dễ
nắm bắt hơn so với cấu trúc của kinh nghiệm và hơn nữa, kinh nghiệm thường
xun biến đổi, cịn cấu trúc ngơn ngữ thì ổn định và do vậy, cũng dễ phân
tích, “mổ xẻ” hơn. Như vậy, ngôn ngữ cũng được coi là một phương tiện,
công cụ hữu hiệu biểu lộ cho chúng ta thấy cấu trúc cơ bản của các cái thực
tồn. Tương ứng với hai con đường trên, có hai nguyên lý trong bản thể luận.
Nguyên lý thứ nhất gắn liền với tên tuổi của Arixtốt và đó chính là

ngun lý thực tại. Nguyên lý thứ hai có thể được gọi là nguyên lý cấu trúc
17


hay là nguyên lý Cantơ(4). Nguyên lý Arixtốt cho rằng, các cấu trúc cơ bản
thể hiện ra trong kinh nghiệm và được phản ánh vào trong ngôn ngữ. Do vậy,
chúng ta có thể “đọc” ngơn ngữ và tìm ra được những cấu trúc cơ bản của tồn
tại. Chính vì lẽ đó mà sau này, Wittgenstein đã cho rằng, thơng qua “phân tích
ngơn ngữ”, chúng tasẽ hiểu được bản chất sâu xa của tồn tại. Cịn ngun lý
cấu trúc thì ngược lại: các cấu trúc cơ bản ấy không tồn tại tự thân, mà chỉ là
sự phóng chiếu của tư duy vào thế giới thông qua ngôn ngữ. Và cho dù hai
ngun lý này có đối lập nhau thì phần lớn các nhà bản thể luận vẫn quan
niệm rằng, nội dung của bản thể luận mà chúng mô tả cũng chỉ là một.
Theo Tômát Đacanh, “tồn tại” không phải là một khái niệm mang một
nghĩa duy nhất, mà có thể có nhiều nghĩa khác nhau, tuỳ thuộc vào quan hệ
của nó với các đối tượng. Điều này có nghĩa là, các đối tượng có được sự thực
tồn của mình là “nhờ vào tồn tại và thông qua tồn tại” và tồn tại đích thực, tối
cao này chính là Chúa. Tất cả các cái khác chỉ có được sự tồn tại của mình
nhờ “tham dự” vào tồn tại tối cao đó; tồn tại tối cao này là bản chất của mọi
cái thực tồn. Nói cách khác, trong mọi sự vật cần phải phân biệt giữa
“bản chất”(essentia) và “tồn tại” (existentia) và chỉ duy nhất ở Chúa thì bản
chất mới đồng nhất với tồn tại.
Như đã nói ở trên, C.Vơnphơ là người đã phân định rõ “lĩnh vực” của
siêu hình học chuyên ngành so với bản thể luận (siêu hình học chung, phổ
quát), siêu hình học chuyên ngành bao gồm ba bộ phận cấu thành là: Thần
học tự nhiên, Tâm lý học tự nhiên và Vũ trụ học. Cơng lao chính của Vơnphơ
là ở chỗ đã tách bản thể luận ra khỏi thần học tự nhiên. Nối tiếp con đường
phân tích đó, Cantơ đã đưa siêu hình học phổ quát (cổ điển) trở về “bản thể
luận của lý trí”. Khi phê phán mạnh mẽ siêu hình học cổ điển, coi nó hồn
tồn khơng xứng danh “cao quý” như tên gọi của nó, Cantơ cho rằng, bản thể

luận cổ điển phải nhường chỗ cho “phép phân tích đơn thuần về lý trí (giác
tính) thuần t”. Ơng viết: “Các ngun tắc của giác tính chỉ đơn thuần là các
nguyên tắc trình bày về những hiện tượng, cho nên môn học với tên gọi
18


rất tự hào là môn Bản thể học (Ontologie) tự cho là chuyên mang lại những
nhận thức tổng hợp tiên nghiệm về những sự vật nói chung trong một học
thuyết có hệ thống (ví dụ như ngun tắc về tính nhân quả) phải nhường chỗ
cho môn học với tên gọi khiêm tốn là Phân tích pháp về giác tính thuần
tuý”(5). Hêghen, một mặt, đã phê phán siêu hình học cũ, nhưng mặt khác, lại
cho rằng, “Lơgíc học” của ơng là đồng nhất với siêu hình học, tức là “với
khoa học nắm bắt sự vật trong tư tưởng, khoa học có nhiệm vụ trình bày bản
chất của sự vật”. Theo Hêghen, bản thể luận là “học thuyết về các tính quy
định trừu tượng của bản chất”(6). Hêghen cũng là người đầu tiên đưa ra quan
niệm coi siêu hình học là một phương pháp tư duy đối lập với phương pháp
biện chứng và qua đó, siêu hình học bị đánh giá một cách hồn tồn tiêu cực.
Hêghen kiên trì ngun tắc đồng nhất giữa tư duy với tồn tại và, xét theo
nghĩa ấy, có thể nói, ơng đã tìm cách kết nối bản thể luận “thực tại” với bản
thể luận “cấu trúc”.
Trong nỗ lực tìm cách xây dựng “Bản thể luận mới”, chúng ta phải kể
đến nhà triết học Đức - Nicolai Hartmann. “Bản thể luận mới” này đã được
ông xây dựng dựa trên một nền tảng kinh nghiệm chặt chẽ và như vậy, đã
chống lại quan niệm coi bản thể luận như là học thuyết về bản chất, chống lại
“trực giác bản chất” (ví dụ như của E.Huxéc), cũng như khước từ mọi yêu cầu
của siêu hình học cổ điển. Theo ông, bản thể luận là học thuyết về tồn tại
“hiện thực” và tồn tại “lý tưởng”. Tồn tại “hiện thực” lại bao hàm trong mình
bốn “thang bậc” hay bốn “lớp” (Schicht) từ thấp đến cao là: cái vật chất-vật
lý, sự sống hữu cơ, linh hồn và tinh thần. Còn lĩnh vực tồn tại “lý tưởng” là
tồn tại của những bản chất, những khn mẫu tốn học và những giá trị. Như

vậy, trong cấu trúc của tồn tại có sự phân định về chất giữa các “lớp của tồn
tại” và các “lớp” cao hơn không thể quy về các “lớp” thấp hơn. Ngồi ra,
Nicolai Hartmann cịn khơng thừa nhận có mối quan hệ biện chứng giữa các
“lớp” của tồn tại.

19


Nghĩa của tồn tại là một trong những đề tài trọng tâm trong các tác
phẩm của M.Haiđơgơ, nhất là trong tác phẩm nổi tiếng “Tồn tại và thời gian”.
Theo ông, vấn đề về nghĩa của tồn tại đã bị lãng qn trong lịch sử siêu hình
học vì chỉ có “hiện hữu” được đề cập tới chứ không phải là “tồn tại”. Rằng,
nhiệm vụ của “Bản thể luận nền tảng” (Fundamentalontologie) là chỉ ra sự
khác biệt ấy. Khác với mọi vật hiện hữu khác, chỉ có con người mới có thể đặt
câu hỏi về tồn tại của chính mình. Haiđơgơ trách cứ triết học phương Tây
truyền thống sau Xôcrát là đã bỏ qua tồn tại người (Dasein) và hơn thế nữa,
đã đánh đồng tồn tại người ngang bằng với “hiện hữu” của các sự vật khác.
Với quan niệm đó, ơng xác định việc phân tích cấu trúc của Dasein là nhiệm
vụ chính trong triết học của mình.
J.P.Xáctơrơ đã tiếp tục con đường phân tích những cấu trúc của tồn tại
người, đặc biệt là trong quan hệ của nó đối với hư vơ. Trong “Tồn tại và hư
vơ”, khi coi tính đặc thù của tồn tại người trước hết là tính đặc thù của ý thức
con người với tư cách một thực tại đặc biệt, ông đã xem xét ý thức con người
trên các bình diện bản thể luận và siêu hình học. Bản thể luận được ông hiểu
là một bộ môn mô tả, ghi nhận các cấu trúc khác nhau của tồn tại người, tức là
mô tả thực tại nghĩa đặc thù người(7). Cịn siêu hình học được hiểu là ý định
xem xét một cách khái quát bản thân sự kiện của tồn tại người đã diễn ra với
vũ trụ và qua đó, đã tạo ra một thực tại tuyệt đối độc đáo mà nhờ đó, thế giới
có được nghĩa và lần đầu tiên bắt đầu hiện hữu, “có mặt” thơng qua tồn tại
người. Với cái nhìn khái quát như vậy về bản thể luận, chúng ta có thể xác

định nội dung của cách tiếp cận bản thể luận như sau.
Lịch sử bản thể luận phương Tây cho thấy, bản thể luận với tư cách bộ
phận căn bản nhất của siêu hình học đã ra đời cùng với siêu hình học và trải
qua q trình phát triển liên tục. Có thể chia thành ba giai đoạn cơ bản trong
sự phát triển ấy của bản thể luận là: bản thể luận tự nhiên (cổ đại), bản thể
luận nhận thức (cận đại) và bản thể luận văn hoá (hiện đại)(8).

20


Trước khi triết học ra đời, điểm tựa về tinh thần của con người chính là
thế giới quan thần thoại và theo đó, mọi cái đều bị chi phối bởi các lực lượng
siêu nhiên, tức là các thần linh thông qua tiếng nói của chúng là Logos (thần
ngơn). Sau đó, cùng với các tri thức kinh nghiệm ngày càng được tích luỹ,
cũng như những hiện tượng mà con người vấp phải trong cuộc sống, như
thiên tai, chiến tranh, v.v., con người ngày càng không tin tưởng vào sức
mạnh tuyệt đối của các thần linh, khơng cịn lắng nghe “thần ngơn” nữa và
qua đó, cũng khơng cịn thoả mãn với thế giới quan thần thoại như điểm tựa
tinh thần và bắt đầu đi tìm một thế giới quan mới, một điểm tựa tinh thần mới
cho mình. Chính những tri thức kinh nghiệm về tự nhiên đã góp phần làm cho
con người phát hiện ra “bản chất tự nhiên” của các thần linh mà họ vốn thờ
cúng. Điều này, đến lượt mình, lại đưa con người đến chỗ “tự nhiên hoá
Logos”, tự nhiên hóa thế giới quan thần thoại. Các thần linh đánh mất bản
chất thần thánh của mình, trở thành những nhân vật có bản chất tự nhiên và
thường được khốc lên mình bộ mặt con người. Điều này cho thấy, con người
cổ đại bắt đầu đồng nhất bản thân mình với giới tự nhiên, coi bản thân mình là
một bộ phận của giới tự nhiên, là tiểu vũ trụ nằm trong đại vũ trụ. Quan niệm
về bản thân mình như vậy của con người cổ đại đã dẫn các nhà tư tưởng Hy
Lạp cổ đại tới việc xây dựng bản thể luận với tư cách học thuyết về tồn tại
người như học thuyết về giới tự nhiên, về bản chất của giới tự nhiên. Do vậy,

có thể nói, bản thể luận cổ đại là bản thể luận tự nhiên. Tiếp đó, do đặt trọng
tâm của điểm tựa tinh thần vào bản tính tự nhiên của con người mà lý tính
được đặt lên hàng đầu (thế giới quan duy lý) với tư cách “sự kết tinh tinh thần
của văn hóa nhân văn”, “điểm tựa tinh thần” của con người, triết học Hy Lạp
cổ đại đã bộc lộ rõ hạn chế mang tính ngun tắc của mình. Chính vì vậy mà
các hệ thống triết học Hy Lạp cổ đại hậu kỳ (cụ thể là chủ nghĩa khắc kỷ
Xtơíc và đặc biệt là chủ nghĩa hồi nghi, chủ nghĩa Platơn mới) đã cố gắng
vượt bỏ hệ thống triết học duy lý cổ đại mà triết học Arixtốt là biểu hiện cao
nhất. Song, những thử nghiệm này chưa thể dẫn tới một loại hìnhtriết lý mới
21


cùng với mẫu lý tưởng của mình. Chỉ với sự ra đời của Kitô giáo với tư cách
một thời đại mới trong tiến trình lịch sử triết học phương Tây, hạn chế mang
tính nguyên tắc của triết học Hy Lạp cổ đại mới được khắc phục. Hạn chế mà
chúng tôi muốn nói tới ở đây chính là sự vắng mặt thành tố nhân cách trong
mẫu lý tưởng được triết học Hy Lạp cổ đại xây dựng. Con người không chỉ
sống bằng lý tính, chỉ trong quan hệ nhận thức và thực tiễn với giới tự nhiên.
Con người còn là một thực thể văn hóa, mà một trong những biểu hiện mang
tính bản chất của nó là quan hệ liên chủ thể, quan hệ mang tính người, tức
quan hệ đạo đức, có nhân cách. Đức Kitơ Giêsu với tư cách mẫu lý tưởng đã
thể hiện là một hệ giá trị nhân văn, mang đậm sắc thái nhân cách. Mẫu lý
tưởng này địi hỏi con người phải tơn trọng những giá trị nhân văn tối cao, tối
quan trọng đối với cuộc sống trong cộng đồng, trong xã hội của con người
(“Tơn kính Đức Chúa Trời trên hết mọi sự”). Chỉ khi có định hướng giá trị
như vậy, con người mới sống với nhau như người với người, tức họ có thể
quan hệ với nhau như các thực thể văn hóa mà giá trị tối cao là tình yêu tha
nhân “yêu người ta như yêu mình”. Sự lộng quyền của các bạo chúa (như
Nêrô) đối với dân thường đã cho thấy một nguồn gốc nữa của triết học Kitơ
giáo, và nó đã đáp ứng được nhu cầu tâm linh, tinh thần của con người, đã

thực sự đóng vai trị điểm tựa tinh thần của con người Trung đại. Theo đó, các
hệ thống bản thể luận Tây Âu Trung đại đều tập trung luận chứng cho sự tồn
tại của Chúa với tư cách hình mẫu lý tưởng (archetype), với tư cách nguyên
tắc căn bản của tồn tại người.
Nhưng, đến giai đoạn Cận đại, cùng với sự phát triển của khoa học, của
việc phát hiện ra hạn chế tai hại của toàn bộ triết học trước đó là tính chất bí
truyền của tri thức triết học, tức khả năng rất hữu hạn trong việc tiếp cận với
mẫu lý tưởng, trong việc làm người đối với đa số người, nhờ vai trò ngày
mộttăng nhanh và quan trọng hơn của khoa học, triết học Cận đại do Đềcáctơ
và Ph.Bêcơn khởi xướng đã tiến hành việc luận chứng cho khoa học về mặt
bản thể luận và phương pháp luận như mẫu lý tưởng về cái có tính người
22


trong con người và qua đó, cũng đã chứng minh được khả năng làm người của
mỗi người. Đây chính là tính chất nhân văn sâu sắc của triết học Cận đại và
nó đánh dấu sự thống trị dường như tuyệt đối của triết học duy lý. Song, nó
cũng cho chúng ta thấy rõ hạn chế mang tính nguyên tắc của triết học duy lý,
của mẫu lý tưởng do triết học duy lý đề xướng - hạn chế mà ngay Paxcan và
đặc biệt là Kiếccơga đã nhận thấy, nhưng phải đến tận thời hiện đại, nó mới
được phân tích một cách có luận cứ và được khắc phục (điều này thể hiện rõ
qua quan niệm của Phrớt, Huxéc, Haiđơgơ, Xáctơrơ). Do cái đích thực có tính
người trong con người bị đồng nhất với lý tính, với tính khoa học, với tư duy
khoa học tự nhiên, nên việctìm kiếm bản chất người ở thời kỳ này cũng có
nghĩa là tìm kiếm bản chất của nhận thức. Bản thể luận nhận thức đã được
trình bày trong “Phê phán lý tính thuần t” của Cantơ, nhưng rõ ràng và sâu
sắc nhất là trong “Khoa học lơgíc” của Hêghen. Có thể nói, bản thể luận trong
giai đoạn này đóng vai trị luận chứng cho sự tồn tại của khoa học mà khuôn
mẫu là khoa học tự nhiên.
Trong triết học phương Tây hiện đại, vấn đề bản thể luận văn hoá đã

được đặt ra. Bản thể luận văn hố quan tâm đến tính đặc thù của tồn tại người
như một thực thể văn hóa và tìm cách xác định những cấu trúc cơ bản của nó.
Theo đó, triết học, ngay từ đầu, đã đóng vai trị hết sức quan trọng với tư cách
sự kết tinh tinh thần của văn hoá nhân văn thời đại. Do vậy, không phải ngẫu
nhiên mà triết học, theo nghĩa ban đầu của nó, là philosophia- “tình u sự
thơng thái”. Bởi “sự thơng thái” là hình mẫu lý tưởng của con người Hy Lạp
cổ đại. Hình mẫu lý tưởng (nguyên mẫu) là khái niệm hay quan niệm chung
nhất về cái có tính người nơi con người và mỗi một thời đại văn hoá đều được
phản tư về mặt triết học để xây dựng một mẫu lý tưởng cho bản thân mình.
Theo chúng tơi, có thể coi siêu hình học là một lĩnh vực tri thức nhân
văn đóng vai trị như những suy ngẫm, mặc tưởng, suy tư của con người về
phần “siêu hình”, mà bộ phận hạt nhân của nó là những suy ngẫm về phần
“siêu hình” trong con người. Đó là những suy ngẫm về hạt nhân của thế giới
23


nội tâm, thế giới tinh thần nơi con người và có nhiệm vụ xây dựng mơ hình,
mẫu lý tưởng (archetype) về hạt nhân đó để chi phối mọi hành vi của con
người. Dựa vào lịch sử phát triển của bản thể luận, có thể nói rằng, bản thể
luận với tư cách bộ phận quan trọng nhất của siêu hình học có nhiệm vụ phải
luận chứng cho sự tồn tại của mẫu lý tưởng ấy về mặt lơgíc. Do vậy, nội dung,
cách thức tiếp cận bản thể luận là phải chỉ ra được các nguyên tắc của tồn tại
văn hoá, trong đó bộ phận hạt nhân là phải chỉ ra được cấu trúc tồn tại người
với tư cách một thực thể văn hố. Theo chúng tơi, cách tiếp cận bản thể luận
không phải là cách tiếp cận mới, nhưng là một trong nhiều cách tiếp cận có
tính gợi mở cao, cho phép chúng ta có “cách nhìn” khác và tỏ ra hữu dụng
trong việc nghiên cứu lịch sử triết học./.
3. Những quan niệm khác nhau về bản thể luận trong lịch sử triết
học trước Mác
Người đầu tiên đề cập đến khái niệm “tồn tại” là Pácmênít – nhà triết

học Hy lạp cổ đại. Ông đã đồng nhất tư duy với tồn tại khi quan niệm rằng
mọi sự vật trong thế giới đều tồn tại thì chúng ta mới có thể nhận thức được
sự hiện tồn của chúng. Tuy nhiên, sự tồn tại đó chỉ có thể được nhận thức
bằng tư duy. Vì thế, mọi quá trình tư duy đều là tư duy về tồn tại.
Vượt qua Pácmênít, các nhà triết học sau ông đã đề cao và nhấn mạnh ý
nghĩa của quan niệm về bản thể luận khi nó cung cấp cho con người những
hiểu biết căn bản về cấu trúc của thực tồn.
Đối lập với các quan niệm trên, Xôcrát lại cho rằng tồn tại không phải
là giới tự nhiên. Điểm xuất phát của tồn tại chỉ có trong ý thức, tư duy. Với
Platôn, từ học thuyết trọng tâm về ý niệm, ông cũng quy tồn tại là tổng thể
những ý niệm về thế giới. Sự tồn tại của các sự vật cảm tính chẳng qua chỉ là
bản sao của ý niệm. Chỉ có ý niệm mới là cái tồn tại đích thực. Theo Arixtốt,
cái thực sự tồn tại một cách độc lập là bản chất chứ không phải mô thức (cái
biểu hiện ra của bản chất).

24


Thời trung cổ, các nhà triết học theo quan điểm nhà thờ đã mưu toan lợi
dụng tư tưởng của Arixtốt về siêu hình học để xây dựng học thuyết về tồn tại
Tải về

25


×