Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN: Bồi dưỡng học sinh lĩnh hội cái đẹp trong mĩ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 28 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

GIẢI PHÁP
BỒI DƯỠNG HỌC SINH LĨNH HỘI CÁI ĐẸP
TRONG MĨ THUẬT
CỤ THỂ BÀI 3: “TẠO HỌA TIẾT TRANG TRÍ”
(MĨ THUẬT 7)

---   --PHẦN I :

LỜI NÓI ĐẦU

Theo học giả nổi tiếng Maurois từng nói: “Ai học được ý nghĩa của cái
đẹp đều có thể thành cơng hơn người khác”. Nhìn thấy cái đẹp, tạo ra cái đẹp là
một đặc điểm mà chỉ có ở con người.
Cái đẹp đã trở thành một trong những nhu cầu cần thiết trong cuộc sống.
Tất cả những gì phục vụ cho con người cần phải đẹp về hình thể và màu sắc
như: cỏ cây, hoa trái, sơng nước, mây trời, chim thú…mn hình vạn trạng
nhưng tất cả đều đẹp, đều cống hiến cho chúng ta một cuộc sống phong phú về
vật chất và đa cảm về tinh thần với tất cả những xúc cảm, những vấn vương, thu
hút.
Cái đẹp không những tồn tại trong cuộc sống mà cịn được thể hiện thơng
qua những tác phẩm nghệ thuật. Những tác phẩm này là sản phẩm đặc biệt do
những người nghệ sĩ sáng tạo ra. Đó là vẻ đẹp của các tượng đài, các cơng trình
kiến trúc, vẻ đẹp trong nụ cười bí ẩn của nàng Mơ-na-li-da hay vẻ đẹp bất khuất,
hào hùng của con người Việt Nam trong kháng chiến. Tất cả đều là những kết
tinh của nghệ thuật, những cảm quan từ cái đẹp trong cuộc sống của những
người nghệ sĩ.
Mĩ thuật được hiểu nôm na là nghệ thuật tạo hình của cái đẹp. Cảm thụ
cái đẹp để sống đẹp là mục đích của giáo dục, lấy hình ảnh đẹp để giáo dục học


sinh. Như vậy, “cái đẹp là cái đức”.

Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ
Trang 1


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

Dạy học đã khó, dạy mĩ thuật càng khó hơn bởi nó không đơn giản là
cung cấp kiến thức cơ bản chung chung mà là kiến thức trên cơ sở của cái đẹp.
Hay nói cách khác, dạy học mĩ thuật là dạy học cảm thụ, dạy học suy nghĩ, dạy
học sáng tạo, giúp cho các em tiếp xúc, làm quen, tập tạo ra cái đẹp theo cảm
nhận riêng. Từ đó, các em có khả năng thưởng thức và vận dụng những hiểu
biết về cái đẹp vào sinh hoạt, học tập hàng ngày làm cho đời sống hài hòa, hạnh
phúc hơn. Như vậy, học sinh cần hiểu về cách nhìn, cách nghĩ, nắm bắt được sự
vật, hiện tượng thông qua ngôn ngữ của nghệ thuật. Khi học sinh nhận thức
được cái đẹp, các em sẽ thực sự nghiêm túc, kiên trì học tập, biết hành động thể
hiện cái đẹp qua các trạng thái tâm lý như: thoải mái, tự tin, phấn khởi, tích cực
tham gia ý kiến xây dựng bài…Những điều này sẽ là nguồn động viên các em
nỗ lực học tập đồng thời tạo ra sự say mê, hứng thú trong môn học mĩ thuật như
nhà tâm lý học Covaliop.A.G đã nói: “Hứng thú là một thái độ đặc thù của cá
nhân đối với đối tượng nào đó do ý nghĩa của nó trong đời sống và do sự hấp
dẫn về tình cảm của nó”.
Những điều nói trên là lý do mà tôi chọn đề tài: “Bồi dưỡng học sinh lĩnh
hội cái đẹp trong mĩ thuật”, cụ thể qua bài 3 Mĩ thuật lớp 7: “Tạo họa tiết trang
trí”. Việc bồi dưỡng học sinh lĩnh hội cái đẹp cũng như phát hiện cái chưa đẹp,
cái chưa hợp lí sẽ giúp các em có sự suy nghĩ, tìm tịi, sáng tạo riêng trong bài
vẽ của mình. Từ đó, giáo viên sẽ biết được học sinh đã tiếp thu kiến thức ở mức
độ nào, rút kinh nghiệm trong việc giảng dạy, đánh giá kết quả học tập sát với

học sinh hơn, trên cơ sở điều chỉnh, bổ sung, tìm phương pháp giảng dạy sao
cho ngày càng hay, dễ hiểu, để học sinh từ thích thú mà đi đến chủ động học
tập.
Hy vọng với một vài ý kiến đóng góp này, tơi có thể góp thêm vài “nấc
thang” trong sự nghiệp giáo dục của nước nhà.

Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ
Trang 2


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

PHẦN II :
A.

NỘI

DUNG

ĐẶT VẤN ĐỀ:

Ngày nay khi cuộc sống ngày càng phát triển, cùng với những biến đổi
nhanh chóng của kinh tế-xã hội, sự phát triển vượt bậc của khoa học-kỹ thuật
đòi hỏi giáo dục cũng cần thay đổi để đáp ứng kịp thời yêu cầu của xã hội, đào
tạo ra những người lao động mới, lao động trí tuệ, biết làm chủ bản thân, làm
chủ đất nước. Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp đổi mới trong những năm tới,
từ thực trạng giáo dục đào tạo ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã đề ra chủ
trương: “đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo”; trong đó mĩ thuật là môn học
rất gần gũi với cuộc sống con người. Có thể nói ở xung quanh ta, từ cái chung

cho tất cả đến cái riêng cho cá nhân đều có sự hiện diện của mĩ thuật vì ai cũng
cần đẹp. Cho nên, việc nhìn nhận và thưởng thức cái đẹp đã thực sự trở thành
một động lực phát triển của xã hội, góp phần làm tăng trưởng nền kinh tế quốc
dân.
Vận dụng những hiểu biết và ý thức về cái hay, cái đẹp vào trong sinh
hoạt học tập có thể chưa thấy ngay hoặc khó biết, “cái đằng sau” của bài học mĩ
thuật sẽ là cái đích của việc dạy học môn mĩ thuật ở trường phổ thông. Mặt
khác, mĩ thuật cũng là môn bắt buộc cho tất cả học sinh ở mọi vùng miền, đối
tượng chủ yếu là học sinh bậc trung học. Đây là lứa tuổi có sự phát triển mạnh
mẽ về tâm sinh lý, phần lớn các em cịn ham thích vui chơi hoạt động, thích thể
hiện những suy nghĩ của mình bằng nét vẽ, vẽ theo sự tưởng tượng nhưng khi
bắt tay vào thì đa phần lại không diễn đạt được ý tưởng như mong muốn.
Nguyên nhân là do các em chưa cảm thụ sâu sắc về cái đẹp hoặc khi cảm thụ
được thì lại gặp khó khăn trong việc biểu hiện thành từng nét vẽ cụ thể, làm mất
quá nhiều thời gian cho một bài vẽ. Chính vì vậy, nhiều học sinh cho rằng mĩ
thuật chỉ dành cho những người có năng khiếu dẫn đến tâm lý chán nản, khơng
cịn sự hứng thú, say mê. Trong khi đó, mục đích của vẽ là rèn luyện kỹ năng

Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ
Trang 3


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

thực hành hướng tới giáo dục thẩm mĩ, cảm thụ cái đẹp thông qua ngôn ngữ của
nghệ thuật.
Theo nhận xét của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh, mĩ thuật là cách tạo ra cái
đẹp trong đó mĩ là đẹp, thuật là cách thức, là phương pháp. Nếu chúng ta kết
hợp được hai yếu tố này một cách nhuần nhuyễn, hài hòa, sẽ làm cho nhận thức

của học sinh thêm phong phú, vững chắc. Vì vậy, để tạo được sự hứng thú, phát
huy được tính tích cực khi học mơn mĩ thuật nói chung và phân mơn vẽ trang trí
nói riêng, ngồi việc tìm tịi học hỏi về mặt tri thức cịn phải tìm ra các phương
pháp dạy học tốt nhất sao cho phù hợp với nội dung từng bài, từng hoạt động
như: phương pháp thiết kế trò chơi, phương pháp trực quan, phương pháp nêu
vấn đề, phương pháp liên hệ thực tiễn cuộc sống, phương pháp luyện tập…
Trong đó, phương pháp trực quan là phương pháp đặc trưng của dạy học mĩ
thuật. Mặt khác, mĩ thuật là loại hình nghệ thuật của tri giác, là sự hiện diện của
kiến thức một cách sinh động, dễ hiểu và hấp dẫn được thể hiện qua đồ dùng
dạy học, qua tranh ảnh…Nếu thiếu đồ dùng dạy học thì học sinh khó có thể tiếp
thu kiến thức chỉ được diễn đạt bằng ngơn ngữ, ví dụ như cân đối, hài hòa, nhịp
điệu… là những thuật ngữ trừu tượng trong mĩ thuật. Bên cạnh đó, tư duy của
học sinh ở lứa tuổi trung học cơ sở còn mang đậm tính trực quan nên đồ dùng
dạy học sẽ giúp các em có cách nhìn sự vật một cách rõ ràng, dễ hiểu hơn.
Vậy trực quan có phải là phương pháp tối ưu nhất hay không khi chỉ cho
học sinh nghe, nhìn, quan sát trên đồ dùng dạy học theo từng bước hướng dẫn
của giáo viên; còn nếu kết hợp thêm các phương pháp có tính chất hỗ trợ khác
một cách khéo léo thì có làm cho tiết học thêm sinh động, hấp dẫn đồng thời
phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh hay không? Đây cũng là nội
dung mà tơi đang tìm hiểu và nghiên cứu qua phân mơn vẽ trang trí với hy vọng
đóng góp thêm một lượng kiến thức chuyên môn trong việc giảng dạy mơn mĩ
thuật.

Giáo viên: Đồn Thị Phương Thơ
Trang 4


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Nhận thức về cái đẹp thông qua ngôn ngữ của nghệ thuật:
1. Khuynh hướng của nghệ thuật:
Trước đây, khi chưa nghiên cứu về nghệ thuật, người ta thường hiểu rằng
ngơn ngữ là tiếng nói và chữ viết. Thế nhưng, khi đã tìm hiểu về nghệ thuật,
chúng ta chợt nhận ra mỗi một loại hình nghệ thuật đều có ngơn ngữ riêng của
nó. Ví dụ như ngơn ngữ múa là nhịp điệu, là động tác, là hình thể, ngơn ngữ của
âm nhạc là giai điệu, tiết tấu, hịa âm…Tương tự như thế, ngôn ngữ của hội họa
là đường nét, hình mảng, bố cục, màu sắc, hình khối, bóng đổ…Đây chính là
yếu tố để tạo nên cái đẹp trong ngơn ngữ mĩ thuật.
2. Hình thành nhận thức về cái đẹp cho học sinh qua phân mơn vẽ
trang trí:
Vẽ trang trí khơng những là mơn học mà cịn là một lĩnh vực nghệ thuật
có mối liên hệ chặt chẽ với đời sống con người cùng với các môn nghệ thuật
khác. Đây cũng là phân môn được học sinh chú ý nhiều nhất vì vẻ đẹp của màu
sắc, đường nét, họa tiết có sức lơi cuốn, thúc đẩy học sinh sáng tạo, vẽ theo ý
thích và trí tưởng tượng của mình, khơng bị gị bó như vẽ theo mẫu. Tuy nhiên,
cái mới, cái lạ, “cái của mình”, các em chưa thể hiện rõ mà nhìn chung tính sáng
tạo được bộc lộ còn yếu. Khi làm bài, các em còn trong tâm trạng lo sợ với nhận
thức của mình, chưa thể hiện được tinh thần thoải mái, tự tin để tìm ra cách khai
thác nội dung, dẫn đến bố cục, họa tiết và màu sắc hay lặp lại bài vẽ mẫu của
giáo viên hoặc trong sách giáo khoa. Điều này cho thấy học sinh còn nhận thức
mơ hồ, chưa nắm bắt rõ ràng qua ngôn ngữ đặc trưng của hội họa, vẻ đẹp của
màu sắc, đường nét, bố cục… cụ thể là như thế nào. Ở đây, đối tượng tìm hiểu
là học sinh lớp 7, lứa tuổi có những cách nhìn, cách thể hiện riêng về cái đẹp
trong khi cái đẹp là khơng có cơng thức hay tỷ lệ nhất định. Chính vì vậy, bên
cạnh những em làm bài rất sáng tạo còn nhiều em làm bài khá đơn giản, sơ sài.
Là giáo viên dạy mĩ thuật cần nghiên cứu đến yếu tố này để vừa cung cấp, bổ
sung và kiểm tra kiến thức của học sinh một cách khách quan thông qua mỗi bài
Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ

Trang 5


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

vẽ, vừa khích lệ, động viên các em tích cực học tập để ngày càng u q cái
đẹp hơn.
Nhìn chung, khi dạy phân mơn vẽ trang trí đầu tiên là chú ý về bố cục,
hình mảng, sau đó đến họa tiết và màu sắc, cụ thể như sau:
2.1. Về bố cục:
Bố cục là sự sắp xếp mảng hình, đường nét, màu sắc thuộc phạm vi cho
phép sao cho đẹp, thuận mắt, bộc lộ được ý định của người thể hiện đồng thời
tạo được cảm xúc thẩm mĩ cho người xem. Cho nên, bố cục có ý nghĩa rất quan
trọng. Khi khai thác bố cục theo cách vẽ trang trí, nó được thể hiện bằng mảng
bẹt, trong đó có mảng chính và mảng phụ. Mảng chính lớn, to, nằm giữa trung
tâm của bài. Mảng phụ gắn kết với mảng chính, bổ sung làm rõ, tăng sức hấp
dẫn và làm nổi bật vẻ đẹp của bài. Nếu mảng hình to quá sẽ tạo cho người xem
cảm giác chật chội, khó chịu, ngược lại mảng hình quá nhỏ thì bài trở nên mất
cân đối. Đa số các em đều nắm bắt được điều này nhưng khi áp dụng làm bài lại
bỏ qua không chú ý đến mảng chính, phụ là gì làm cho bố cục lỏng lẽo, khơng
chặt chẽ.
2.2. Về họa tiết:
Trong trang trí, họa tiết gồm có: đường nét, hình vẽ và cách điệu. Ba yếu
tố này sẽ tạo ra được nhịp điệu cho bài.
 Đường nét: do đặc thù của cách vẽ trang trí là trau chuốt, chỉnh chu gọn
gàng về nét và mảng nên khi vẽ nét phải tự nhiên, thoải mái, có đậm nhạt
được phối hợp nhịp nhàng, giữa nét cong mềm mại với nét thẳng chắc
khỏe theo cảm xúc của người vẽ sẽ đem lại hiệu quả cho sản phẩm cần
trang trí. Ở lứa tuổi lớp 7, nét vẽ của các em cịn cứng, đơn điệu và khơ

khan vì vậy giáo viên cần nắm bắt đặc trưng này để có phương pháp rèn
luyện, uốn nắn.
 Hình vẽ: trong mĩ thuật, nó có ý nghĩa là do cách sắp xếp bố cục kết hợp
với đường nét để từ đó lột tả được đặc điểm của đối tượng như hoa lá, cỏ
cây, đồ vật, động vật…
Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ
Trang 6


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

 Cách điệu: đây là nơi để người vẽ phát triển khả năng sáng tạo và thể hiện
“cái tơi” của chính bản thân, phản ánh sự vật thêm sống động nhưng về
cơ bản cách điệu vẫn giữ được cái gốc.
2.3. Về màu sắc:
Màu sắc là nhằm thể hiện cái không gian, thời gian và cảm xúc, làm cho
bài vẽ hấp dẫn, đẹp hơn. Học sinh có thể vẽ màu theo ý thích, theo tâm trạng,
không nhất thiết phải đúng như thật (lá xanh, hoa đỏ…). Nhìn chung, màu sắc ở
bài vẽ cần có đậm, có nhạt, có gam màu chủ đạo (màu nóng hoặc màu lạnh) làm
rõ được trọng tâm.
Dựa vào những kiến thức cơ bản của mơn mĩ thuật nói trên, nếu học sinh
nắm bắt được sẽ giúp các em biết vận dụng một cách sáng tạo vào từng bài vẽ
cụ thể, hình thành được kỹ năng làm bài hướng tới cái đẹp, giúp học sinh có
cảm nhận thẩm mĩ tốt. Mặt khác, mĩ thuật nói chung phân mơn vẽ trang trí nói
riêng là mơn thực hành, trên cơ sở làm bài tập, kiến thức sẽ được khắc sâu và
nâng cao hơn. Song, thực hành là để nắm vững kiến thức “khơng mang tính
chun nghiệp”, hướng học sinh có cách suy nghĩ, tìm tịi và có phương pháp
làm việc khoa học nhằm bồi dưỡng hình thành thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh ở
bậc trung học. Và để đạt được mục tiêu trên, giáo viên cần phải nghiên cứu tìm

ra những phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp.
II. Kết hợp các phương pháp giảng dạy và vận dụng kiến thức mơn
học có tác dụng tạo sự chú ý, gây hứng thú, kích thích trí tưởng tượng
trong giờ học:
Nói đến phương pháp dạy học là nói đến cách thức hoạt động của người
dạy và người học, người truyền đạt tri thức thức (giáo viên) và người lĩnh hội tri
thức (học sinh), nó có liên hệ mật thiết với nhau khơng thể tách rời. Đồng thời,
mục đích chủ đạo của phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, độc lập
suy nghĩ, sáng tạo của học sinh với tinh thần tự học, chiếm lĩnh tri thức. Nó
được biểu hiện cụ thể ở những dấu hiệu như: hăng hái tham gia trả lời các câu
hỏi của giáo viên, hay nêu thắc mắc, chủ động vận dụng kiến thức vào trong
Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ
Trang 7


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

thực tiễn cuộc sống, kiên trì làm xong bài tập, khơng nản trước những tình
huống khó khăn…Vì vậy, việc xác định phương pháp nào cho một bài giảng,
phải xuất phát từ nội dung bài giảng đó, nội dung nào thì phương pháp ấy,
khơng thể có phương pháp vạn năng áp dụng cho mọi bài giảng. Mặt khác,
nhiều người cho rằng môn mĩ thuật rất dễ dạy vì khơng cần nói nhiều, đi sâu do
kiến thức hết sức cơ đọng, chỉ cần nói được những nội dung cơ bản trong sách
giáo khoa là đủ hay chỉ cần đặt vật mẫu là học sinh vẽ được (như phân môn vẽ
theo mẫu). Quan niệm này đã tạo ra sự nhàm chán ở người nghe, làm mất tác
dụng giáo dục thực tiễn.
Vì vậy, tơi đã suy nghĩ, thử thực hiện khi giảng dạy môn mĩ thuật và thấy
rằng: việc kết hợp các phương pháp dạy học và sử dụng kiến thức môn học là
rất cần thiết trong việc tổ chức hoạt động học tập của học sinh bởi mỗi phương

pháp đều có hai mặt tích cực và hạn chế. Sử dụng và lồng ghép các phương
pháp sẽ phát huy được tính tích cực, hạn chế được mặt tồn tại của nó.
Ví dụ 1: phương pháp trực quan, quan sát (chủ yếu là tranh ảnh) giúp học
sinh thấy được cụ thể, tiếp thu nhanh kiến thức từ thấp đến cao, dễ hiểu, nhớ
lâu, phát triển được năng lực chú ý. Phương pháp vấn đáp, gợi mở kích thích trí
nhớ, trí tưởng tượng của học sinh, thúc đẩy học sinh mạnh dạn nêu thắc mắc rồi
sử dụng thắc mắc để tạo tình huống có vấn đề, phát triển kỹ năng giao tiếp với
bạn bè, thầy cô. Phương pháp liên hệ thực tiễn cuộc sống tạo điều kiện cho học
sinh tiếp thu kiến thức dễ dàng, hiểu sâu sắc hơn nhờ được quan sát thiên nhiên,
biết vận dụng kiến thức từ cuộc sống xung quanh vào bài học của mình. Phương
pháp luyện tập có ưu điểm là củng cố kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, nâng cao óc
sáng tạo, thích được tìm tịi, bồi dưỡng thị hiếu thẩm mĩ, phát triển trí tuệ về thế
giới xung quanh trên mặt giấy bằng nghệ thuật vẽ. Phương pháp chơi trị chơi
khơng chỉ tạo hứng thú mà cịn tạo mơi tường vui vẻ, đồn kết…
Trên đây là mặt tích cực của các phương pháp dạy học. Muốn phát huy
được các phương pháp này sao cho tối ưu, chúng ta không nên áp dụng một
cách máy móc, rập khn mà giáo viên phải nắm được đặc điểm cụ thể của từng
Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ
Trang 8


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

lớp, điều kiện, phương tiện, thời gian, từ đó lựa chọn phương pháp nào là chủ
đạo, phương pháp nào là hỗ trợ.
Bây giờ, chúng ta sẽ lần lượt vận dụng các phương pháp trên vào trong
nội dung bài học “Tạo họa tiết trang trí”.
1. Phương pháp quan sát, phương pháp liên hệ thực tiễn cuộc sống là
chủ đạo kết hợp với phương pháp trực quan, phương pháp vấn đáp, gợi mở:

Khi bắt đầu giảng bài mới, để tạo sự hấp dẫn và thu hút sự chú ý của học
sinh, có nhiều cách dẫn dắt rất sinh động nhưng tùy theo đặc trưng của mỗi bài
mà giáo viên có thể chọn phương pháp gián tiếp, trực tiếp hoặc chơi trị chơi.
Ví dụ phương pháp chơi trị chơi “Đốn ơ chữ” (tìm từ ở hàng dọc trong
ô in đậm), trong khoảng 5 phút, mời 4 tổ tham gia, tổ nào trả lời đúng và nhanh
nhất thì tổ đó thắng cuộc.

D

H

S

1

I

Ê

N

H



K

Ý

H




A

A

D

I

Đ

À

G

T

R



N

G

K

I


M

T



T

X



P

À



N

P
V



T

H


U

2

E

O

M

3
4
H



Á

U

P

5
6
7

1. Chùa Một Cột cịn có tên gọi khác là gì? (Diên Hữu)
2. Là hình thức vẽ nhanh nhằm ghi lại những nét chính đồng thời cũng
ghi lại cảm xúc của người vẽ gọi là gì? (Ký họa)
3. Tượng Phật nổi tiếng thời Lý tên là gì? (A-di-đà)

4. Tranh “Ngũ Hỗ”, “Phật Bà Quan Âm” thuộc dịng tranh nào? (Hàng
Trống)
Giáo viên: Đồn Thị Phương Thơ
Trang 9


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

5. Khi nói về Ai Cập, ta nghĩ đến cái gì? (Kim tự tháp)
6. Bố cục cịn gọi là cách gì? (Sắp xếp)
7. Mô phỏng lại mẫu bày ra trước mặt bằng hình vẽ gọi là gì ? (Vẽ theo
mẫu)
Qua trị chơi, giúp các em củng cố lại kiến thức cũ, tiếp thu thêm những
kiến thức mới, hình thành kỹ năng cho học sinh, tạo một môi trường học tập vui
vẻ, thoải mái, đồn kết gắn bó giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với
học sinh.
Ví dụ 2: Sử dụng phương pháp gián tiếp tạo tình huống có vấn đề.
Nói đến trang trí là nói đến họa tiết. Muốn có một bài trang trí đẹp, trước
hết các em phải biết cách tạo họa tiết đẹp. Mặt khác, giữa họa tiết trong trang trí
có đặc điểm riêng biệt như thế nào so với với họa tiết ghi chép thật và chúng có
mối quan hệ với nhau hay khơng ? Để hiểu được vấn đề này, chúng ta sẽ nghiên
cứu cụ thể qua bài “Tạo họa tiết trang trí”.
Phương pháp thuyết trình kết hợp với phương pháp liên hệ thực tiễn cuộc
sống được giáo viên sử dụng ở đây nhằm nhắc lại kiến thức cho học sinh nắm
được “Vì sao họa tiết là hoa văn trang trí”.
Xuất phát từ vẻ đẹp của thiên nhiên, con người đã biết bắt chước, khai
thác và vận dụng trí tưởng tượng cao, sáng tạo cái đẹp bằng những hình ảnh có
sẵn trong thiên nhiên để tạo thành họa tiết. Mà họa tiết ở đây có thể là hình bơng
hoa, chiếc lá, con vật, đám mây, ngọn núi, sơng nước…Nếu kết hợp hài hịa

giữa các họa tiết sẽ tạo nên bình diện trang trí. Như vậy, muốn tạo được họa tiết
trang trí, người ta phải trải qua quá trình nhận xét và nghiên cứu ở thực tế, phải
dựa vào thực tế để sáng tạo ra những mẫu trang trí đẹp hay có thể nói “Thiên
nhiên là người thầy, là vốn q cho người học vẽ, khơng thể có một hình vẽ nào
mà khơng rút ra từ thực tế thiên nhiên”. Trên cơ sở đó, giáo viên nhắc lại kiến
thức bằng cách đặt câu hỏi mở rộng “Vậy làm thế nào để những hình ảnh từ
trong thiên nhiên, cuộc sống đời thường trở thành họa tiết trang trí”. Học sinh
trả lời: “Phải dựa trên hình dáng, đường nét, màu sắc của các hình ảnh tự nhiên
Giáo viên: Đồn Thị Phương Thơ
Trang 10


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

để sắp xếp lại, tạo nên hình dáng cân đối, hài hịa. Ta có thể lược giản các chi
tiết khơng cần thiết hoặc làm phong phú thêm các chi tiết để có hình trang trí
đẹp hơn”. Lúc này, giáo viên có thể phối hợp thêm nhiều phương pháp để hỗ trợ
nhằm tạo sự sơi nổi, tích cực. Ví dụ: khi hướng dẫn học sinh quan sát, cần đặt ra
các câu hỏi gợi mở thông qua đồ dùng trực quan kết hợp thêm phương pháp
hoạt động nhóm. Ta có thể tạo một số bài trang trí có ứng dụng họa tiết “Trang
trí hình vng, hình trịn, đường diềm, trang trí ứng dụng”.

Giáo
viên

chia

Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ
Trang 11



Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

lớp thành 4 nhóm thảo luận, u cầu các nhóm phân tích và trả lời câu hỏi dựa
trên từng mục gợi ý của giáo viên về họa tiết, cách sắp xếp, màu sắc như thế
nào? Các nhóm sẽ nhận xét lẫn nhau (thời gian khoảng 3-5 phút). Khi đó, giáo
viên sẽ chú ý, nhấn mạnh hơn về họa tiết và hình dáng họa tiết, cụ thể đặt câu
hỏi mang tính chất so sánh: “Hình dáng họa tiết có giống ngun như hình ảnh
thật khơng ? Nó khác nhau như thế nào ?”.
Qua việc quan sát, minh họa, học sinh tự tìm tịi, khám phá nhận thức, tự
xây dựng bài với tinh thần chủ động chiếm lĩnh tri thức, hình thành và phát triển
kỹ năng tư duy tạo hình.
2. Phương pháp trực quan là chủ đạo phối hợp với phương pháp vấn
đáp, gợi mở, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp hoạt động
cá nhân:
Muốn tạo họa tiết trang trí, ta phải thực hiện mấy bước? Giáo viên vừa
đặt câu hỏi vấn đáp vừa kết hợp với đồ dùng minh họa nhằm giúp học sinh nhận
thức rõ ràng hơn trình tự các bước cũng như thấy được ưu điểm khi tiến hành
theo trình tự các bước đem lại.
Ví dụ:
Bước 1: khi hướng dẫn học sinh lựa chọn nội dung họa tiết, giáo viên cho
học sinh quan sát một số hình ảnh về hoa lá, chim thú, sông nước…để học sinh
đánh giá về hình ảnh (chỗ nào cân đối, đẹp mắt, chỗ nào còn chưa cân đối…),
đồng thời nhắc nhở học sinh khi chọn họa tiết, cần lựa chọn những hình ảnh có
tính chất đặc trưng, tiêu biểu, dễ sáng tạo phù hợp với nhiều yếu tố trang trí
(minh họa).

Giáo viên: Đồn Thị Phương Thơ

Trang 12


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

Bước 2: Hướng dẫn học sinh ghi chép mẫu thật.

Giáo viên yêu cầu học sinh bày mẫu thật ra bàn, sử dụng phương pháp
quan sát kết hợp với phương pháp gợi mở giúp học sinh lựa chọn nhiều hướng
nhìn khác nhau để tìm ra hình dáng đẹp nhất.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh tạo họa tiết trang trí.
Khi vừa viết mục bài xong, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát đồ dùng
dạy học rồi đặt câu hỏi vấn đáp kết hợp với phương pháp giải quyết vấn đề.
“Thế nào là đơn giản?”. Học sinh trả lời là lược bỏ đi những chi tiết
không cần thiết nhằm tạo cho họa tiết gọn và đẹp hơn.
“Thế nào là cách điệu ?”, là thay đổi về hình dáng, cấu trúc nhằm tạo cho
họa tiết đẹp hơn, mang tính nghệ thuật và phù hợp với mảng hình cần trang trí.
Minh họa các bước tiến hành tạo một họa tiết trang trí:

Giáo viên: Đồn Thị Phương Thơ
Trang 13


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

Giáo viên kết luận: Để tạo một họa tiết, chúng ta cần quan sát kỹ mẫu
thật, sau đó vẽ hình dáng chúng ra giấy theo cách đơn giản, lược bớt các đường
nét khơng đẹp hoặc lắp ghép các hình dáng lại với nhau để tạo thành họa tiết

trang trí.
3. Phương pháp luyện tập kết hợp với phương pháp gợi mở, phương
pháp đánh giá, phương pháp chơi trò chơi:
Phương pháp luyện tập giúp học sinh nắm được kỹ năng thực hành, sáng
tạo theo lối vẽ trang trí, biết cách bố cục, vẽ hình, vẽ nét, vẽ màu đậm nhạt.
Ví dụ: giáo viên nêu yêu cầu bài tập “Hãy chép một mẫu hoa lá sau đó
đơn giản và cách điệu thành họa tiết trang trí”. Giáo viên giao nhiệm vụ 3-4 học
sinh là một nhóm, dùng phương pháp gợi mở nhắc nhở trên thực trạng bài vẽ
của học sinh từng nhóm về họa tiết, bố cục và khi cách điệu tránh làm mất đi
bản chất của họa tiết, giúp học sinh tìm ra cách thể hiện ý tưởng sáng tạo của
bản thân mình.
Tiếp theo, giáo viên tiến hành hoạt động đánh giá bài vẽ.
Đây là phương pháp mới, giúp học sinh nhận ra được cái đẹp, chưa đẹp,
biết phân tích, đánh giá, so sánh cái đẹp một cách sáng tạo, không lệ thuộc vào
tự nhiên một cách máy móc, rập khn. Hay nói cách khác, đây là việc tự đánh
giá của học sinh và học sinh đánh giá lẫn nhau bên cạnh sự đánh giá của giáo
viên, góp phần nâng cao khả năng cảm thụ của học sinh.
Ví dụ: giáo viên chọn 4 nhóm có bài vẽ ở các mức độ khác nhau, đính lên
bảng (nhóm 1, nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4).
Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ
Trang 14


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

Nhóm 3

Nhóm 4


Giáo viên đặt câu hỏi: “Theo em, họa tiết trang trí nào là đẹp nhất ? Vì
sao?”, “Tại sao họa tiết này lại chưa đẹp ?”.
Giáo viên gợi ý học sinh nhận xét dựa trên:
 Cách chọn mẫu.
Nhóm 1

 Cách lược bỏ, thêm bớt chi tiết.
Nhóm 2

 Cách chỉnh sửa, hoàn chỉnh họa tiết.
Học sinh nhận xét,
xếp loại theo cảm nhận
riêng.
Giáo viên:
- Chốt lại ý kiến, bổ
sung những ưu điểm, hạn
chế và xếp hạng.
- Nhận xét thêm về sự
chuẩn bị, ý thức học tập của học sinh, động viên và khen ngợi những học sinh
có bài vẽ tốt.
Giáo viên: Đồn Thị Phương Thơ
Trang 15


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

- Qua bài “Tạo họa tiết trang trí”, nó có ý nghĩa như thế nào đối với các
em?
Ngồi ra, giáo viên cịn có thể thiết kế thêm trị chơi ở phần “Củng cố”

nhằm tạo cho lớp học sôi nổi, vui vẻ, tạo mối quan hệ thân thiện giữa giáo viên
với học sinh và giữa học sinh với nhau.
Ví dụ: giáo viên chọn 2 nhóm (mỗi nhóm 3 học sinh) chơi trị chơi “Tiếp
sức”. Hình thức chơi là giáo viên cho học sinh ghép hình một họa tiết đã được
cắt sẵn. Nhóm nào ghép chính xác và nhanh nhất thì nhóm đó thắng (thời gian 2
phút). Tuy nhiên, trò chơi này chỉ được áp dụng, tổ chức vào thời gian hợp lí.
Trên đây là một vài ý kiến nhỏ mà tôi rút ra được trong q trình giảng
dạy mơn vẽ trang trí, cụ thể bài 3 Mĩ thuật lớp 7 “Tạo họa tiết trang trí”. Do là
mơn thực hành, tập trung chủ yếu vào việc luyện tập nên thời gian có hạn, tùy
thuộc vào mỗi giáo viên mà ta chọn lọc linh hoạt các phương pháp sao cho “vừa
sức” với học sinh, đảm bảo được thời gian cũng như sự chính xác, khoa học.
Bên cạnh đó, nếu chúng ta vận dụng triệt để lợi thế của việc ứng dụng công
nghệ thông tin vào tiết dạy sẽ đem lại hiệu quả cao trong công tác giảng dạy.
Tơi mong với một vài ý kiến đóng góp này có thể cung cấp thêm cho các
em kiến thức về cái đẹp, có khả năng cảm thụ cái đẹp trong nghệ thuật tạo hình,
từ đó hình thành thị hiếu thẩm mĩ và tình cảm thẩm mĩ, biết trân trọng, gìn giữ,
u thích mơn học mĩ thuật.

C. BÀI DẠY ỨNG DỤNG:
Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ
Trang 16


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

Bài 3: Vẽ trang trí
TẠO HỌA TIẾT TRANG
TRÍ
I. MỤC TIÊU:

1. Kiến thức: Học sinh nắm bắt được đặc điểm và tầm quan trọng của
họa tiết trong trang trí. Nắm bắt được phương pháp tạo họa tiết trang trí.
2. Kỹ năng: Học sinh nhanh nhẹn trong việc lựa chọn họa tiết, thể hiện
họa tiết mềm mại có phong cách sáng tạo riêng, biết cách sáng tạo họa tiết phù
hợp với các mảng hình.
3. Thái độ: Học sinh u thích mơn học, u thích vẻ đẹp tự nhiên, yêu
thích nghệ thuật trang trí, phát huy tư duy sáng tạo.
II. CHUẨN BỊ:
1. Đồ dùng dạy học:
Giáo viên:
- Tranh ảnh về hoa lá, mây sóng, sinh vật...
- Hình minh họa gợi ý các bước vẽ.
Học sinh:
- Đọc trước bài, sưu tầm tranh ảnh về hoa lá, con vật.
- Giấy, chì tẩy, màu…
2. Phương pháp dạy học:
- Phương pháp trực quan, quan sát.
- Phương pháp vấn đáp, gợi mở.
- Phương pháp hoạt động nhóm.
- Phương pháp luyện tập.
- Phương pháp chơi trò chơi.

III. HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:

Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ
Trang 17


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình


1. Ổn định tổ chức: Giáo viên kiểm tra sĩ số và sự chuẩn bị của học
sinh.
Lớp

Tên Học Sinh Vắng

Lớp

Tên Học Sinh Vắng

2. Kiểm tra bài cũ: Giáo viên kiểm tra bài tập: Vẽ theo mẫu: Cái cốc và
quả.
Gợi ý học sinh nhận xét:
- Bố cục
- Tỉ lệ
- Hình vẽ
HS: nhận xét, xếp loại theo cảm nhận riêng.
GV: tổng hợp ý kiến, chốt lại, chấm điểm.
3. Bài mới:
Giới thiệu bài:
Nói đến trang trí là nói đến họa tiết. Để có được một bài trang trí đẹp
trước hết các em phải biết cách tạo họa tiết đẹp. Để giúp các em nắm bắt được
đặc điểm và phương pháp tạo họa tiết trang trí theo ý thích, hơm nay cơ trị
chúng ta cùng nhau nghiên cứu bài “Tạo họa tiết trang trí”.
TIẾN TRÌNH TIẾT DẠY
HOẠT ĐỘNG CỦA GV HOẠT ĐỘNG CỦA HS
HOẠT ĐỘNG 1:

NỘI DUNG

I/. Quan sát – nhận xét.

Hướng dẫn HS quan sát
và nhận xét.

- HS quan sát tranh ảnh - Họa tiết là những hình ảnh

- Cho HS quan sát tranh về những hình ảnh có có trong tự nhiên như: hoa,
ảnh về những hình ảnh có trong tự nhiên.

lá, chim, thú, mây, sóng…

trong tự nhiên (Hình1.
SGK).
- Đặt câu hỏi vấn đáp: - HS: hoa, lá, mây, nước, - Họa tiết trong trang trí
Giáo viên: Đồn Thị Phương Thơ
Trang 18


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

“Họa tiết trang trí thường mặt trời, mặt trăng…Nó thường được vẽ đơn giản và
là những hình ảnh nào? rất quen thuộc và gắn liền cách điệu sao cho hài hịa và
Nó có quen thuộc và gắn với cuộc sống của con phù hợp với mảng hình cần
liền với chúng ta hay người.

trang trí.

khơng?”

- GV chốt lại kiến thức - HS: Phải dựa trên hình
bằng câu hỏi mở rộng: dáng, đường nét, màu sắc
“Vậy làm thế nào để các của các hình ảnh tự nhiên
hình ảnh thiên nhiên, để sắp xếp lại, tạo nên
cuộc sống trở thành họa hình dáng cân đối, hài
tiết trang trí?”

hịa…

- GV cho HS quan sát -HS: chia làm 4 nhóm,
một số bài trang trí như: thảo luận, trả lời:
hình vng, hình trịn, + Về họa tiết.
trang trí ứng dụng…, sau + Về cách sắp xếp.
đó chia lớp làm 4 nhóm + Màu sắc.
trả lời câu hỏi:

Các nhóm sẽ nhận xét lẫn

+ Về họa tiết.

nhau (3-5 phút).

+ Về cách sắp xếp.
+ Màu sắc.
GV chốt lại và nhấn -HS nắm được các đường
mạnh hơn về họa tiết. Ví nét, hình dáng của họa
dụ như hình dáng họa tiết tiết thường đơn giản và
có giống nguyên như cân đối hơn sao cho phù
hình ảnh thật khơng? Nó hợp với mảng hình.
khác nhau như thế nào?


Giáo viên: Đồn Thị Phương Thơ
Trang 19


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

HOẠT ĐỘNG 2:

II/. Cách tạo họa tiết trang

Hướng dẫn HS cách tạo

trí.

họa tiết trang trí.
+ Hướng dẫn HS lựa

1. Lựa chọn nội dung họa

chọn nội dung họa tiết.

tiết.

- GV cho HS quan sát -HS quan sát một số hình
một số hình ảnh về: hoa, ảnh về: hoa, lá, chim, thú,
lá,

chim,


thú,

sông sông nước… và đánh giá

nước… để HS đánh giá về những hình ảnh đẹp và
về những hình ảnh đẹp và chưa đẹp.
chưa đẹp.
- GV nhắc nhở HS khi - HS lựa chọn một số
chọn họa tiết cần lựa hình ảnh đẹp để tiến hành
chọn những hình ảnh có quan sát.
nét đặc trưng, tiêu biểu
và dễ sáng tạo.
+ Hướng dẫn HS quan
sát mẫu thật.
- GV hướng dẫn HS khi -HS quan sát theo từng
quan sát mẫu thật cần lựa bước hướng dẫn của giáo
chọn nhiều hướng nhìn viên.
khác nhau để tìm ra hình
dáng đẹp nhất.
- Cho HS thực hành quan -HS thực hành quan sát
sát.

và nêu nhận xét.
2. Quan sát mẫu thật.

+ Hướng dẫn HS tạo
Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ
Trang 20



Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

họa tiết trang trí.

- HS quan sát bài vẽ mẫu 3. Tạo họa tiết trang trí.
a) Đơn giản:
- Cho HS xem bài vẽ và nhận xét về đơn giản
- Là lược bỏ đi một số chi
mẫu và qua đó yêu cầu họa tiết.
- Đơn giản họa tiết.

tiết không cần thiết nhằm

HS nhận xét đơn giản
- GV vẽ minh họa.

- Quan sát GV vẽ minh tạo cho họa tiết gọn và đẹp
hơn.
họa.

- Cách điệu họa tiết.

- HS quan sát bài vẽ mẫu

họa tiết là như thế nào.

- GV cho HS xem bài vẽ và nhận xét về họa tiết
mẫu và yêu cầu HS nhận cách điệu.


b) Cách điệu:
- Là thay đổi về hình dáng,

xét về họa tiết cách điệu.

- Quan sát GV vẽ minh cấu trúc nhằm tạo cho họa

- GV vẽ minh họa.

họa.

tiết đẹp hơn, mang tính
nghệ thuật và phù hợp với
mảng hình cần trang trí.

Giáo viên: Đồn Thị Phương Thơ
Trang 21


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

HOẠT ĐỘNG 3:

III/. Bài tập.

Hướng dẫn HS làm bài

- Chép một mẫu hoa, lá, con


tập.

vật…sau đó đơn giản và

- GV nêu yêu cầu bài tập - Các nhóm tiến hành làm cách điệu thành họa tiết
đồng thời chia lớp thành bài theo u cầu bài tập trang trí.
nhiều nhóm nhỏ (3-4 học đồng thời lưu ý phần *Yêu cầu:
sinh). Mỗi nhóm lựa cách vẽ và sự gợi ý của + Kích thước: cân đối.
chọn một họa tiết đơn giáo viên, từ đó vận dụng + Phác và sửa hình bằng bút
giản sau đó tiến hành được kiến thức vào trong chì.
cách điệu tạo họa tiết bài vẽ một cách sáng tạo.

+ Màu sắc: sử dụng màu

trang trí.

nước.

GV: nhắc nhở HS lưu ý
khi lựa chọn họa tiết.
- GV quan sát và giúp đỡ
HS bố cục bài vẽ, nhắc
HS khi cách điệu tránh
làm mất đi bản chất của
họa tiết.
HOẠT ĐỘNG 4:
Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ
Trang 22



Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

Đánh giá kết quả học
tập.

- HS nhận xét và xếp loại

- GV chọn 4 bài vẽ của 4 bài tập theo cảm nhận
nhóm thể hiện ở nhiều của mình dựa trên:
mức độ khác nhau, đính + Cách chọn mẫu.
lên bảng (Nhóm 1,2,3,4). + Cách lược bỏ, thêm bớt
Gợi ý học sinh nêu nhận chi tiết.
xét và xếp loại theo cảm + Cách chỉnh sửa, hồn
nhận của mình.

chỉnh họa tiết.

- GV biểu dương những
bài vẽ đẹp, nhắc nhở, góp
ý cho những bài vẽ chưa
hồn chỉnh.
4. Dặn dị học sinh cho tiết học tiếp theo:
- Bài tập về nhà: Học sinh về nhà hoàn thành bài tập. Sưu tầm họa tiết
trang trí.
- Chuẩn bị bài mới: Đọc trước bài mới ”Tranh phong cảnh”, sưu tầm
ảnh chụp phong cảnh các vùng, miền khác nhau, chuẩn bị vật mẫu, chì, tẩy, vở
bài tập.


D. KẾT QUẢ:
Để thấy được hiệu quả của việc bồi dưỡng học sinh lĩnh hội cái đẹp thông
qua việc lồng ghép các phương pháp giảng dạy trong môn mĩ thuật mà tôi đã
nghiên cứu, áp dụng so với việc chỉ đơn thuần truyền đạt những kiến thức cơ
bản chung chung, chưa chuyên sâu vào giáo dục thẩm mĩ cho học sinh, tôi đã
tiến hành khảo sát dựa trên những chỉ tiêu đánh giá:
* Nhận biết: tìm được nhóm họa tiết có hình dáng đẹp, phù hợp với mảng
hình trang trí.
Giáo viên: Đồn Thị Phương Thơ
Trang 23


Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

* Thơng hiểu: tạo được họa tiết đơn giản, sắp xếp được mảng chính,
mảng phụ.
* Vận dụng ở mức độ thấp: tự trang trí được họa tiết theo ý thích tuy
nhiên các gam màu chưa thể hiện độ đậm nhạt.
* Vận dụng ở mức độ cao: họa tiết đẹp, hấp dẫn, mang phong cách sáng
tạo cao, biết phối hợp màu sắc tạo ra sự tương quan đậm nhạt.

PHẦN III :

KẾT LUẬN

Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ
Trang 24



Sáng kiến kinh nghiệm- Mĩ thuật
Trường THPT Tân Bình

Nghề giáo là một nghề trồng người, là một công việc vô cùng khó khăn,
thay mặt cho xã hội để giáo dục thế hệ trẻ trở thành những người chủ tương lai
của đất nước. Nhận thức được điều đó, trước hết mỗi người giáo viên phải có
trình độ tay nghề thật vững, đồng thời phải có lịng u nghề mến trẻ thể hiện
được nhiệt huyết của bản thân với ngành nghề mà mình đã chọn. Mĩ thuật là
nghệ thuật của thị giác nhìn thấy cái đẹp, dạy học mĩ thuật ở bậc trung học là
dạy học cái đẹp, cảm thụ và vân dụng cái đẹp vào trong cuộc sống. Chính vì
vậy, việc bồi dưỡng cho học sinh nâng cao nhận thức về cái đẹp, hướng tới thị
hiếu thẩm mĩ là một yêu cầu cấp thiết của mục tiêu phát triển giáo dục tồn diện
hiện nay.
Dạy mĩ thuật nói chung, phân mơn vẽ trang trí nói riêng thực hành là chủ
yếu, trên cơ sở thực hành thì mới khai thác được yếu tố của cái đẹp một cách
hiệu quả nhất, giúp học sinh phát triển kỹ năng cần thiết về bố cục mảng, vẽ
hình, vẽ đậm nhạt, vẽ màu cũng như biết vận dụng kiến thức vào trong cuộc
sống, tạo được sự hứng thú học tập của học sinh.
Qua q trình cơng tác, trực tiếp giảng dạy, bản thân tôi luôn trăn trở là
làm thế nào để có tiết dạy hiệu quả nhất, vì sao các em thể hiện bài vẽ như thế
này? Do đâu? Cần bổ sung và sửa chữa những vấn đề gì?…Chính điều đó đã
làm tơi suy nghĩ rằng, ngay từ bây giờ mình cần phải cố gắng hơn nữa, không
ngừng học tập bạn bè và đồng nghiệp, không ngừng trau dồi kiến thức chuyên
môn, luôn đổi mới bằng nhiều hình thức như:
Phong cách lên lớp ln tự tin, xây dựng nội dung bài giảng chính xác,
khoa học.
Lời nói rõ ràng, biểu cảm thu hút học sinh.
Trình bày bảng khơng sai lỗi chính tả, rõ ràng và khoa học.
Áp dung kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo kết hợp với đồ dùng dạy
học đúng lúc, đúng chỗ, giúp học sinh tiếp thu bài dễ dàng.

Cần bám sát theo dõi mức độ tiếp thu của học sinh để có sự điều chỉnh
phù hợp.
Giáo viên: Đoàn Thị Phương Thơ
Trang 25


×