Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ THEO HỒ SƠ TÌNH HUỐNG KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ THAM GIA GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰHồ sơ dân sự chuyên sâu số 24 báo cáo chuyên đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.9 KB, 16 trang )

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ THEO HỒ SƠ TÌNH HUỐNGKỸ NĂNG CỦA
LUẬT SƯ THAM GIA GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
ĐỀ THI:
Phần I: Câu hỏi tự chọn
Câu 3 ( HS 24 ) Xác định thời điểm mở thừa kế của cụ Nguyễn
Thăng, cụ Trần Thị Trọng và cụ Nguyễn Lan? Xác định điều kiện Toà án xem
xét về thời hiệu khởi kiện trong vụ án này? Giải thích lý do vì sao anh ( chị )
đưa ra quan điểm như vậy? ( 1.5 điểm )
Câu 9 ( HS 24) Anh ( chị ) trình bày kết quả nghiên cứu hồ sơ về các
vấn đề tố tụng của vụ án? ( 2 điểm )
Câu 11 ( HS 24 ) Anh ( chị ) hãy dự kiến bản trình bày ý kiến của bị
đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ( yêu cầu phản tố nếu có ) tại
phiên toà sơ thẩm và các chứng cứ chứng minh cho ý kiến/yêu cầu phản tố của
bị đơn là có căn cứ và hợp pháp? ( 2 điểm )
Câu 13 ( HS 24) Anh ( chị ) hãy dự kiến kế hoạch hỏi trình bày tại
phiên tồ sơ thẩm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn? ( 2 điểm )
Phần II: Câu hỏi bắt buộc
Câu 15 ( HS 24) Là luật sư bảo vệ cho bị đơn, anh ( chị ) hãy trình
bày nội dung cơ bản bản luận cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
khách hàng? ( 3 điểm )

-----Hết-----


Bài Làm
Câu 3 ( HS 24 ) Trả lời: Thời điểm xác định mở thừa
kế của cụ Nguyễn Thăng, cụ Trần Thị Trọng, Cụ Nguyễn
Thị Lan là:
Theo quy định tại khoản 1, điều 611 Bô Luật dân sự năm 2015 quy định: “
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết ”
Trong hồ sơ vụ án các nguyên đơn trình bày và xác định cụ Nguyễn Thăng


mất ngày 04/01/2002, cụ Trần Thị Trọng mất ngày 22/08/2007, cụ Nguyễn Thị
Lan mất năm 2007 ( khơng có thể hiện ngày tháng mất ).
Xác định điều kiện Toà án xem xét về thời hiệu khởi kiện trong vụ án là:
Căn cứ vào khoản 1, điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “ Thời
hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối
với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời
điểm mở thừa kế. Hết hạn này thì di sản thuộc về người
thừa kế đang quản lý di sản đó ”. Do đó, thời điểm mở thừa kế của
cụ Nguyễn Thăng sẽ là ngày 04/01/2002, ngày cụ Nguyễn Thăng mất ( thể hiện
tại bút lục số 10 trong hồ sơ vụ án ). Như vậy, thời hiệu để người thừa kế yêu
cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản.
Căn cứ chứng minh: Cụ Nguyễn Thăng, cụ Trần Thị Trọng mất có giấy
chứng tử do Uỷ ban nhân dân thị trấn Cái Bè, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
cấp ( thể hiện tại bút lục số 10 trong hồ sơ ). Vì thời điểm khởi kiện địi chia tài
sản thừa kế là ngày 24/06/2020.
Thời điểm mở thừa kế của cụ Trần Thị Trọng là ngày 22/08/2007, ngày cụ
Trần Thị Trọng mất ( thể hiện tại bút lụt số 10 trong hồ sơ vụ án ). Như vậy, thời
hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10
năm đối với động sản.
Từ những căn cứ và lặp luận nêu trên ta xác định điều kiện Toà án xem xét
thời hiệu khởi kiện của người yêu cầu chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất
động sản và 10 năm đối với động sản ( theo quy định tại điều 623 Bộ luật dân
sự năm 2015 ). Vì thời điểm mở thừa kế và thời hiệu thể hiện trong hồ sơ vụ án


vẫn còn thời hiệu khởi kiện và thời điểm mở thừa kế đúng theo quy định của
pháp luật.

Câu 9 ( HS 24 ) Trả Lời: Kết quả nghiên cứu hồ sơ về
mặt tố tụng là:

*** Về tố tụng:
Quan hệ pháp luật tranh chấp: Tranh chấp yêu cầu phân chia
di sản thừa kế theo pháp luật.
Thẩm quyền xét xử: Toà án nhân dân cấp huyện ( cụ thể là Toà án
nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. )
Quyền khời kiện: Bà Lan là con nuôi của cụ Nguyễn Thăng và cụ
Trần Thị Trọng ( Ở đây chưa làm rỏ bà Lan là con nuôi thực tế hay là con nuôi
theo pháp luật ) bà thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Thăng và cụ
Trần Thị Trọng, nên bà có quyền khởi kiện yêu cầu phân chia di
sản thừa .
Thời hiệu khởi kiện: Đối với di sản của cụ Nguyễn Thăng “ Theo
quy định tại khoản 1, điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015,
quy định: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản
là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động
sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di
sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó ” Bên
cạnh đó, theo quy định tại khoản 1, điều 611 Bộ luật dân
sự năm 2015 quy định: “ Thời điểm mở thừa kế là thời
điểm người có tài sản chết ”
Cụ Nguyễn Thăng mất ngày 04/01/2002, bà Lan nộp hồ sơ khởi kiện vào
ngày 24/06/2020. Vậy thì thời điểm bà Lan nộp đơn khởi kiện không quá 30
năm theo quy định tại khoản 1, điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015. Như vậy,
yêu cầu phân chia di sản của bà Lan đối với phần tài sản của cụ Nguyễn Thăng
trong khối tài sản chung của cụ Nguyễn Thăng và cụ Trần Thị Trọng vẫn cịn
thời hạn khởi kiện, vẫn đủ điều kiện để tồ án nhân dân huyện Cái Bè thụ lý và
giải quyết.


Đối với di sản của cụ Trần Thị Trọng: Cụ Trần Thị Trọng mất
ngày 22/08/2007. Theo quy định tại khoản 1, điều 623 Bộ luật dân sự năm

2015 quy định. “ Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di
sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động
sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di
sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó ”.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 1, điều 611 Bộ luật
dân sự năm 2015 quy định: “ Thời điểm mở thừa kế là
thời điểm người có tài sản chết ”
Xác định về việc tạm ứng án phí: Đây là vụ án khởi kiện yêu
cầu chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật, tranh chấp này là di sản
thừa kế là nhà và đất có giá ngạch, nhưng tồ án xác định mức đống tạm ứng án
phí cho tranh chấp khơng có giá ngạch là chưa phù hợp với quy định của Nghị
quyết số 326/2016/NQ-ngày 30/12/2016.
Xác định tư cách các đương sư: Căn cứ vào điều 68 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 quy định thì các đương sự trong vụ án là: Tất cả 6 ( sáu )
người con của cụ Nguyễn Thăng, cụ Trần Thị Trọng, cụ Nguyễn Thị Lan đều
thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Thăng, cụ Trần Thị Trọng. Do đó
tồ án nhân dân huyện Cái Bè đưa tất cả vào tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là phù hợp theo quy định của pháp luật.
Còn các trường hợp liên quan cịn lại, được tồ triệu tập vào việc tham gia tố
tụng vì họ đang sinh sống trên mãnh đất là di sản thừa kế. Việc giải quyết yêu
cầu của nguyên đơn, bị đơn có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ
của họ. Nên việc đưa họ vào tham gia tố tụng tại phiên toà là cần thiết và đúng
với quy định của pháp luật.
Câu 11 ( HS 24 ) Trả lời: Ý kiến của bị đơn đối với u
cầu của ngun đơn.
Kính thưa: HĐXX
Cha tơi Nguyễn Thăng, sinh 1922, sống với mẹ lớn của tôi là bà Trần Thị
Trọng, sinh năm 1917, cha mẹ tơi có xin chị tôi là bà Nguyễn Thị Kim Lan về
làm con nuôi. Đến năm 1962 do mẹ lớn của tôi là bà Trần Thị Trọng khơng cịn
khả năng sinh nở, nên mẹ lớn tôi đồng ý cho cha tôi sống với mẹ ruột tôi là bà



Nguyễn Thị Lan, sinh được 05 người con, mẹ lớn tơi đều nhìn nhận và ni
nấng, dạy dỗ 05 người chúng tôi nên người và dựng vợ gã chồng cho chúng tôi.
Nay cha, mẹ tôi đã mất , bà Nguyễn Thị Kim Lan đã khởi kiện đòi phân
chia tài sản thật là vơ lý vì bà Lan cho rằng chỉ có bà Lan là con của mẹ lớn của
chúng tơi trong khi bà Lan không phụng dưỡng cha và mẹ lớn của chúng tơi.
Cịn riêng phần tơi đã lo cho cha và mẹ lớn của tôi lúc qua đời, đến nay tôi vẫn
thờ cúng ông bà nội, cha và hai bà mẹ.
Quá trình nhân thân quan hệ gia đình và tài sản mà cha tôi để lại là khoảng
2000 m2 đất( nhưng thực đo là chỉ có 1651,7 m2 ) và một căn nhà là đúng,
riêng nguồn gốc phần đất thì tơi khơng xác định được, tơi thống nhất với lời
trình bày của bà Lan về nhân thân và di sản thừa kế. Hiện nay tôi đang quản lý
căn nhà thờ và phàn đất phía sau, anh tơi Nguyễn Quy Tài có quản lý sử dụng
một phần đất gắn liền với căn nhà của anh Tài và một phần đất làm trại bánh
phồng. Tôi sống chung với cha và mẹ lớn của tôi từ năm 1973 đến nay, cha và
mẹ lớn tôi đều chết ở huyện Cái Bè ( Tiền Giang ) nhà tôi. Tôi là người trực tiếp
nuôi dưỡng và chăm sóc cho cha và mẹ lớn của tơi, cịn mẹ ruột tơi ( Nguyễn
Thị Lan ) ở cùng 02 đứa em gái tơi ở Sài Gịn. Mẹ ruột tơi ( Nguyễn Thị Lan )
chết năm 2007 khơng có để lại di chúc gì cả.
Nay tơi khơng đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của bà Lan ( chị tơi ). Phần
đất cịn lại hiện tơi đang quản lý thì tơi đồng ý cho bà lan xây dựng một căn nhà
để ở nếu có nhu cầu sử dụng đất ( nhưng không được sang bán ). Mặc khác, tôi
đề nghị căn nhà thờ để làm nơi thờ cúng ông, bà, cha, mẹ, phần đất cịn lại thì
căn cứ vào pháp luật mà chia cho tất cả các anh em chúng tơi trong đó có bà
Lan ( chị của chúng tôi ).
Nếu bà Lan không chấp nhận nội dung như tơi vừa trình
bày, thì tơi sẽ đưa ra một số yêu cầu phản tố về yêu cầu của bà
Lan. !!! Ông Thành yêu cầu được chia căn nhà chẳng hạn.
Câu 13 ( HS 24 ) Trả Lời: KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN

TOÀ VỚI TƯ CÁCH LÀ LUẬT SƯ BẢO VỆ QUYỀN & LỢI ÍCH
HỢP PHÁP CHO BỊ ĐƠN


Nhằm làm sáng tỏ thêm các yêu cầu đối với thân chủ
mình, với vai trị là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho bị đơn. Được sự cho phép của HĐXX.
Kính thưa HĐXX cho phép tơi được hỏi:
I/ Hỏi nguyên đơn: ( Bà Nguyễn Thị Kim lan )
1/ Bà cho biết bà và ơng Thành có mối quan hệ như thế nào?
2/ Bà cho biết cụ Thăng, cư Trọng có phải là cha, mẹ ruột của bà hay
không?
3/ Bà cho biết bà là con thứ mấy trong gia đình?
4/ Bà cho biết hiện tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất & tài sản gắn
liền với đất do ai cất giữ?
5/ Bà cho biết hiện tại ai đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất & tài sản gắn liền với đất?
6/ Bà cho biết di sản của cụ Nguyễn Thăng, cụ Trần Thị Trọng, cụ Nguyễn
Thị Lan để lại gồm những gì?
7/ Các bị đơn có bán hay tặng cho gì ai phần đất đang tranh chấp nêu tren
hay chưa?
8/ Tại sau phần đất của mình được thừa kế mà bà để cho người khác quản
lý và sử dụng trong một thời gian dài như vậy?
9/ Bà cho biết các cụ mất khi nào? Có làm giấy báo tử hay không?
10/ Bà cho biết các cụ mất cị để lại di chúc hay khơng?
11/ Bà thực hiện việc kiện đòi di sản này là từ khi nào?
12/ Bà cho biết ngôi nhà ở thị trấn Nhà Bè bà ở hiện nay là do ông Thành
cho bà mượn 1 chỉ vàng để bà sửa chữa đúng khơng?
13/ Tại sao khi cha, mẹ bà mất thì bà khơng thực hiện quyền địi chia tài
sản thừa kế liền?

14/ Việc kiện đòi chia tài sản thừa kế là do bà tự nguyện hay có ai xúi giục
gì bà khơng?


15/ Thời điểm bị đơn và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
xây dựng nhà trên phần đất đang tranh chấp thì bà có đồng ý cho xây hay
không?
16/ Việc bị đơn cải tạo lại nhà và tơn tạo mộ phần, nhà thờ cha, mẹ...có
được bà đồng ý hay khơng?
17/ Từ năm 1975 bà khơng cịn chung sống và khơng có tên trong sổ hộ
khẩu gia đình đúng hay khơng?
18/ Bà cho biết trong phiên tồ hơm nay, bà có trình bày hay u cầu gì
nữa khơng?
19/ Trong phiên tồ hơm nay bà có muốn thay đổi ai trong Hay khơng?
II/ Hỏi bị đơn: ( Ơng Nguyễn Huy Thành )
1/ Ơng cho biết ơng và bà Nguyễn Thị Kim Lan có mối quan hệ như thế
nào?
2/ Ơng cho biết ông về sống với cha và mẹ lớn là từ khi nào?
3/ Ông cho biết bà nguyễn Thị Kim Lan sống với gia đình đến năm nào thì
lập gia đình?
4/ Ơng cho biết cụ Thăng, cụ Trọng có tất cả mấy người con? Gồm những
ai?
5/ Ông cho biết khi bà lan lập gia đình thì sinh sống ở đâu? có thường
xuyên lui tới thăm cha, mẹ già và các em hay khơng?
6/ Ơng cho biết sau khi bà Lan lập gia đình thì ai là người trực tiếp ni
dưỡng và chăm sóc cho cụ Thăng, cụ Trọng?
7/ Ơng cho biết khi cụ Thăng đột ngột qua đời thì bà Lan có về phụ giúp
gia đình và cùng các em lo ma chay cho cha khơng?
8/ Ơng cho biết khi cụ Trọng bị tế gãy xương và nằm một chổ trong một
thời gian dài thì bà Lan có về chăm sóc cho mẹ mình hay khơng?

9/ Ơng cho biết các cụ mất có để lại di chúc hay khơng?
10/ Khi cư Trọng mất bà Lan có về chịu tang hay khơng?
11/ Hằng năm đến ngày giỗ bà Lan có về xum hợp cùng anh em không?


12/ Ơng cho biết bà Lan khởi kiện địi chia di sản thừa kế là từ khi nào?
13/ Ông cho biết đền giờ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất vẫn do cụ Thăng đứng tên đúng khơng?
14/ Ơng cho biết diện tích đất 2000 m2 trước năm 1963 do ai đứng tên?
15/ Di sản trên là do các anh chị em trong gia đình thống nhất giao cho ơng
chăm nom, quản lý để thờ cúng ông bà tổ tiên đúng không?
16/ Thời điểm ông sửa chữa và tôn taọ lại di sản thì bà Lan có phản ứng gì
khơng?
17/ Ơng cho biết từ khi cụ Thăng, cụ Trọng mất thì bà Lan có đặt vấn đề
với ơng và anh em trong gia đình về việc chia di sản thừa kế hay khơng?
18/ Ơng cho biết trước khi khởi kiện đòi chia tài sản thừa kế thì bà Lan có
trao đổi hay thoả thuận gì khác với ơng và anh em trong gia đình hay khơng?
19/ Ơng cho biết hiện nay ơng có Giấy chứng nhận quyền sử dụng diện
tích đất nói trên đúng khơng?
20/ Ơng cho biết cơ quan nào cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ơng? Việc cấp đó có được sự đồng ý của các thành viên trong gia đình khơng?
III. Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan
( Ơng Nguyễn Huy Tài ) Đại diện cho những người có
quyền và nghĩa vụ liên quan.
1/ Ơng cho biết ơng và bà Lan có mối quan hệ như thế nào?
2/ Ông cho biết giữa bà Lan và cụ Thăng, cụ Trọng có mối quan hệ quyết
thống với nhau hay khơng?
3/ Ơng cho biết ơng và các anh em về sống cùng cha và mẹ lớn ( cụ
Trọng ) vào ngày tháng năm nào?
4/ Ông cho biết bà Lan sống chung với gia đình đến ngày tháng năm nào

thì lập gia đình?
5/ Sau khi bà Lan lập gia đình và đi theo chồng thì ai là người trực tiếp
ni dưỡng và chăm sóc cho cụ Thăng, cụ Trọng?


6/ Ông cho biết khi cụ Thăng bị đột quỵ và đột ngột mất đi thì bà lan có về
chịu tang và cùng các anh chị em lo ma chay cho cha mình khơng?
7/ Ơng cho biết khi cụ Trọng bị té và nằm liệt gường trong một thời gian
dài thì bà Lan có về chăm sóc và ni dưỡng mẹ mình hay khơng?
8/ Sau khi cụ Thăng và cụ Trọng mất đi thì bà Lan có thường tới lui thăm
mộ phần và các em trong gia đình hay khơng?
9/ Ông cho biết khi hai cụ mất thì bà Lan có đặt vấn đề với các thành viên
trong gia đình là phải chia thừa kế hay khơng?
10/ Ơng cho biết trước khi khởi kiện địi chia thừa kế thì bà Lan có thoả
thuận gì trước với các anh em trong gia đình hay khơng?
11/ Ơng cho biết là tất cả các anh em trong gia đình ơng đều thống nhất với
nhau là giao phần di sản của cha, mẹ để lại cho ông Thành chăm nom và quản lý
đúng không?
12/ Ông cho biết khi ông thành tôn tạo lại di sản của cha, mẹ để lại thì bà
Lan có phản ứng gì khơng?
13/ Ơng cho biết hàng năm đến ngày giỗ của các cụ bà Lan có về hương
khối hay khơng?
14/ Ơng cho biết việc bà Lan khởi kiện địi chia di sản thừa kế như trên thì
ơng có suy nghỉ như thế nào?
15/ Trong phiên tà hôm nay ông có cần bổ sung thêm quan điểm của mình
hay khơng?
16/ Ơng cho biết diện tích 2000 m2 đất mà ơng Thành sử dụng được đứng
tên ông Thành vào ngày tháng năm nào? Ơng có biết khơng?
IV. Hỏi đại diện UBND Thị trấn Cái Bè
1/ Ơng cho biết quy trình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Uỷ

ban nhân dân thị trấn là như thế nào?
2/ Ông cho biết ai là người đăng ký? Có niêm yết tại địa phương khơng?
3/ Ơng cho biết thời hạn niêm yết cơng khai là bao nhiêu ngày?


4/ Ông cho biết khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ơng có ai
xuống địa phương đo đạc, xác minh thực tế không?

BẢN LUẬN BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI HỢP PHÁP CHO BỊ
ĐƠN
-----O0O-----

Kính thưa: Hội đồng xét xử
Thưa đại diện Viện kiểm sát & Luật sư
đồng nghiệp
Thưa q vị có mặt trong phiên tồ
Tơi là Luật sư Trương Hồng Ân thuộc văn phòng Luật sư Đại Nghĩa Đoàn Luật sư Tp. Cần Thơ, theo yêu cầu của bị đơn là ông Nguyễn Huy Thành
và được chấp thuận của Tồ án nhân dân huyện Cái Bè. Tơi có mặt trong phiên
tồ hơm nay với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn
trong vụ án dân sự “ Tranh chấp về quyền thừa kế ” với nguyên đơn là bà
Nguyễn Thị Kim Lan. Được Toà án nhân dân huyện Cái Bè thụ lý số
342/2012/TLST - DS ngày: 05/10/2020.
Kính thưa Hội đồng xét xử!


Sau khi nghiên cứu kỹ toàn bộ hồ sơ vụ án, cũng như qua phần hỏi cơng
khai tại phiên tồ ngày hơm nay, tơi xin trình bày một số quan điểm để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ tơi là ơng Nguyễn Huy Thành.
Tơi xin trình bày cụ thể từng vấn đề như sau:
* Căn cừ vào sổ quản lý đất đai của Uỷ ban nhân dân thị trấn Cái Bè,

huyện Cái bè, tỉnh Tiền Giang. Cũng như các tài liệu chứng cứ thể hiện trong hồ
sơ vụ án và sự thừa nhận của các đương sự có thể khẳng định rằng: Diện tích
đất thực đo là 2000 m2. Nhưng diện tích đất thể hiện trên Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là 1951 m2. Thửa đất số 631, tờ bản đồ số TTC1 được lập
vào năm 1997. Nhưng diện tích thực đo của cơ quan địa chính là 1651,7 m2. Và
tài sản gắn liền với đất là một ngôi nhà ( ngang 9 m, dài 30 m, vách tường, máy
lợp tol...)
Như vậy ta lấy diện tích thực đo là 1651,7 m2 làm cơ sở để chia thừa kế.
Là tài sản chung của cụ Nguyễn Thăng, cụ Trần Thị Trọng và cụ Nguyễn
Thị lan. Sau khi cụ Thăng mất năm 2002 thì tài sản này do cụ Trọng và các con
quản lý. Năm 2007 cụ Trọng mất không để lại di chúc ( cùng thời điểm này cụ
Nguyễn Thị Lan ( Vợ sau cụ Trọng) sống ở Tp. Hồ Chí Minh cũng mất khơng
để lại di chúc.
*** Lưu ý: cụ Nguyễn Thị Lan sống với cụ Nguyễn
Thăng như vợ chồng mà khơng có giấy kết hơn, nhưng
việc kết hôn trước ngày 03/07/1987 ( Luật Hôn nhân gia
đình có hiệu lực ) khơng có giấy kết Đăng ký kết hôn vẫn
được công nhận là vợ chồng hợp pháp. Mặc khác, theo
luật và phong tục tập quán của người Miền Nam thì đàn
ơng vào thời điểm đó có thể có nhiều hơn một vợ. Vì vây,
hơn nhân của các cụ được xem là hợp pháp, không vi
phạm pháp luật,
Cho nên căn cứ vào điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định, thì các
con của cụ Thăng, cụ Trọng và cụ Lan đều là đồng thừa kế đối với phần di sản
mà các cụ để lai. Từ các căn cứ trên ta xác định được các ông, bà Ngyễn Huy
Lộc, Nguyễn Huy Tài, Nguyễn Huy Thành, Nguyễn Lan Tố Quyên, Nguyễn Thị


Bích Ngọc & Nguyễn Thị Kim Lan là những người có quyền hưởng thừa kế đối
với di sản của các cụ để lại.

* Trên thực tế các ông bà Nguyễn Huy Lộc, Nguyễn Huy Tài, Nguyễn Lan
Tố Quyên, Nguyễn Thị Bích Ngọc đều lập gia đình và ở riêng. Vì vây, các ơng
bà nói trên đã thống nhất giao cho ông Nguyễn Huy Thành đứng ra trong coi và
quản lý phần di sản đó. Sự thoả thuận giữa các bên là hồn tồn tự nguyện
khơng ai ép buộc ai? Người quản lý di sản phải có trách nhiệm trong coi, tu sửa
nhà cửa để ở, thờ cúng ông bà tổ tiên không để dột nát, đất đai tự sản xuất ra sản
phẩm sử dụng.
Trong đơn trình bày của bà Kim Lan, bà cũng khẳng định từ nhỏ ông
Thành đã sống cùng mẹ và bà và được mẹ bà ( cụ Trọng ) hết sức yêu thương
chăm sóc. Bên cạnh đó, những đồng thừa kế cịn lại cũng xác nhận ơng Thành
hết lịng chăm sóc, phụng dưỡng và lo mai táng cho cụ Trọng như đối với mẹ
ruột của mình.
Như vậy, ông Thành có quyền thừa kế di sản của cụ Trọng theo quy định
tại điều 623, 624 của Bô luật dân sư năm 2015 và các con chung giữa cụ
Nguyễn Thị Lan và cụ Nguyễn Thăng cũng có quyền hưởng thừa kế di sản của
cha, mẹ mình để lại.
Trong thời gian sinh sống ông Thành luôn hết mực yêu thương và chăm
sóc, ni dưỡng cha, mẹ mình ( cụ Thăng, cụ Trọng ) thể hiện là năm 1998 cụ
Thăng bị bệnh tim ơng phải bỏ ra mọi chi phí để lo thuốc thang cho cha mình.
Cũng vào năm 1998 cư Trọng cũng bị té gãy chân bàn thân nằm một chổ ơng
cũng bọ ra tồn bộ chi phí đẻ lo chạy chữa cho mẹ. Năm 2002 cụ Thăng bị đột
quỵ và qua đời, một mình ơng đứng ra lo ma chay, mồ mã tương tất cho cha
mình, ngược lại bà Kim Lan ngày cha mình mất cịn khơng về chịu tang. Nỗi
đau mất cha chưa ngi thì vài năm sau mẹ lới của ông là cụ Trọng không
chống chọi lại được với bệnh tật, rồi đến năm 2007 bà mất, rồi mẹ ruột là cụ
Lan cũng mất vào năm đó. Thời gian đó vợ chồng ơng cũng làm trịn chữ hiếu
đối với đấng sinh thành. Cịn bà Kim Lan thì bật vơ âm tính, ngày giỗ cha, mẹ
cịn khơng về thắp nén hương? Thử hỏi chử hiếu nằm ở đâu?
Trong thời gian quản lý di sản của cha, mẹ để lại thấy nhà cửa xuống cấp
nên năm 2001 được sự đồng ý của các anh em ông thành xây cất lại căn nhà trên



kiên cố nằm trên phần đất của cha đứng tên chi phí ơng bỏ ra xây dựng căn nhà
vào thời điểm đó là 10 cây vàng ( 24k )
Ở đây bị đơn không phủ nhận quyền được hưởng di sản thừa kế của bà
Kim Lan. Nhưng yêu cầu của bà khơng chính đáng, khơng phù hợp với pháp
luật quy định:
Vì:
Đối với bà Nguyễn Thị Kim Lan thì từ năm 1975 khơng cịn sống chung
với gia đình và cũng khơng có tên tong hộ khẩu.
Năm 1986 đã bỏ gia đình cha mẹ cùng chồng đi đến Tp. Hồ Chí Minh sinh
sống đến nay hồn tồn khơng có cơng hay chi phí gì để phụ giúp cho cha mẹ.
* Thứ nhất: Năm 1979 cha tơi ( cụ Nguyễn Thăng ) có bán một số đất lúc
này tơi cịn nhỏ mới 11 tuổi. Đã đưa cho bà Lan một số tiền. ( Cho của hồi
môn )
* Thứ hai: Năm 1963 bà khẳng định chính tay bà đưa anh em chúng tơi về
chăm sóc và dạy dỗ, thử hỏi giai đoạn đó bà Lan chỉ độ 12-13 tuổi thì liệu có ai
dám giao một đứa bé hơn một tháng tuổi cho bà Lan chăm sóc và dạy dỗ? ( Bà
kể cơng ni dưỡng anh em chúng tôi )
* Thứ ba: Cái nhà mà hiện nay ở thị trấn Nhà Bè do bà Kim Lan cùng
chồng con ở, ngày xưa là nhà gỗ, bà Kim Lan về khóc lóc năn nĩ cha tơi...thấy
vậy tơi cũng thuận lòng cho mượn 01 chỉ vàng, nhưng cuối cùng bà Lan cũng
đâu có trả lại cho tơi. ( Xem như số vàng cha tôi chu bà làm của khi ra riêng )
* Thứ tư: Ngày cha, mẹ mất bà Kim Lan cũng bật vơ âm tính khơng về
chịu tang cũng như thắp nén nhang cho cha, mẹ của mình, và từ khi bà theo
chồng đến nay bà cũng không cịn liên lạc gì với gia đình nữa?
*** Từ những căn cứ và phân tích nêu trên:
Về phần căn nhà:
Tơi xét thấy ơng Nguyễn Huy Thành đã có rất nhiều cơng sức và bỏ ra
nhiều chi phí để chăm lo cho gia đình cha mẹ được hồn chỉnh đến ngày hơm

nay. Vì vây, tơi u cầu Hội đồng xét xử chấp nhận giao cho ông Nguyễn Huy
Thành được trọn quyền sử dụng căn nhà kiên cồ đã xây dựng trên thửa đất của


cụ Nguyễn Thăng đứng tên. Bởi căn nhà này toàn bộ chi phí xây dựng, sửa chữa
do ơng Thành bỏ ra. Đồng thời bác yêu cầu của bà Nguyễn Thị Kim Lan địi
thừa kế một phần của ngơi nhà trên.
Cịn về tài sản là diện tích đất 1651,7 m2
Do cụ Thăng, cụ Trọng, cụ Lan mất không để lại di chúc,
theo quy định của BLDS 2015 tài sản sẽ được chia theo pháp
luật ( điều 649 ). Hàng thừa kế thứ nhất chỉ gồm 06 người ông, bà
Ngyễn Huy Lộc, Nguyễn Huy Tài, Nguyễn Huy Thành, Nguyễn Lan Tố Quyên,
Nguyễn Thị Bích Ngọc & Nguyễn Thị Kim Lan (cịn cha, mẹ của các ông bà cụ
Thăng, cụ Trọng, cụ Lan mất từ lâu).
Di sản thừa kế: ngoài căn nhà mà hầu hết anh chị em
đã thống nhất để làm nhà thờ và giao cho tôi (Nguyễn
Huy Thành) quản lý, hương khói ơng bà cha mẹ thì di
sản là diện tích đất 1651,7 m2 (thực đo). Về nguồn gốc
đất được cha mẹ mua từ năm 1967 (của ông Ba Đê) đến
1997 được nhà nước cấp GCNQSDĐ đứng tên hộ ông
Nguyễn Thăng.
Căn cứ Giấy xác nhận của Công an thị trấn Cái Bè
ngày 29/03/2013:
Qua đơn yêu cầu của ông Nguyễn Văn Diễn, sinh năm 1975, thuộc đồn
Luật sư tỉnh Tiền Giang.
Cơng an thị trấn Cái Bè xác nhận vào năm 2002 hộ của ơng Nguyễn Thăng
có các thành viên như sau:
1/ Nguyễn Thăng, sinh năm: 1922 ( Chủ hộ )chết ngày 04/01/2002
2/ Trần Thị Trọng, sinh năm: 1917 ( Vợ ) chết ngày 22/08/2007
3/ Nguyễn Huy Thành, sinh năm: 1968 ( Con )

4/ Nguyễn Huy Lộc, sinh năm: 1963 ( Con )
5/ Nguyễn Thị Nàng, sinh năm: 1970 ( Con dâu )
6/ Nguyễn Thành Huy, sinh năm: 1990 ( Cháu ) Co Nàng


7/ Trần Thị Ngọc Phượng, sinh năm: 1965 ( Dâu ) Vợ Lộc
8/ Nguyễn Trần Hải Đăng, sinh năm: 2000 ( Cháu )
9/ Truơng Thoại Khao, sinh năm: 1977 ( Cháu )
10/ Trương Thị Hiếu Thảo, sinh năm:1980 ( Cháu )
Đến ngày 04/01/ 2002 ông Thăng chết năm 2003 tại hộ trên còn lại các
thành viên trên, đến năm 2007 bà Trọng chết hộ này do Nguyễn Thị Nàng đứng
chủ hộ
Căn cứ khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Hộ gia đình
sử dụng đất là những người có quan hệ hơn nhân, huyết thống, ni dưỡng theo
quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền
sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công
nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”.
Vào thời điểm cấp đất năm 1997 cho hộ thì có 09 người (cháu Đăng sinh
năm 2000); trong đó cháu Khao và cháu Thảo chỉ ở nhờ đi học, nay đã tách
khẩu về quê. Như vậy, hộ gia đình sử dụng đất Nguyễn Thăng gồm có 07
người.
Chúng tơi thống nhất như sau:
Diện tích 1651,7 m2 đất cho 7 người gồm: cụ Thăng, cụ Trọng, anh Thành,
anh Lộc, chị Nàng, chị Phượng, cháu Huy ( vậy mỗi người được 236 m2 )
Tiếp theo lấy kỷ phần gồm 2 phần của cụ Thăng, cụ Trọng (đã mất) là 472
m2 chia cho 6 người con ( Vì hai cụ đã mất hết, nên các con sẽ có quyền thừa kế
phần tài sản này theo pháp luật) gồm: Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Huy Lộc,
Nguyễn Huy Tài, Nguyễn Huy Thành, Nguyễn Thị Tố Uyên, Nguyễn Thị Bích
Ngọc mỗi người được thừa kế 78,6 m2
Còn đối với lời khai khi còn sống cụ Thăng đã cho 200m2 đất cho vợ

chồng chị Tâm, anh Tài: do việc cho tặng này không thông qua các thành viên
trong hộ, mục đích ủy quyền 200 m2 này là để chị Tâm, anh Tài được có hộ
khẩu, vả lại GCNQSDĐ vẫn đứng tên hộ Nguyễn Thăng nên việc cho tặng này
là khơng đúng quy định của pháp luật.
Kính thưa: Hội đồng xét xử!


Từ những luận cứ nêu trên, chúng tôi đề nghị:
Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim Lan; Bác yêu
cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Tố
Quyên, Nguyễn Thị Bích Ngọc đồng thời chấp nhận yêu cầu chia thừa kế cho
06 người con của cụ Thăng, cụ Trọng, cụ Lan trong di sản để lại được xác định
là 472m2 mỗi người được 78,6 m2 quyền sử dụng đất (trong GCNQSDĐ số
631). Về căn nhà, giao căn nhà cho ông Nguyễn Huy Thành làm nhà thờ cha
mẹ.
Trên đây là toàn bộ quan điểm và yêu cầu của thân chủ tôi về vụ án, rất
mong được sự xem xét của Hội đồng xét xử để có được phán quyết cơng bằng,
để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự trong vụ án.
Một lần nữa, tôi xin cảm ơn hội đồng xét xử, những người tham dự phiên
tồ hơm nay đã dành thời gian lắng nghe và xem xét ý kiến của tôi!
-----HẾT-----

Cần Thơ, ngày 22/08/2021



×