Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.23 KB, 19 trang )

BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
----------------------------------

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

ĐÀO TẠO

TRÌNH ĐỘ THẠC SĨ
(Hoạch định và thực thi chính sách cơng)

Tên đề tài:
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH
CƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Họ và tên học viên: NGUYỄN DUY LINH
Lớp: HC25.N9

Khóa: 25

Ngành: Quản lý công
Giảng viên giảng dạy: TS. Trần Thị Thoa

TP. Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 11 năm 2021


BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
----------------------------------

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


ĐÀO TẠO

TRÌNH ĐỘ THẠC SĨ
(Hoạch định và thực thi chính sách cơng)

Tên đề tài:
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH
CƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Điểm

Điểm bằng chữ

bằng số

TP. Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 11 năm 2021


I. TỔNG QUAN VỀ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CƠNG
1. Khái niệm chính sách và chính sách cơng
Chính sách trong tiếng Anh là Policy. Chính sách là những hướng dẫn,
phương pháp, thủ tục, luật lệ, biểu mẫu cụ thể và những cơng việc hành chính
được thiết lập để hỗ trợ và thúc đẩy công việc hướng tới các mục tiêu đề ra.
Ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ “Chính
sách cơng” được sử dụng rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:
Chính sách cơng bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành
(Peter Aucoin, 1971).
Chính sách cơng là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn
nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với
việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó

(William Jenkin, 1978).
Chính sách cơng là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay khơng làm
(Thomas R. Dye, 1984).
Chính sách cơng là tồn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng
một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi cơng dân (B. Guy
Peter, 1990).
Chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan
lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà
nước hay các quan chức nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992).
Chính sách cơng bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các
chương trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and
Eloise F. Malone, 1995).
Nói cách đơn giản nhất, chính sách cơng là tổng hợp các hoạt động của
chính phủ/chính quyền, trực tiếp hoặc thơng qua tác nhân bởi vì nó có ảnh
hưởng tới đời sống của công dân (B. Guy Peters, 1999).

3


Chính sách cơng được làm ra bởi nhà nước. Điều này có nghĩa nhà
nước là chủ thể có thẩm quyền quyết định ban hành chính sách cơng, với
những nguồn lực cơng để đảm bảo chính sách được làm ra theo cách tốt nhất
có thể, và thực thi sao cho hiệu lực, hiệu quả.
2. Khái niệm hoạch định chính sách cơng
Hoạch định chính sách cơng được hiểu là việc xây dựng một chính sách
mới theo yêu cầu quản lý. Chính sách công được hoạch định mới phải bao
gồm cả mục tiêu và biện pháp mới, trong đó quyết định nhất là mục tiêu mới
được chủ thể xác định cần phải theo đuổi. Như vậy việc bổ sung mục tiêu và
điều chỉnh biện pháp chính sách cho phù hợp với điều kiện thực tế theo thời
gian sẽ không được coi là hoạch định chính sách mới. Ví dụ từ “chính sách

phát triển một nền kinh tế đóng”, Nhà nước tiến hành hoạch định chính sách
mới: “chính sách phát triển nền kinh tế mở”. Đây là hai chính sách khác nhau.
Trong chính sách mở cửa thì quan hệ giữa nước ta với các nước trong khối
ASEAN và với các nước khác ngoài khối cũng được coi là những chính sách
khác nhau. Song lộ trình vận động của các mối quan hệ đối ngoại từ thấp đến
cao, của việc cắt giảm thuế xuất, nhập khẩu đối với các nước trong khối
không được coi là hoạch định chính sách mà chỉ là điều chỉnh chính sách.
Từ những luận giải trên đây, có thể đi đến quan niệm về hoạch định
chính sách cơng là tồn bộ quá trình nghiên cứu, xây dựng và ban hành đầy
đủ một chính sách cơng. Sau khi ban hành, chính sách cơng sẽ có hiệu lực
thực thi với mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội. Giá trị pháp lý của chính sách
cơng được thể hiện ở thể thức, nội dung và thẩm quyền ban hành của cơ quan
nhà nước.
II. Hoạch định chính sách cơng tại Việt Nam
1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạch định chính sách cơng tại Việt
Nam
Khi tiến hành hoạch định chính sách, ngồi việc dựa vào những căn cứ
khoa học thì việc hoạch định cịn phải con chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố
sau :
4


a. Yếu tố quyền lực của chủ thể hoạch định chính sách.
Quyền lực ở đây được hiểu là khả năng chi phối của một chủ thể đến
một khách thể trong mối quan hệ nào đó, nhằm đạt được một mục tiêu nhất
định mà sức mạnh quyền lực còn tùy thuộc vào nguồn gốc phát sinh và bản
chất của chủ thể sử dụng quyền lực trong từng thời kỳ, điều này có thể thấy rõ
đó là chủ thể hoạch định chính sách và nhà nước thì có hiệu lực thực thi cao
hơn các chủ thể khác.
Từ thực tế Việt Nam, yếu tố quyền lực cảu chủ thể hoạch định chính

sách cơng ở nước ta có những đặc thù sau:
Một là, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với chu trình
chính sách là trực tiếp, tồn diện và sâu sắc. Vai trò, sự tác động, chi phối của
Đảng đối với “vịng đời” chính sách quốc gia (từ khi ban hành, thực hiện, có
kết quả, rút ra bài học) trở nên thường trực, xuyên suốt, sâu sát vào những vấn
đề quan trọng đối với các chính sách then chốt của quốc gia. Các hoạt động
này diễn ra thường xuyên, thể hiện cơng khai, trực tiếp và tồn diện trong suốt
q trình lãnh đạo đất nước của Đảng. Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng bàn, ra nghị quyết về các quyết sách lớn của đất nước, căn cứ vào
đó, Nhà nước có nhiệm vụ hiện thực hóa thành các nhiệm vụ cụ thể thông qua
nhiều cách thức mà chính sách cơng là trụ cột.
Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam có hệ thống phương thức chuyển tải,
thể hiện vai trò lãnh đạo hết sức đa dạng, phong phú và linh hoạt, mà ở đó
thơng qua Nhà nước đơi khi chỉ là một trong những cách hiện thực hóa mục
tiêu, lý tưởng của Đảng thơng qua chính sách cơng.
Hoạch định chính sách là khâu đầu tiên trong tồn bộ chu trình chính
sách. Trong q trình này, vai trị lãnh đạo của Đảng thể hiện ở nhiều chiều
cạnh:
Một là, xác định vấn đề và thiết lập nghị trình chính sách công.

5


Đối với xác định vấn đề chính sách, vai trị lãnh đạo của Đảng thể hiện
ở định hướng xã hội, cân nhắc sự lựa chọn, đề xuất các vấn đề chính sách để
giải quyết trong số hàng loạt các vấn đề chính sách kinh tế - xã hội đang đặt
ra. Điều này thể hiện rõ ở chỗ, chỉ có các vấn đề bức thiết của xã hội phù hợp
với cương lĩnh, quan điểm và đường lối của Đảng đang thực hiện thì mới
được xem xét, đưa vào nghị trình, xây dựng chính sách cơng. Vai trị của
Đảng biểu hiện ở chỗ cân nhắc, tính tốn, đối chiếu vấn đề chính sách trong

thực tiễn với hệ thống văn kiện mang tính chỉ đạo. Nếu phù hợp, thống nhất
với định hướng chính trị của Đảng thì các vấn đề xã hội được cân nhắc sẽ trở
thành vấn đề của chính sách cơng.
Nghị trình của chính sách cơng là một danh mục tất cả các vấn đề trong
đời sống xã hội đã và đang phát sinh mà Nhà nước phải nghiên cứu để có giải
pháp cụ thể sau khi xác định vấn đề cần có sự can thiệp bằng chính sách.
Thực chất, thiết lập nghị trình chính sách là đề xuất lên các cơ quan có thẩm
quyền cân nhắc sự cần thiết xây dựng, ban hành và thực thi một chính sách.
Vai trị lãnh đạo của Đảng đối với giai đoạn này thể hiện ở chỗ: Danh
mục các vấn đề chính sách đệ trình lên cơ quan quyền lực tối cao phải phù
hợp với định hướng chính trị phản ánh thơng qua văn kiện, quyết sách chính
trị của Đảng. Q trình bàn thảo, xác định vấn đề chính sách và danh sách
nghị trình trình cơ quan thẩm quyền xem xét, thơng qua, quyết định ban hành
chính sách tùy thuộc bối cảnh chính trị, đặc biệt là phù hợp với phương diện
định hướng, chỉ đạo chiến lược của Đảng ta.
b. Yếu tố năng lực của chủ thể hoạch định chính sách.
Để quản lý tốt xã hội thì Nhà nước phải sử dụng đồng thời các biện
pháp trong đó có cả chính sách để quản lý và hiệu quả của các chính sách này
sẽ phản ánh năng lực của chủ thể hoạch định qua các tiêu chí sau:
-Năng lực phân tích và dự báo phát triển kinh tế – xã hội
-Năng lực phát triển các vấn đề chính sách
6


-Năng lực lựa chọn các vấn đề phải giải quyết
-Năng lực đề ra mục tiêu, các biện pháp giải quyết mục tiêu đó, thuyết
phục cho tính khả thi của chính sách Yếu tố năng lực càng cao thì chính sách
được hoạch định càng khoa học và khả thi
Dựa vào các yếu tố năng lực chủ thể hoạch định chính sách như trên, có
thể hiểu năng lực hoạch định chính sách của chủ thể hoạch định chính sách là

sự kết hợp hài hòa kiến thức, kỹ năng, thái độ của chủ thể hoạch định chính
sách trong việc phân tích vấn đề chính sách, vận hành các nguồn lực, thu hút
sự ủng hộ chính trị nhằm lựa chọn phương án chính sách phù hợp nhất, thực
hiện có hiệu quả chức năng, vai trị hoạch định chính sách.
Trong đó, kiến thức là những hiểu biết cụ thể của cá nhân về tổ chức,
bộ máy, quy trình, thủ tục hoạt động, lý thuyết cơ bản về hoạch định chính
sách nói chung, về phân tích chính sách, đánh giá chính sách nói riêng trong
hoạt động lập pháp... Đây là điều kiện quan trọng để nâng cao khả năng, tư
duy phản biện chính sách.
Kỹ năng được hiểu là cách thức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn một cách hiệu lực, hiệu quả, được biểu hiện ra trong hoạt động lập pháp
nói chung, trong việc soạn thảo hoặc đánh giá, tiếp nhận kết quả của các bản
phân tích, đánh giá chính sách nói riêng.
Thái độ (và các giá trị) là một khái niệm khá trừu tượng, ở đây chủ yếu
nhấn mạnh các quan điểm, hành vi mang tính chuẩn mực đạo đức cơng, trách
nhiệm giải trình, trách nhiệm chính trị của cá nhân phù hợp với các tiêu chuẩn
hoặc là sự thể hiện mức độ nhiệt huyết, đam mê, mong muốn cống hiến của
từng cá nhân trong hoạt động lập pháp…
c. Yếu tố tiềm lực của Nhà nước.
Tiềm lực ở đây được hiểu là nguồn lực thực có và tiềm tàng mà chủ thể
có thể sử dụng trong quá trình quản lý của mình.

7


-Tiềm lực của Nhà nước thường biểu hiện dưới dạng: sức mạnh về kinh
tế, chính trị, thiết chế tổ chức bộ máy cơ quan Nhà nước, đội ngũ cán bộ, tài
nguyên thiên nhiên, tài sản Nhà nước Đối với Nhà nước ta tiềm lực kinh tế
hiện chưa mạnh nên có nhiều chính sách chưa đạt hiệu quả cao do thiếu điều
kiện. Như vậy có thể thấy tiềm lực này là khá quan trọng.

d. Yếu tố tiềm lực của đối tượng thực thi chính sách.
Sự tham gia của các đối tượng thực thi chính sách quyết định sự thành
bài của chính sách, nếu có sự tích cực của các đối tượng thì chính sách sẽ
thành cơng. Nhưng mức độ tham gia của họ lại phụ thuộc vào tiềm lực của họ
trong hiện tại và tương lai. Và điều này đã được thực tế chứng minh đối tượng
thực thi có ảnh hưởng lớn đến hoạch định chính sách.
2. Thực trạng hoạch định chính sách cơng ở Việt Nam trong thời
gian qua
Những kết quả đạt được
Quy trình hoạch định chính sách ở nước ta được thực hiện tuần tự các
bước như sau: Nêu lý do hoạch định chính sách, xây dựng dự thảo các
phương án chính sách, lựa chọn phương án dự thảo tốt nhất, hoàn thiện
phương án lựa chọn, thẩm định phương án chính sách, quyết nghị ban hành
chính sách, cơng bố chính sách.
Thời gian qua, việc hoạch định chính sách cơng ở nước ta đã cho ra đời
nhiều chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện
cụ thể là đã góp phần vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ta trong hơn
30 năm thực hiện công cuộc đổi mới.
Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định chính sách cơng đã đạt được
một số kết quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực
trọng yếu, cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã
hội, quân sự, ngoại giao…).
Một số chính sách cơng quan trọng đã được luận chứng khoa học hơn,
bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lập
8


và hồn thiện được một hệ thống chính sách cơng khá phù hợp, đáp ứng được
yêu cầu ngày càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được ban hành đã đáp
ứng được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của nền kinh tế
thị trường, đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu như: chính sách kích cầu, chính sách điều chỉnh tiền
lương cơ bản, chính sách hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi suất tối
đa cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam, chính sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam
của cá nhân khi xuất nhập cảnh, chính sách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân,
chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nơng nghiệp…
Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong kiềm chế
lạm phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng của nền
kinh tế trong điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như
những phản ứng kịp thời của nhà nước trước những biến động lớn của kinh tế
toàn cầu và khu vực.
Những hạn chế
Tuy nhiên, quy trình hoạch định chính sách cơng như nêu trên cũng cịn
bộc lộ một số tồn tại, đó là:
Thứ nhất, các kiến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các
cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc dự thảo chính
sách thường là do các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan đặc biệt của Chính
phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện.
Như vậy, chính sách cơng được ban hành dựa trên suy xét, phân tích
tình hình thực tế và trên cơ sở những mong muốn quản lý của từng cơ quan
nhà nước. Sự tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách, hoặc đóng góp
vào xây dựng các phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng bị ảnh
hưởng bởi chính sách là rất hạn chế.
9


Rất ít các chính sách cơng được ban hành xuất phát từ ý tưởng của
những đối tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực hiện

chính sách do những nhà quản lý xây dựng nên. Đây là một trong những
nguyên nhân cơ bản làm cho một số chính sách tính khả thi thấp, hoặc khi
thực thi không đem hiệu quả như nhà quản lý mong muốn.
Thứ hai, các ý tưởng hoạch định chính sách được đề xuất, và dự thảo
chính sách chủ yếu do cơ quan nhà nước (chủ yếu là do các bộ, ngành, UBND
tỉnh, thành phố thực hiện) thì dễ nảy sinh tình trạng cục bộ, bản vị; đề xuất
dựa trên mong muốn, mục đích quản lý của ngành, địa phương do mình quản
lý mà khơng tính tới tổng thể chung.
Thứ ba, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao và căn cứ vào tình
hình quản lý, các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố để đề xuất dự thảo chính
sách trong lĩnh vực quản lý được giao và cũng chính là cơ quan dự thảo, do
đó thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành nên chính sách thiếu tính tồn diện.
Mặc dù trong danh sách Ban soạn thảo và Tổ biên tập có đầy thủ các
thành viên của các Bộ, Ngành (đặc biệt là Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà
nước, Bộ Cơng Thương...), nhưng trong phiên họp quan trọng này đều khơng
có mặt của các thành viên của các Bộ, Ngành được coi là quan trọng như đã
nêu ở trên. Như vậy, rõ ràng, tính phối hợp trong các chương trình ban hành
chính sách giữa các Bộ, Ban, Ngành là khơng cao.
Có thể nói rằng hiện tượng việc của Bộ nào thì Bộ ấy lo vẫn cịn là điều
phổ biến. Do khơng có mặt trong cuộc họp nên chắc chắn sự thống nhất trong
từng vấn đề chính sách là khơng có, do vậy rất dễ khi chính sách đó được thực
thi thì sự chênh chính sách, chồng chéo chính sách hoặc mâu thuẫn, trái
ngược về chính sách là rất dễ xảy ra.
Thứ tư, quy trình hoạch định chính sách cịn bị khép kín; việc lấy ý kiến
tham gia của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách cịn ít,
nếu có thì hình thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành chưa thể hiện tính
chủ động.
10



Mặt khác, chưa có quy định cụ thể để huy động được trí tuệ của nhân
dân, các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính sách là
vơ hình chung làm hạn chế cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề. Chẳng hạn,
trong hoạch định chính sách việc dự báo chính sách rất quan trọng.
Thời gian qua, khi một số biến động về giá cả, tình trạng lạm phát trên
thế giới và ở nước ta, cho thấy việc dự báo chính sách cịn nhiều yếu kém. Dự
báo chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn. Nếu trong hoạch định
chính sách khơng có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học thì việc dự
báo chính sách gặp rất nhiều khó khăn.
Trong q trình hoạch định chính sách cơng chưa tạo được kênh thơng
tin tốt nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của những đối tượng chịu ảnh hưởng
của chính sách. Trong khi đó, chính sách khơng thể là ý muốn chủ quan của
cơ quan nhà nước, càng khơng phải là ý chí áp đặt của cá nhân có thẩm quyền
mà xuất phát từ hiện thực khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức
một cách biện chứng các vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế – xã hội và có
các phương án giải quyết phù hợp với thực tế. Một chính sách đúng đắn phải
từ thực tế khách quan.
Thứ năm, năng lực của đội ngũ tham gia hoạch định chính sách cịn hạn
chế. Điều này dẫn đến tình trạng bỏ sót vấn đề chính sách hoặc nhìn nhận
cách giải quyết vấn đề chưa đúng. Do tầm nhìn hạn hẹp của đội ngũ hoạch
định chính sách nên khi chính sách đưa vào thực thi mới nảy sinh nhiều bất
cập hoặc tình trạng chưa thực thi đã vấp phải phản đối của dư luận và phải
sửa (ví dụ điều 60 của Luật Bảo hiểm xã hội).
Thứ sáu, cơng tác hoạch định chính sách cơng hiện nay chưa theo kịp
với tình hình hội nhập của đất nước. Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế, các chính sách cơng bị nhiều chi phối, ảnh hưởng không chỉ ở
phạm vi nhất định trong lãnh thổ của một quốc gia mà cịn bị chi phối bởi các
yếu tố mang tính tồn cầu.

11



Chẳng hạn như chính sách đối với vấn đề phát triển nông nghiệp. Qua
sự kiện giá gạo trên thị trường thế giới bị đẩy lên cao, vấn đề an ninh lương
thực đặt ra… Chính sách phát triển nơng nghiệp ở nước ta cần phải có sự tính
tốn, cân nhắc, điều chỉnh lại. Như vậy, chính sách cơng của một quốc gia
cũng đang phải chịu nhiều sự chi phối ở mức độ và phạm vi rộng lớn hơn.
Trong việc hoạch định chính sách cơng cần phải có sự tổng kết, phân
tích, đánh giá tình hình, tác động ảnh hưởng tới quá trình thực hiện chính
sách, các biện pháp thực hiện chính sách, và từ đó làm căn cứ để lựa chọn
phương án chính sách phù hợp với thực tế.
Thứ bảy, việc đánh giá tác động của chính sách trước khi ban hành hiện
nay tại Việt Nam còn rất hạn chế. Việc phản biện chính sách trước khi ban
hành là việc làm rất quan trọng để có thể lường trước được những mặt tiêu
cực có thể do thực thi chính sách mang lại cho đối tượng chịu tác động trực
tiếp của chính sách đó. Hiện nay các nước trên thế giới hoạt động phản biện
chính sách là một khâu rất quan trọng nhưng tại Việt Nam thì hoạt động này
lại bị coi nhẹ.
Do tồn tại những thực trạng trên cho nên dẫn tới hệ quả là các chính
sách thực thi hiệu quả chưa cao như: kết quả phát triển kinh tế - xã hội cịn
thấp; các chính sách khi đưa vào thực thi có khi khơng thực sự phù hợp với
địa phương đó do thiếu sự phối hợp giữa các Bộ, Ngành; chính sách xóa đói
giảm nghèo cịn chồng chéo nên dẫn đến hiệu quả không cao; đào tạo nguồn
nhân lực hay là các chính sách khác triển khai cịn nhiều bất cập.v.v
III.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập, nâng cao chất lượng, hiệu quả
xây dựng và thực thi chính sách công ở nước ta hiện nay, cần quan tâm một số
vấn đề sau:
Một là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế hoạch định chính sách
cơng

12


Tại Đại hội XII, Đảng ta chủ trương: “Tiếp tục đổi mới tư duy, hồn
thiện các cơ chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc
nhằm khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới
cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
Một trong những nhược điểm lớn nhất của quy trình lập pháp và hoạch
định chính sách cơng ở nước ta thời gian qua là đồng nhất quy trình hoạch
định và xây dựng chính sách cơng với quy trình làm luật; lồng ghép việc xây
dựng chính sách và xây dựng luật. Điều đó dẫn đến tình trạng có khi luật
được ban hành nhưng chưa thể đi vào cuộc sống hoặc không phù hợp với
cuộc sống do việc nghiên cứu, hoạch định chính sách cịn yếu, khơng tương
thích với luật. Để khắc phục những hạn chế, bất cập trên, ngày 22-6-2015,
Quốc hội đã ban hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật chung cho
các cơ quan nhà nước thay thế hai Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2004 và 2008. Luật năm 2015 đã chú trọng hơn đến quy trình phân
tích, hoạch định chính sách bằng việc bổ sung những quy định cụ thể về trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đề xuất chính sách và đề cao sự tham gia
rộng rãi của các tầng lớp nhân dân. Điểm nhấn quan trọng là Luật mới dành
Điều 35 để quy định về trách nhiệm, nội dung đánh giá tác động của chính
sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Vấn đề quan trọng hiện nay là
triển khai các văn bản pháp luật nói trên vào q trình hoạch định và tổ chức
thực thi chính sách cơng của chính phủ, các bộ, ngành và địa phương, kịp thời
loại bỏ những cách làm và những văn bản không phù hợp, trái với quy định
của luật.
Hai là, đổi mới quy trình hoạch định chính sách cơng theo hướng dân
chủ, cơng khai, minh bạch; thể chế hóa sự tham gia của các chủ thể trong xây
dựng chính sách; thiết lập quy trình xây dựng chính sách cơng với sự tham
gia của tất cả các bên có liên quan: chính phủ, doanh nghiệp, các tổ chức

chính trị - xã hội, người dân, các nhà khoa học, chuyên gia...

13


Nói cách khác, việc xây dựng chính sách cơng từ chỗ chỉ là chức năng
đặc quyền của các cơ quan nhà nước trở thành mối quan tâm và trách nhiệm
của tồn xã hội. Việt Nam cần có một đội ngũ những người hoạch định chính
sách chuyên nghiệp, với sự tham gia của nhiều thành phần xã hội khác nhau.
Cụ thể là:
- Tăng cường sự tham gia của người dân vào q trình hoạch định
chính sách, coi đây là một u cầu bắt buộc trong q trình hoạch định chính
sách, tạo điều kiện để mọi người dân nắm được thông tin và đóng góp vào các
dự thảo chính sách liên quan trực tiếp đến mình, tránh để tình trạng “chính
sách trên trời được ban hành cho dân dưới đất” vì khơng đủ điều kiện để thực
hiện.
- Tăng cường đối thoại chính sách giữa Chính phủ và các nhóm lợi ích,
đặc biệt là các doanh nghiệp. Tiếp tục tổ chức và thực hiện diễn đàn đối thoại
giữa doanh nghiệp với Thủ tướng để giám đốc các doanh nghiệp có thể trao
đổi trực tiếp với Thủ tướng về những vấn đề của doanh nghiệp. Thơng qua đối
thoại, Chính phủ hiểu các doanh nghiệp muốn gì và các doanh nghiệp biết
Chính phủ định làm gì.
- Thành lập nhóm các chun gia giỏi, hình thành những “Think
tanks” giúp việc cho Thủ tướng Chính phủ trong việc nghiên cứu và thiết kế
chính sách, được lựa chọn từ các cơng chức cao cấp, có năng lực, trình độ từ
các bộ, ngành, kể cả các chuyên gia là người Việt Nam đang sinh sống ở
nước ngồi. Nhóm chun gia, những “Think tanks” này thường xuyên có sự
tương tác hai chiều với Thủ tướng và các bộ, ngành thực thi chính sách. Ngày
28-7-2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 1120/QĐ-TTg thành
lập Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng để tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ các

vấn đề phát triển kinh tế gồm 15 thành viên là những chuyên gia kinh tế hàng
đầu trong và ngoài nước.

14


- Thiết lập cơ chế cạnh tranh trong ý tưởng chính sách và các báo cáo
chính sách trên cơ sở phát huy vai trò của các trường đại học, các cơ quan
nghiên cứu độc lập và các tổ chức nghiên cứu chính sách của quốc gia.
Ở Việt Nam hiện nay còn thiếu vắng các tổ chức nghiên cứu và phản
biện chính sách độc lập mà hoạt động của các tổ chức này sẽ giúp cho Chính
phủ nhìn nhận chính sách từ nhiều góc độ, bảo đảm khách quan hơn. Vì vậy,
cần sớm tổ chức lại hệ thống các cơ quan nghiên cứu chính sách, tiếp tục đổi
mới và hồn thiện thể chế để tạo môi trường cho sự phát triển các loại hình tổ
chức nghiên cứu chính sách, trong đó có các cơ quan nghiên cứu độc lập, các
tổ chức nghiên cứu chính sách hoạt động khơng dựa vào ngân sách nhà nước.
Các trường đại học, viện nghiên cứu cần được tổ chức lại theo hướng
loại bỏ những cấu trúc tương tự như các cơ quan hành chính, phụ thuộc vào
cơ chế xin cho, bao cấp. Việc đào tạo và nghiên cứu phải gắn với thực tiễn,
góp phần phát hiện, đề xuất những ý tưởng chính sách, đáp ứng những yêu
cầu của cuộc sống đặt ra. Ngoài ra, Nhà nước cần tạo điều kiện vật chất, môi
trường và không gian nghiên cứu học thuật tốt ở các trường đại học, viện
nghiên cứu về chính sách, góp phần sớm hình thành hệ thống lý luận nghiên
cứu chính sách cơ bản, đồng bộ ở Việt Nam. Khuyến khích các nghiên cứu
chính sách dựa trên bằng chứng nhằm nâng cao tính thuyết phục cho hoạch
định chính sách. Trên cơ sở tiếp cận đa ngành, liên ngành, cần khuyến khích
sự tham gia nghiên cứu phân tích chính sách từ các phân ngành của khoa học
xã hội như kinh tế học, tâm lý học, xã hội học để cung cấp những bằng chứng
số liệu định lượng về kinh tế, xã hội được phân tích một cách khoa học.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, các bộ, ngành, các cơ

quan hữu quan trong hoạch định chính sách, tránh chồng chéo, mâu thuẫn
nhau.
Hiện nay, có tình trạng mỗi bộ, ngành đều có những đề xuất chính sách
nhưng lại khơng xác định được lĩnh vực ưu tiên, thiếu kế hoạch hành động cụ
thể. Do đó, để xây dựng chính sách một cách tồn diện nhất, cần xây dựng các
15


quy định phối hợp và phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ, ngành, đồng
thời xác định trách nhiệm giữa các cơ quan một cách cụ thể hơn. Cần có sự
hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ, các bộ liên quan, hiệp hội doanh nghiệp, các
nhà khoa học, các chun gia nước ngồi trong q trình hoạch định, điều
chỉnh chính sách.
Ba là, các nhà tổ chức thực thi chính sách, các lực lượng tham gia và
các đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách cần nhận thức đầy đủ, đúng
đắn, hiểu rõ mục tiêu, ý nghĩa, nội dung của chính sách và các giải pháp thực
hiện, từ đó tạo ra sự đồng thuận trong xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp tổ
chức thực hiện có hiệu quả chính sách.
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách đến các tầng lớp nhân
dân; thực hiện cơng khai chính sách để mọi người biết, bàn, thực hiện và kiểm
tra chính sách. Tùy từng đối tượng mà tổ chức các hình thức tuyên truyền,
phổ biến phù hợp như: mở các lớp tập huấn, tuyên truyền, bàn các giải pháp
và phân công thực hiện chính sách; gửi các tài liệu hướng dẫn chính sách cho
các tổ chức, doanh nghiệp liên quan.
Sau khi chính sách ban hành, cần phải cụ thể hóa bằng các chương trình
hành động, các kế hoạch thực hiện; ban hành các văn bản hướng dẫn thực
hiện chính sách, các biểu mẫu báo cáo (nếu có); xây dựng các đề án, dự án.
Chuẩn bị nguồn lực cho việc thực hiện chính sách: huy động các nguồn
lực (nhân lực, vật lực, kinh phí...) từ Trung ương, các địa phương, các tổ chức
quốc tế. Có thể khai thác các nguồn lực trong nhân dân nhằm giảm bớt chi phí

từ ngân sách nhà nước, khai thác sự tài trợ của các tổ chức quốc tế và các
chính phủ. Nguồn kinh phí cần sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giám sát, kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng kinh
phí và đánh giá hiệu quả.
Tổ chức thực hiện một cách khoa học, hợp lý, phân công trách nhiệm
cụ thể cho các tổ chức, cá nhân liên quan; xác định người chịu trách nhiệm
chính và những người tham gia phối hợp trong quá trình tổ chức thực hiện
16


chính sách. Trong phân cơng nhiệm vụ, cần chú ý đến khả năng, tính chất
chun mơn và thế mạnh của từng người; hạn chế tình trạng chồng chéo
nhiệm vụ và không rõ trách nhiệm.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về tiến độ, hiệu quả
thực hiện chính sách cơng. Mục đích của hoạt động này là phát hiện, phịng
ngừa và xử lý vi phạm (nếu có); phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, trong
chính sách và pháp luật để kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền có biện pháp
khắc phục. Đồng thời, thơng qua đó để phát huy nhân tố tích cực góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan.
Bốn là, đề cao vai trị của hoạt động phân tích, đánh giá chính sách
cơng như là một điều kiện tiên quyết để từng bước cải thiện chất lượng của
quy trình hoạch định và thực thi chính sách.
Việt Nam cần đưa việc đánh giá chính sách thành một nội dung bắt
buộc đối với một số chính sách quan trọng của Nhà nước. Đặc biệt, cần tăng
cường thực hiện một cách thực chất quy trình đánh giá dự báo tác động của
các văn bản luật và chính sách, đánh giá tác động xã hội, môi trường, sinh kế
đối với các quyết định đầu tư cơng cũng như giám sát thực thi chính sách
cơng.
Xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách cơng một cách đầy đủ và

đúng đắn, dựa trên các tiêu chí như: tính phù hợp, tính hiệu lực của chính
sách, tính hiệu quả, tính cơng bằng của chính sách, tác động của chính sách,
mức độ giải quyết vấn đề của chính sách.
Quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để
thấy được các bất cập trong hoạch định và q trình thực thi chính sách; có cơ
chế ràng buộc các cơ quan nhà nước trong việc phản hồi ý kiến, tiếp nhận các
kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá chính sách cơng.
Tổ chức các nhóm đánh giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động với
tư cách chuyên gia đánh giá, có thể từ các cơ quan nhà nước hoặc ngoài nhà
17


nước, làm việc một cách độc lập, khách quan theo mục tiêu và nhiệm vụ cụ
thể của nhóm. Dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc đánh giá chính sách;
tăng cường đào tạo chun gia đánh giá chính sách cơng; coi trọng hoạt động
tổng kết thực tiễn về hoạch định, thực thi chính sách cơng.

18


Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với hoạch định, thực thi và đánh
giá chính sách cơng ở nước ta hiện nay (dangbodanang.vn)

19



×