Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Vai trò của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến văn hóa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.21 KB, 32 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: CHÍNH TRỊ HỌC
Đề tài:
NỘI DUNG, TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA PHÁI NHO GIA VÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TỚI VĂN HĨA VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Tơ Thị Oanh
Sinh viên thực hiện:
MSSV:
Lớp:

Hà Nội, 2021


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
CHƯƠNG I.CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ PHÁI NHO GIA.3
1. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội.......................................................................3
1.1.

Về kinh tế.........................................................................................................3

1.2.

Về chính trị, xã hội..........................................................................................3

2. Những tiền đề văn hóa, tư tưởng..........................................................................3
CHƯƠNG II. NỘI DUNG, TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ PHÁI NHO GIA................5


1.1.

Nhân................................................................................................................6

1.1.1.

Ái nhân (thương yêu con người)................................................................6

1.1.2.

Tu dưỡng bản thân.....................................................................................6

1.1.3.

Tôn trọng và sử dụng người hiền...............................................................6

1.2.

Lễ..................................................................................................................... 7

1.3.

Chính danh......................................................................................................8

2. Mạnh Tử................................................................................................................8
2.1.

Thuyết tính thiện.............................................................................................9

2.2.


Quan niệm về vua - tôi – dân..........................................................................9

2.3.

Quan niệm về quân tử - tiểu nhân..................................................................9

2.4.

Chủ trương vương đạo..................................................................................10

3. Tư tưởng về nhà nước, quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước
với dân............................................................................................................................
10
3.1.

Tư tưởng về nhà nước và quyền lực nhà nước............................................10

3.2.

Tư tưởng về dân và mối quan hệ giữa dân với nhà nước............................13

3.2.1.

Tư tưởng về dân.......................................................................................13

3.2.2.

Mối quan hệ giữa dân với nhà nước........................................................13



CHƯƠNG III. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TỚI VĂN HÓA VIỆT NAM. . .17
1. Những tác động tích cực của Nho giáo đối với văn hóa Việt Nam...................17
1.1.

Về tín ngưỡng................................................................................................19

1.2.

Về phong tục..................................................................................................19

1.3.

Trong giáo dục..............................................................................................20

1.4.

Về văn học và nghệ thuật..............................................................................20

1.5.

Về ngôn ngữ và văn tự..................................................................................21

2. Những tác động tiêu cực của Nho giáo đối với văn hóa Việt Nam...................22
2.1.

Trong lĩnh vực giáo dục................................................................................23

2.2.


Về chính trị....................................................................................................24

2.3.

Về kinh tế.......................................................................................................24

2.4.

Về xã hội........................................................................................................25

2.5.

Về đối ngoại...................................................................................................26

KẾT LUẬN................................................................................................................. 27


LỜI MỞ ĐẦU
Trung Hoa cổ đại là một trong những trung tâm văn hóa, khoa học và triết học
cổ xưa, phong phú và rực rỡ nhất không chỉ của nền văn minh phương Đông mà của cả
nhân loại.
Thật vậy, khi nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị phương Đơng, ta dễ dàng
nhận thấy phần nổi trội nhất mang tính chi phối chính là lịch sử tư tưởng chính trị
Trung Quốc. Do vậy, việc nghiên cứu lịch sử chính trị Trung Quốc có thể cho ta thấy
những yếu tố tiêu biểu và qua đó, làm sáng tỏ đặc trưng chung các tư tưởng chính trị
phương Đơng. Trong đó, thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc (770 - 221 trước Công
nguyên) là giai đoạn có nhiều biến động xã hội lớn và có ý nghĩa vạch đường, đặt nền
móng cho tư tưởng Trung Quốc phát triển. Đây cũng chính là thời kỳ mà các trường
phái tư tưởng chính trị Trung Quốc xuất hiện chủ yếu.
Ngược dòng lịch sử, ta thấy Trung Hoa cổ đại lúc này đang nằm trong sự

chuyển giao hình thái kinh tế - xã hội từ chiếm hữu nô lệ sang phong kiến. Chiến tranh
nổ ra liên miên, đạo đức và trật tự xã hội bị suy thoái. Tình trạng “tơi giết vua, con giết
cha, em giết anh...” trở nên vô cùng phổ biến. Nhân dân khắp nơi đói khổ, bị áp bức,
bóc lột nặng nề. Khi ấy, một nhu cầu xã hội bức thiết được đặt ra là phải có những học
thuyết chính trị phản ánh được xu thế của thời cuộc, thỏa mãn được lợi ích giai cấp và
các tầng lớp khác nhau. Vì vậy, tầng lớp trí thức đua nhau đưa ra học thuyết của mình
nhằm tìm ra nguyên nhân loạn lạc và phương án giải quyết các mâu thuẫn trong xã
hội. Họ đi du thuyết khắp nơi với hy vọng được các nhà cầm quyền sử dụng để cứu
vãn tình trạng bi đát đương thời. Từ đó tạo nên cao trào tư tưởng “trăm hoa đua nở,
trăm nhà đua tiếng”. Một trong số những trường phái tiêu biểu của giai đoạn này chính
là: Nho gia.
Tư tưởng Nho gia có một lịch sử hình thành và phát triển lâu dài hằng mấy
nghìn năm. Từ một vùng rồi lan ra khắp Trung Quốc - quê hương của nó, rồi ảnh
hưởng đến Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản. Khơng q khi nói rằng Nho giáo đã trở
thành tư tưởng, văn hố, in đậm dấu ấn của mình lên lịch sử của một nửa châu Á trong
1


suốt hơn hai nghìn năm qua, và cho đến tận hơm nay chúng ta vẫn ít nhiều đang chịu
ảnh hưởng học thuyết Nho gia, học thuyết này đã trở thành cốt lõi của cái mà ta gọi là
văn hóa phương Đông.
Ở Việt Nam, Nho giáo được truyền vào từ những năm đầu cơng ngun trong
q trình đơ hộ của chính quyền phương Bắc. Nho giáo đã từng bước chiếm ưu thế và
có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và
con người, góp phần vào việc hình thành các giá trị truyền thống của dân tộc.
Từ thời Lê, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống, ảnh hưởng sâu đậm
đến đời sống tinh thần, tư tưởng ở nước ta. Lúc ấy, nó đã trở thành cơng cụ phục vụ
đắc lực để trị nước, tổ chức nhà nước và quản lý xã hội của các triều đại phong kiến
Việt Nam. Các di sản tư tưởng ấy không những không xa lạ, mà cịn gần gũi với văn
hóa và con người Việt Nam trong lịch sử. Nó khơng chỉ ảnh hưởng đến xã hội và con

người Việt Nam trong quá khứ mà cả trong giai đoạn hiện nay, dù Nho giáo không còn
giữ địa vị của hệ tư tưởng thống trị.
Nhưng suy cho cùng, chẳng có gì là hồn hảo. Trong nội dung tư tưởng trị quốc
của Nho giáo, bên cạnh những giá trị và những yếu tố có tính hợp lý nhất định thì
những hạn chế có tính lịch sử của nó là điều khơng tránh khỏi.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, bản thân em quyết định lựa
chọn vấn đề “Nội dung, tư tưởng chính trị của phái Nho gia và ảnh hưởng của nó
tới văn hóa Việt Nam” làm đề tài cho tiểu luận hết mơn học phần “Chính trị học Đại
cương” của mình.
Trong quá trình thực hiện đề tài, dù đã cố gắng hết sức để hạn chế những cũng
không thể tránh khỏi những sai sót và lỗi lầm. Kính mong được q thầy cơ nhận xét,
góp ý và sửa chữa để bản thân em có cơ hội được rút kinh nghiệm và cải thiện năng
lực bản thân hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn !

2


CHƯƠNG I.
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ PHÁI NHO GIA
1. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
1.1.

Về kinh tế
Đồ sắt thời kỳ này được sử dụng phổ biến, nghề luyện sắt, chế tạo công
cụ lao động bằng sắt phát triển. Cùng với việc chế tạo và sử dụng công cụ
lao động bằng sắt, người Trung Quốc thời kỳ này còn biết sử dụng sức kéo
của súc vật, biết dùng súc vật làm công cụ lao động trong sản xuất nơng
nghiệp. Mặt khác, họ cịn chú trọng làm thủy lợi phục vụ cho cấy trồng, sản
xuất ra của cải vật chất.


1.2.

Về chính trị, xã hội
Thời Xuân Thu - Chiến quốc trên đất nước Trung Quốc cổ đại cũng có
nhiều biến cố, sự kiện trọng đại. Nhà Chu trong khoảng 4 thế kỷ, từ thế kỷ
XI trước công nguyên đến năm 771 trước cơng ngun đóng đơ ở phía Tây
là thời kỳ cường thịnh. Đến thời Đơng Chu thì ngày càng suy yếu. Ngược
lại, một số nước chư hầu của nhà Chu trước đây vốn nhỏ yếu buộc phải thần
phục, triều cống nhà Chu, thì nay ngày một lớn mạnh, họ tiến hành chiến
tranh nhằm giành quyền làm bá chủ.

Tóm lại, những biến đổi sâu sắc về kinh tế, chính trị, xã hội thời kỳ này cho
thấy, trật tự xã hội được tổ chức theo mơ hình thể chế nhà Chu đã lỗi thời, mất sức
sống, khơng thích ứng nổi trước những diễn biến phức tạp của lịch sử. Trước thực tế
đó, nhiều trào lưu tư tưởng đương thời hướng đến việc lý giải nguyên nhân trật tự xã
hội rối loạn, từ đó tìm kiếm mơ hình xã hội lý tưởng và con đường ổn định trật tự xã
hội đương thời. Tư tưởng chính trị phái Nho gia đã ra đời trong bối cảnh lịch sử đầy
biến động đó.

3


2. Những tiền đề văn hóa, tư tưởng
Khơng một học thuyết nào ra đời từ hư vô mà bao giờ cũng mang tính kế
thừa trong sự hình thành, phát triển. Sự ra đời của Nho giáo dựa trên cơ sở kế
thừa những tư tưởng về chính trị, đạo đức, tơn giáo trong lịch sử tư tưởng trước
đó, nhất là những tư tưởng này ở thời Chu.

Nho giáo đã tiếp thu được những tư tưởng về đạo đức, chính trị, tơn giáo

đã có trước nó để giải đáp những vấn đề mà thực tiễn xã hội đang đặt ra. Mặt
khác, sau khi ra đời, Nho giáo có q trình tồn tại và phát triển qua các giai
đoạn lịch sử khác nhau và gắn với chế độ xã hội phong kiến đang trong quá
trình hình thành, phát triển. Vì thế, nội dung của học thuyết ấy cũng có sự đổi
thay, bổ sung, thêm bớt trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể.

4


CHƯƠNG II.
NỘI DUNG, TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ PHÁI NHO GIA
Tư tưởng Nho gia chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng chính
trị Trung Quốc. Nó ảnh hưởng sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội Trung Quốc và các
nước láng giềng trong suốt hơn hai nghìn năm lịch sử. Hai nhân vật tiêu biểu của
trường phái Nho gia là: Khổng Tử và Mạnh Tử; trong đó Khổng Tử là người đầu tiên
sáng lập nên đạo này, còn Mạnh Tử là người kế tục nổi tiếng.
1. Khổng Tử
Hơn 2000 năm của chế độ phong kiến Trung Quốc, các triều đại kế tiếp
nhau đều xem Nho giáo là cơ sở tư tưởng của đạo trị nước. Vì vậy, khi xã hội
lâm vào khủng hoảng, người ta quy cho là tại triều đại khơng sáng suốt, khơng
có vua hiền tướng giỏi, không thực hiện các nguyên lý của Nho giáo. Vấn đề
đặt ra là thay đổi triều đại chứ không phải thay đổi học thuyết thống trị. Điều đó
làm cho Khổng Tử được xem là ơng thầy của muôn đời và Nho giáo được xem
là học thuyết thống trị không thể thay thế.
Khổng Tử là người sáng lập ra trường phái Nho gia. Ông tên Khâu, tự là
Trọng Ni, sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ ở nước Lỗ. Thời trẻ ông đã mở
trường dạy học, sau đó làm quan nhỏ, quản lý kho và trơng coi trâu, dê; sau đó
Trung đơ tể, quan Tư khấu. Vì khơng được trọng dụng, ơng dẫn học trị đi chu
du các nước hơn mười năm. Cuối đời ông trở về nước Lỗ tiếp tục dạy học và
chỉnh lý, san định các thư tịch cổ như ngũ kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch và

viết kinh Xuân Thu. Luận ngữ là bộ sách do các học trò của Khổng Tử ghi lại.
Tư tưởng chính trị của Khổng Tử trước hết là vì sự bình ổn xã hội - một
xã hội “thái bình thịnh trị”. Theo ơng, chính trị là chính đạo, đạo của người làm
chính trị phải ngay thẳng, phải lấy chính trị để dẫn dắt dân, nhà nho phải tham
chính… Khổng Tử cho rằng xã hội loạn là do mỗi người khơng ở đúng vị trí
của mình, Lễ bị xem nhẹ. Để thiên hạ có “đạo”, quay về Lễ, phải củng cố điều
Nhân, coi trọng lễ nghĩa mỗi người phải hành động trong khn khổ của mình,
từ đó xã hội sẽ ổn định.
5


Để thực hiện lý tưởng chính trị của mình, ơng đã đề ra học thuyết “Nhân
- Lễ - Chính danh”.
1.1.

Nhân
“Nhân” là phạm trù trung tâm trong học thuyết chính trị của Khổng Tử.
Nó là thước đo, là chuẩn mực quyết định thành - bại, tốt- xấu của chính trị.
Nội dung điều Nhân rất rộng, bao hàm các vấn đề đạo đức, luân lý của xã
hội. Trong chính trị, điều Nhân thể hiện ở các nội dung sau:

1.1.1. Ái nhân (thương yêu con người)
“Thân thân” (thương yêu người thân của mình hơn) và “thân nhân” (yêu
người nhân đức hơn) là hai điều quan trọng.
Từ thương người đi đến hai nguyên tắc: “Điều mình khơng muốn thì
đừng (đem ra) đối xử với mọi người” (kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân) và
“Mình muốn thành đạt thì làm cho người khác thành đạt” (Kỷ dục lập nhi
lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân).
1.1.2. Tu dưỡng bản thân
Trong đó, việc tu dưỡng bản thân, sửa mình theo lễ chính là Nhân (khắc

phục lễ vi nhân)
1.1.3. Tôn trọng và sử dụng người hiền
Nhân là trung (trung thành), là thứ (có lịng vị tha). Người có Nhân phải
thực hiện 5 điều:
-

Cung (cung kính)

-

Khoan (độ lượng)

-

Tín (giữ lời hứa)

-

Mẫn (siêng năng)

-

Huệ (làm lợi cho người khác)
Hiếu (hiếu thảo với cha mẹ) và Đễ (hữu ái) chính là gốc của đức
Nhân

6


Như vậy, nội dung của Nhân là nhân đạo, thương yêu người, coi người như

mình và giúp đỡ lẫn nhau. Khi điều Nhân đã bao trùm thì khơng cịn mâu thuẫn, xung
đột, lễ nhà Chu được phục tùng, xã hội sẽ tự ổn định.
Theo Khổng Tử, đạo Nhân không phải để cho tất cả mọi người mà chỉ có ở
những người “quân tử” (quý tộc, trí thức, thuộc tầng lớp thống trị), còn kẻ “tiểu
nhân” (người lao động, giai cấp bị trị) thì khơng bao giờ có. Để đạt được điều Nhân,
cần phải có Lễ.
1.2.

Lễ
“Lễ” vốn là các quy định, nghi thức trong cúng tế. Khổng Tử đã lý luận
hóa, biến Lễ thành những quy định, trật tự phân chia thứ bậc trong xã hội,
được thể hiện trong phong cách sinh hoạt: hành vi, ngôn ngữ, trang phục,
nhà cửa,...
Lễ là chuẩn mực đạo đức, là khuôn mẫu cho mọi hành động của cá nhân
và các tầng lớp trong xã hội. Lúc này, Lễ mang tính pháp lý, có tác dụng
khống chế các hành động thái quá. Ai ở địa vị nào thì chỉ được dùng Lễ ấy,
cịn tùy vào tính chất công việc khác nhau.
Lễ là bộ phận của Nhân, Lễ là ngọn, Nhân là gốc. Người có đức Nhân là
người “khơng nhìn cái khơng hợp Lễ, khơng nghe cái khơng hợp Lễ, khơng
nói điều khơng hợp Lễ, khơng làm điều không hợp Lễ”...
Lễ giúp con người biết phân biệt trên dưới, biết thân phận, vai trị, địa vị
của mình trong xã hội, biết phục tùng làm theo điều lành (hợp Lễ) và xa rời
điều ác (trái Lễ).
Theo Khổng Tử, Lễ quy định chuẩn mực cho các đối tượng quan hệ cơ
bản: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn bè. Các quan hệ này đều
có hai chiều, phụ thuộc vào nhau. Vua sai khiến bề tôi phải theo Lễ, bề tôi
thờ vua theo đạo trung; cha đối với con phải nhân từ, con thờ cha phải hiếu
thảo…”. Nhưng ông cũng coi việc bề dưới lật đổ bề trên là hợp lý, khi bề
trên không xứng đáng với danh vị của mình nữa.
Khổng Tử xem Lễ như luật lệ. Lễ không hề áp dụng cho tất cả mọi người

mà nó chỉ áp dụng với những người có Nhân, vì “người khơng có Nhân thì
giữ Lễ làm sao được”. “Kẻ tiểu nhân mà có Lễ là điều chưa hề có”. Cung
kính là gốc của Lễ. Nhân có trước, Lễ có sau.
7


1.3.

Chính danh
“Chính danh” là danh phận đúng đắn, ngay thẳng. Đây là phạm trù cơ
bản trong học thuyết chính trị của Khổng Tử. Chính danh là xác định và
phân biệt quan hệ danh phận, đẳng cấp giữa các giai cấp, thực chất là khẳng
định tính hợp lý của giai cấp q tộc trong việc thực thi quyền lực của mình.
Nó vừa là điều kiện, vừa là mục đích của chính trị. Chính danh thể hiện ở
các nội dung sau:

-

Xác định danh phận, đẳng cấp và vị trí của từng cá nhân trong xã hội. Ai ở
vị trí nào thì làm trịn bổn phận ở vị trí ấy, khơng được làm vượt quá chức
năng, bổn phận của mình.

-

“Danh” phải phù hợp với “thực”, nội dung phairi phù hợp với hình thức.
Trong chính trị, lời nói phải đi đơi với việc làm.

-

Đặt con người vào đúng vị trí và chức năng. Phải xác định “danh” (tên gọi)

trước khi có “thực” (thực tài) vì “danh” là điều kiện thi hành “thực”. Khi có
danh thì thực mới có ý nghĩa “danh khơng chính thì ngơn khơng thuận, ngơn
khơng thuận thì việc khơng thành…”

“Chính danh” và “Lễ” có mối quan hệ chặt chẽ: muốn “danh” được “chính
(đúng đắn, phù hợp với thực) thì phải thực hiện Lễ. Chính danh là điều kiện để thực
hiện, trau dồi Lễ.
Chính danh là một biện pháp quy định và giúp mọi người nhận rõ cương vị,
quyền hạn và nghĩa vụ của mình trong quan hệ với chức vụ và đẳng cấp tương ứng.
Có xác định được danh phận thì mới điều hòa được các mối quan hệ. Đây là vấn đề
căn bản của cách ứng xử chính trị.
2. Mạnh Tử
Mạnh Tử là người nước Trâu (372 - 289 trước Cơng ngun). Ơng đã kế
thừa và phát huy sáng tạo các tư tưởng của Khổng Tử, xây dựng học thuyết
“Nhân chính” (chính trị nhân nghĩa) của mình. Tư tưởng chính trị của ơng gồm
có những nội dung sau:
8


2.1.

Thuyết tính thiện
Theo Mạnh Tử, bản tính tự nhiên của con người là thiện (nhân chi sơ,
tính bản thiện). Con người có lịng trắc ẩn thì tự nhiên có lịng tu ố (biết xấu
hổ), từ nhượng (nhường nhịn), thị phi (biết phải trái).
Lòng trắc ẩn là Nhân, lòng tu ố là Nghĩa, lòng từ nhượng là Lễ, lòng thị
phi là Trí. Nhân - lễ - nghĩa - trí là 4 “đầu mối” trong tâm ta. Con người có
thể thành ác vì khơng biết “tồn tâm”, “dưỡng tính”, để cho vật dụ dỗ chi
phối mà chạy theo lợi ích cá nhân.


2.2.

Quan niệm về vua - tôi – dân
Mạnh Tử cho rằng Thiên tử là do mệnh trời trao cho thánh nhân và vận
mệnh trời nhất trí với ý dân. Trời ngấm ngầm trao quyền cho người có đức,
hợp lịng dân. Quan hệ vua - tôi là quan hệ hai chiều: “Vua coi bầy tơi như
chân tay thì bầy tơi coi vua như ruột thịt, vua coi bầy tơi như chó ngựa thì
bầy tơi coi vua như người dưng, vua coi bầy tơi như cỏ rác thì bầy tơi coi
vua như cừu địch”.
Tiến thêm một bước, ông cho rằng: Nếu vua không ra vua thì phải loại
bỏ, vua mà tàn ác thì phải gọi là thằng (“Ta phải hiểu là giết thằng Trụ chứ
không nên hiểu là giết vua vậy”. Mạnh Tử đề xuất tư tưởng “nhường ngơi”
(thiện nhượng). Thiên tử có thể nhường ngôi cho vua chư hầu, căn cứ vào
đức hạnh và khả năng thực hành nhân chính của ơng ta.
Mạnh Tử là người đầu tiên đưa ra luận điểm tôn trọng dân: “Dân là quý
nhất, là quốc gia đứng thứ hai, vua là không đáng trọng”. Nhưng dân ở
đây chỉ là thần dân, kẻ phụ thuộc, bị thống trị. Coi trọng dân chỉ là thủ đoạn
chính trị để thống trị tốt hơn mà thôi.

2.3.

Quan niệm về quân tử - tiểu nhân
Quân tử là hạng người lao tâm, cai trị người và được cung phụng. Tiểu
nhân là hàng người lao lực, bị cai trị và phải cung phụng người. Mạnh Tử để
xuất chủ trương “thượng hiền”, dùng người hiền tài để thực hành “nhân
chính”. Trị nước là nghề cao quý và quan trọng nhất, nên người cai trị phải
9


được tuyển chọn công phu chu đáo. Nhưng bất đắc dĩ mới để cho có ngoại

lệ “kẻ hèn vượt người tôn quý”.
2.4.

Chủ trương vương đạo
Mạnh Tử kịch liệt phản đối “bá đạo (chiến tranh, bạo lực), nguồn gốc
của mọi rối ren, loạn lạc. Chính trị “vương đạo” là nhân chính, lấy dân làm
gốc. Vương đạo chỉ nhằm vào nhân nghĩa để mỗi người “tự nuôi lấy bản
thân mà chờ số mệnh” thì thiên hạ sẽ bình n vơ sự. Mn tâm trí dân ổn
định khơng làm loạn thì phải tạo điều kiện cho họ có một mức sống vật chất
tối thiểu. Thực chất của “Vương đạo” là người cai trị phải giáo dục dân
tuyệt đối phục tùng bề trên, thực hiện “tam cương, ngũ thường”, trói buộc ý
thức nơng dân và luân lý Nho giáo để dễ bề cai trị họ.

Học thuyết “Nhân chính” của Mạnh Tử có nhiều nhân tố tiến bộ hơn so với
Khổng Tử. Tuy vẫn đứng trên lập trường của giai cấp thống trị nhưng ông đã nhìn
thấy được sức mạnh của nhân dân, chủ trương thi hành nhân chính, vương đạo. Đó là
những yếu tố dân chủ tiến bộ. Điểm hạn chế của ông là cịn tin vào mệnh trời và tính
thần bí trong lý giải vấn đề quyền lực.
3. Tư tưởng về nhà nước, quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước
với dân
3.1.

Tư tưởng về nhà nước và quyền lực nhà nước
Thời Xuân thu - Chiến quốc là một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử Trung
Quốc (thế kỷ VII - thế kỷ III Tr.CN). Đó là thời đại quá độ từ chế độ chiếm
hữu nô lệ kiểu phương Đông sang chế độ phong kiến. Ăngghen đã khẳng
định: Các công xã cổ, ở nơi nào chúng vẫn tiếp tục tồn tại, thì từ hàng nghìn
năm nay đều cấu thành cái cơ sở của hình thức nhà nước thơ sơ nhất, tức là
chế độ chuyên chế phương Đông.
Trong điều kiện phương Đông cổ đại, bộ máy chính phủ như Mác chỉ ra

gồm ba bộ chính:

-

Bộ quốc phịng có chức năng cướp bóc các dân tộc khác.

-

Bộ tài chính để bóc lột dân sở tại.
10


-

Bộ công vụ đảm nhiệm việc xây dựng và phục vụ có liên quan đến nơng
nghiệp.
Tất cả điều này đã quyết định sự ra đời một hình thức nhà nước đặc biệt
- nhà nước chuyên chế phương Đông với sự tập trung quản lý rộng lớn,
trong đó mọi quyền lực đều tập trung trong tay một nhà chuyên chế. Nho
giáo ra đời trên cơ sở tổ chức chính trị xã hội đặc biệt đó. Vì vậy tư tưởng về
nhà nước, quyền lực nhà nước của Nho giáo biểu hiện rõ nét ở chỗ đề cao
vai trị của ơng vua chun chế.
Theo Nho giáo, con người sống không thể tách rời nhau mà có mn
ngàn quan hệ gắn bó với nhau trong phạm vi những cộng đồng nhất định.
Các cộng đồng đó là nhà (gia), nước (quốc) và thiên hạ. Đương nhiên ngồi
phạm vi nhà và từ nhà đến nước cịn có hương, quận, châu. Nho giáo cố ý
đồng nhất ba thực thể nhà, nước, thiên hạ theo nguyên lý bao quát. Thiên hạ
gốc ở nước, nước gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình. Rõ ràng Nho giáo coi
"nước" chỉ là sự mở rộng của nhà. Do nước và nhà chung nhau một gốc, cho
nên nhiều khi Nho giáo dùng phạm trù quốc và gia đồng nhất với nhau. Nho

giáo coi mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa nhà và nước là thiêng liêng và
sáng tỏ mn đời. Nói lên mối quan hệ ấy, Khổng Tử đã nhấn mạnh: muốn
trị quốc trước hết phải tề gia. Nước thành ra là vật sở hữu của một số người
có đức sáng, được mệnh trời, giỏi tề gia. Những hiền nhân quân tử đi từ tề
gia đến trị quốc có cương vị đứng đầu cả nhà và nước thì được Khổng Tử
xác nhận là kẻ có nước, có nhà hoặc là những kẻ có quốc gia để cai trị. Từ
bậc thang “tề gia” đi lên, thế lực mạnh nhất, có uy tín và quyền lực lớn nhất
trong giai cấp chiếm hữu tư liệu sản xuất dần dần trở thành kẻ trị quốc. Con
đường đi từ nhà đến nước như vậy được Nho giáo cho là đúng đắn, hợp với
đạo trời đất, đạo của người. Nhà và nước gắn với nhau, lồng vào nhau. Nước
mà Nho giáo nói ở đây khơng chỉ là đất nước mà còn được hiểu là nhà nước.
Nhà nước thời đó - thời có thiên tử và chư hầu cịn có tên gọi tiêu biểu là
triều đình và triều - thuộc quyền chuyên chế của cá nhân vua cùng với gia
tộc nhà vua.

11


Nho giáo quan niệm rằng đã là xã hội thì tất phải có quyền tối cao để giữ
kỷ cương xã hội. Quyền ấy gọi là quân quyền. Người giữ quân quyền gọi là
đế hay vương (vua). Vua phải lo việc trị nước, tức là lo sự sinh hoạt, dạy dỗ
và mở mang dân. Là người chủ đất nước, nhà vua Nho giáo thống trị với
một quyền uy tối thượng. Nhà vua điều hành mọi công việc của Nhà nước,
sử dụng và bãi chức đối với toàn thể giới quý tộc và quan lại. Nho giáo nhắc
nhở rằng: Dưới gầm trời không chỗ nào chẳng phải đất của nhà vua, trên
mặt đất không người nào chẳng phải bề tôi của vua. Với tư cách là người
chủ đất đai, nhà vua chỉ đạo việc sử dụng đất đai, quyết định mức thuế và sự
đóng góp của nhân dân. Nắm kho tàng của Nhà nước, quản lý tồn bộ ngân
khố và thóc, nhà vua là người ban ơn cho toàn thể nhân dân, được mọi
người phục tùng một cách tuyệt đối. Như vậy quyền uy của nhà vua là tuyệt

đối. Quyền uy ấy thể hiện trên mọi lĩnh vực. Nhà vua vừa là người trực tiếp
quản lý kinh tế, tổ chức hành chính, thực hiện pháp luật, chỉ huy quân sự,
giáo dục đạo đức và đứng đầu tôn giáo.
Để quản lý lãnh thổ rộng lớn, nhà vua sắp xếp một bộ máy quan liêu từ
Trung ương đến địa phương. Lúc đầu bộ máy nhà nước bao gồm những quý
tộc thuộc dòng họ vua. Sau đó các quan chức triều đình được tuyển lựa
trong hàng ngũ Nho sĩ đã qua các kỳ thi. Dùng bộ máy quan liêu, lựa chọn
khoa cử và đội quân thường trực, ơng vua chun chế đã tìm ra phương án
tối ưu để nắm giữ quyền lực. Nho giáo từ trước đến sau luôn đề cao và bảo
vệ danh nghĩa, thế lực của ơng vua chun chế đó. Để cho "chính" các
"danh" của người nắm quân quyền, Nho giáo chủ trương theo thuyết Thiên
mệnh. Thuyết này coi trời là cha chung, ngôi vua được trời lựa chọn, giao
cho cai quản đất nước và thần dân. Vua cũng là cha chung. Do mệnh trời mà
có mệnh vua. Nhưng Nho giáo cũng nhấn mạnh: mệnh trời không phải cho
mãi một người, ai làm điều lành thì được, điều ác thì mất. "Duy mệnh bất
vu thường, đạo thiện tắc đắc chi, bất thiện tắc thất chi hỹ". Vì vậy, người
làm đế vương tuy quyền uy rất to, thế lực rất mạnh, nhưng không được lạm
dụng quyền ấy để làm điều tàn bạo.

12


Thuyết "Thiên mệnh" với phương châm an phận theo địa vị của mình,
khơng mong gì ở bên ngồi đã đè nặng lên đời sống tinh thần, của dân tộc
Trung Hoa và các dân tộc tôn sùng Nho giáo suốt nhiều thế kỷ. Đây cũng là
một trong những nguyên nhân làm cho tơn ti, trật tự phong kiến duy trì q
lâu, triệt bỏ sức vươn lên của con người. Tuy nhiên, có thể thấy tư tưởng tơn
qn, thuyết Thiên mệnh đã đáp ứng được đòi hỏi bức thiết của lịch sử
Trung Hoa thời bấy giờ, đó là thống nhất dân tộc, xây dựng chính quyền
Trung ương tập quyền.

3.2.

Tư tưởng về dân và mối quan hệ giữa dân với nhà nước

3.2.1. Tư tưởng về dân
Tư tưởng về dân của Nho gia được hình thành rất sớm, trải qua quá trình
đấu tranh gay gắt với Mặc gia và Pháp gia, được ổn định và được chế độ
chuyên chế thừa nhận làm đạo lý, làm tinh thần lập pháp.
Khái niệm “dân” theo Khổng Tử bao gồm: sĩ, nông, công, thương. Sự
phân chia này không dựa trên tiêu chuẩn sở hữu mà theo ngành nghề. Đây
cũng là bậc thang giá trị xã hội. Nó phản ánh một nền kinh tế tiểu nơng khép
kín, tự cấp tự túc, công th ương nghiệp chưa phát triển.
Khái niệm “dân” của Mạnh Tử lại gồm: kẻ sĩ, người cày ruộng, người
buôn bán và người đi đường. Kẻ sĩ là trí thức, muốn theo đuổi địa vị để
kiếm bổng lộc, người bn bán và người đi đường thì phần đơng là thương
nhân kiêm địa chủ. Còn hạng mà Mạnh Tử gọi là "người cày ruộng" thực ra
khơng cịn là nhà nơng mà chủ yếu là bọn địa chủ mới có nông sản đem bán.
Cho nên khái niệm dân của ông chủ yếu là hạng trí thức, địa chủ và thương
nhân.
Như vậy theo quan niệm của Nho giáo, dân thông thường là những
người khơng có địa vị gì, cơng vụ gì trong bộ máy thống trị, cũng có khi bao
gồm cả mọi người trong một nước, trong thiên hạ nói chung. Trong kinh
điển Nho gia, ta còn gặp những danh từ như: "Thứ dân", "lê dân", "thảo
dân", "xích tử", "thương sinh" cũng là để chỉ đông đảo người dân lao động.
13


3.2.2. Mối quan hệ giữa dân với nhà nước
Trong mối quan hệ với nhà nước, quyền lực nhà nước mà người đứng
đầu là vua, dân có vai trị rất lớn. Nho giáo đã sớm nhận thức được vai trò

của dân tới sự tồn vong của triều đình. Trong ba yếu tố để triều đình bền
vững thì dân là yếu tố quyết định. Ba yếu tố đó là: đất đai, nhân dân và
chính sự. Về chính sự, Nho giáo lại nhấn mạnh ba điểm: túc thực, túc binh,
dân tín (nghĩa là lương thực phải đủ để nuôi dân, binh lực phải mạnh để bảo
vệ dân, lịng tin của dân, trong đó lịng tin của dân là điều quyết định nhất).
Khơng phải ngẫu nhiên và tùy tiện mà Nho giáo đi tới chỗ coi dân là
trời: “Vua lấy dân làm trời”. Lịch sử cho thấy mặc dù vua là “thiên tử”, là
“đấng chí tơn” vâng mệnh trời để bình thiên hạ, là cha của muôn nhà, mẹ
của muôn dân, là kẻ chăn người (nhân mục), nhưng vua cũng chỉ là một con
người. Dân rất hiền lành, những thảo dân, lê dân, xích tử hiền như nước
nhưng lại có sức mạnh to lớn. Vua chúa muốn sống được phải nhờ đến dân.
Dân “lao lực” làm ra lương thực, vua chúa “lao tâm” để trị người thì phải ăn
của người, cụ thể là ăn ở dân, do dân nuôi. Nếu áp bức dân tàn bạo để dân
phải vùng lên thì vua - người nắm giữ trong tay quyền lực nhà nước chỉ đi
tới chỗ diệt vong.
Mạnh Tử đã nêu lên một quan điểm nổi tiếng về mối quan hệ giữa vua,
xã tắc và dân: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Đây là tư tưởng
tiến bộ, đặc biệt là đối với một xã hội mấy ngàn năm sống dưới sự ngự trị
của các triều vua. Đem dân ra cân nhắc với vua, nêu rõ vai trò của dân trong
thời loạn lạc, khẳng định dân là quý, Mạnh Tử đã thể hiện rõ tư tưởng lấy
dân làm gốc của mình. Mạnh Tử và các nhà Nho đều mong muốn có một
cuộc sống hữu đạo, một cảnh nước thịnh trị và thiên hạ thái bình với những
quan hệ tốt đẹp giữa người và người. Trong phạm vi cả nước, cả thiên hạ,
mối quan hệ được nêu lên trước hết là mối quan hệ “quân thần”. Quan hệ
giữa vua với dân là phần mở rộng của mối quan hệ ấy.

14


Mạnh Tử cho rằng, quan trọng nhất là được dân hay mất dân, mà sở dĩ

được dân là vì được lịng dân và mất dân là vì mất lịng dân. Ơng so sánh và
giải thích rằng: được lịng dân thì làm đến ngơi thiên tử; được lịng thiên tử
chẳng qua làm đến chư hầu; được lòng với vua chư hầu chẳng qua làm đến
quan đại phu; vua Kiệt, vua Trụ mất thiên hạ vì mất dân, mất dân là vì mất
lịng dân. Chính vì vậy, Mạnh Tử rất chú trọng đến dân. Ông yêu cầu những
người cầm quyền phải biết lo đến hạnh phúc của dân, cùng dân hưởng phú
quý, cùng dân chịu sự lo lắng, như thế dân sẽ một lòng một dạ đi theo:
“Người vui cái vui của dân, thì dân cũng vui cái vui của mình; người lo cái
lo của dân thì dân cũng lo cái lo của mình. Vì thiên hạ mà vui, vì thiên hạ
mà lo, thế mà khơng làm vương thì chưa có vậy”.
Ơng coi trọng việc cải thiện đời sống của dân là “điều gốc”, là trách
nhiệm của người cầm quyền: “Đáng minh quân chế định tài sản của dân, ắt
là khiến cho ngửng lên đủ thờ cha mẹ, cúi xuống đủ nuôi vợ con, năm được
mùa thì no ln, năm mất mùa không đến nỗi chết. Được như thế rồi mới
bắt dân làm điều lành, thì dân làm điều lành dễ lắm”.
Đề cập tới quan điểm này của Mạnh Tử, nhiều người cho rằng, Mạnh Tử
đã đi trước các nhà tư tưởng của cách mạng dân chủ tư sản Anh, Pháp gần
2000 năm. Không thể phủ nhận quan điểm về dân của Mạnh Tử có nhiều
tiến bộ, nhưng nếu đứng trên lập trường giai cấp mà xét thì ơng khơng có tư
tưởng dân chủ thực sự. Mặc dù Mạnh Tử đã thực sự dũng cảm khi nói: “dân
vi q”, nhưng khơng có nghĩa là ơng có tư tưởng đấu tranh cho nhân dân
làm chủ đất nước, làm chủ sơn hà xã tắc, làm chủ vận mệnh của mình. Kể cả
khi ơng chủ trương một nền chính trị được lịng dân, quan tâm đến dân để
làm cho "dân có hằng sản", từ đó “có hằng tâm” thì cũng khơng ngồi mục
đích điều hịa mâu thuẫn giai cấp giữa giai cấp thống trị và nhân dân.
Khổng Tử khi nói về dân và chính sách trị dân đã nhấn mạnh các điều:
dưỡng dân, giáo dân và chính mình; trong đó dưỡng dân là yếu tố quan
trọng. Bất kỳ chính thể nào, nhà cầm quyền nào cũng phải coi trọng việc
15



dưỡng dân. Nếu khéo dưỡng dân thì nước trị, nhà cầm quyền được dân quý,
ngược lại thì nước loạn, dân sẽ bỏ đi nơi khác hoặc nổi loạn, chính quyền
sớm muộn cũng bị lật đổ. Dưỡng dân để làm cho dân no đủ, giàu có; đánh
thuế nhẹ dân; khiến dân làm việc hợp thời; phân phối bình qn để dân
khơng bị bóc lột mà được no đủ.
Điều đó cho thấy Nho giáo đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của dân
đối với nhà nước và quyền lực nhà nước, song họ đã không vượt qua được
hạn chế về mặt giai cấp và thời đại, do đó đối với Nho giáo khơng có tư
tưởng dân chủ thực sự, tất cả đều nhằm nắm chặt lấy dân để dễ bề sai khiến,
cai trị.
Mặc dù vậy, tư tưởng của Nho giáo về dân, về mối quan hệ giữa dân với
quyền lực nhà nước vẫn hàm chứa nhiều giá trị mà người cầm quyền xưa và
nay khơng thể khơng chú ý. Đó là:
-

Phải biết tranh thủ dân và nắm lấy dân.
Dân là quý, dân như nước, vừa chở thuyền vừa lật thuyền, cho nên muốn
làm vua chúa, muốn cầm quyền thì phải tranh thủ dân và nắm lấy dân.
Tranh thủ được dân chúng thì làm thiên tử, được dân là được cả thiên hạ.
Người làm vua phải theo lòng dân, phải thuận lịng dân, phải biết thích cái
thích của dân, ghét cái ghét của dân. Người cầm quyền theo lòng dân mà trị
tất sẽ được dân yêu mến.

-

Giữ gìn sinh mệnh và dè xẻn tài sản của dân.
Người cầm quyền phải biết sử dụng sức người, sức của cho phù hợp tránh
sự lạm dụng, phí phạm sức dân và tài sản của dân. Có như vậy lịng dân
mới n, xã tắc mới bền vững.


16


* Câu chuyện bên lề:
Tư tưởng của Nho giáo về vai trị của dân sau này được chính các vị anh hùng
dân tộc Việt Nam kế thừa, cải biến và sáng tạo phù hợp với đất nước.
Trên thực tế, các khái niệm có hình thức Khổng giáo nhưng nội dung bên trong
lại chứa đựng tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng và tâm lý Việt Nam.
Thời Lý - Trần, sự quan tâm đến đời sống và nguyện vọng của nhân dân được
xem là việc hàng đầu của đạo trị nước, “ý dân”, “lịng dân” đã trở thành căn cứ, mục
đích cho những chủ trương chính trị lớn.
“Chiếu dời đơ” nổi tiếng của Lý Công Uẩn đã khẳng định: “Trên vâng mệnh
trời, dưới theo ý dân, thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong
tục phồn thịnh”.
Năm 1300, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn trước khi mất hai tháng đã
tâu với vua Trần Anh Tông rằng: “Thời bình, phải khoan thư sức dân để làm kế sâu
rễ bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước”. Đức Thánh Trần đã nhìn rõ nhân dân chính
là nơi chứa chất tiềm lực về kinh tế và quốc phòng, bảo đảm cho sự vững chắc của nền
độc lập và chủ quyền đất nước.

17


CHƯƠNG III.
ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TỚI VĂN HÓA VIỆT NAM
Vấn đề Nho giáo trong văn hóa Việt Nam đã được đem ra bàn luận rất nhiều.
Các nhà nghiên cứu Nho giáo thời trước có Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim, Đào Duy
Anh, Dương Quảng Hàm, Ngô Tất Tố, Nguyễn Duy Cần, Kim Định... Gần đây hơn có
Cao Xuân Huy, Trần Văn Giàu, Trần Đình Hượu, Quang Đạm, Trịnh Dỗn Chính,...

Trước hết phải xem xét tác động qua lại giữa Nho giáo với các hoạt động văn
hóa tinh thần và với các thuộc tính của chủ thể văn hóa Việt Nam.
1. Những tác động tích cực của Nho giáo đối với văn hóa Việt Nam
Tính từ khi bắt đầu du nhập cho đến lúc suy vong, Nho giáo đã có lịch
sử 1900 năm truyền bá ở Việt Nam. Thời Bắc thuộc, trong những thế kỷ đầu
công nguyên, các quan cai trị người Hán như Tích Quang (1 - 5), Nhâm Diên
(29 - 33), Sĩ Nhiếp (187 - 226), Đỗ Tuệ Độ (đầu thế kỷ V),... đã ra sức truyền bá
Nho giáo ở Giao Châu. Cũng trong thời kỳ này, các đoàn người Hán di thực và
tị nạn nối tiếp nhau kéo xuống Giao Châu, mang theo văn hóa Hán.
Tuy nhiên, đây là thời kỳ mà văn hóa Việt - Mường đã đạt tới những
thành tựu đỉnh cao, có sức mạnh văn hóa nội tại, và có khả năng chọn lọc,
chuyển hóa những yếu tố văn hóa mới du nhập để bồi bổ cho sức mạnh văn hóa
nội tại của mình. Trong khi đó, Nho giáo là cơng cụ củng cố thể chế nhà nước
của quân xâm lược. Vì vậy, trải qua cả nghìn năm, Nho giáo vẫn khơng thâm
nhập được vào văn hóa Việt - Mường. Cư dân Việt - Mường vẫn bảo tồn được
văn hóa dân tộc.
Phải đến thời kỳ tự chủ, từ thế kỷ XI trở đi, Nho giáo mới được Nhà
nước phong kiến chú trọng đề cao. Để xây dựng, hoàn thiện thể chế nhà nước,
giai cấp phong kiến đã tìm thấy ở Nho giáo những lợi khí mà Phật giáo và Đạo
giáo đương thời khơng có: sự thần bí hóa vương quyền, sự thiêng liêng hóa
quan hệ quân thần, những chuẩn mực và nội dung đào tạo quan lại thích hợp để
nối dài cánh tay quyền lực của nhà vua. Đến thời Hậu Lê, Nho giáo vươn lên
chiếm địa vị độc tơn trong văn hóa cung đình, đẩy Phật giáo và Đạo giáo xuống
18


hàng tơn giáo dân gian. Nhưng Nho giáo có vị trí hàng “Quốc giáo” thật sự ở
triều Nguyễn, một triều đại tập quyền tuyệt đối và triệt để khai thác đạo lý tam
cương, ngũ luân của Nho giáo để bảo vệ tôn ti quân thần và quyền thống trị
vĩnh viễn của tông tộc nhà vua. Trên đỉnh cao quyền lực, Nho giáo đã phát tác

tối đa sức mạnh kìm hãm của nó, trở thành ngun nhân sâu xa của tình trạng
loạn lạc và trì trệ kéo dài suốt thế kỷ XIX cho đến khi mất nước về tay Pháp. Từ
đầu thế kỷ XX, cùng với sự suy tàn của nhà nước phong kiến và giai cấp phong
kiến, Nho giáo đã khơng cịn là ý thức hệ chính thống và cũng khơng cịn đóng
vai trị một tơn giáo chính thống điều chỉnh hành vi và đạo đức như trước nữa.
Sự đột khởi của phong trào Duy Tân - Đông Du (1905 - 1908) đã đóng cây đinh
cuối cùng vào nắp quan tài của Nho giáo ở Việt Nam.
Điểm sơ qua như vậy, có thể thấy rằng, giai cấp phong kiến Việt Nam
thượng tôn Nho giáo không chỉ do nhu cầu xây dựng quốc gia, mà cịn vì và
chủ yếu là vì Nho giáo có ích đối với việc cai trị nhân dân. Vì vậy, tuy có lúc
thăng lúc trầm, nhưng bao giờ Nho giáo cũng là chiếc phao chống đắm của các
triều đại phong kiến Việt Nam, kể từ khi vua Lý Thánh Tông dựng Văn Miếu ở
Thăng Long năm 1070, cho đến khi triều đình Huế ký Hịa ước Q Mùi (năm
1883) giao chủ quyền quốc gia cho Pháp.
Do sự truyền bá chủ động và kiên trì của giai cấp phong kiến, trong thời
trung đại, Nho giáo đã thẩm thấu vào một một bộ phận của chủ thể văn hóa Việt
Nam là giai cấp quý tộc, quan lại và tầng lớp nho sĩ, quan viên. Nho giáo cũng
bén rễ vào một bộ phận văn hóa tinh thần của xã hội, làm hình thành dịng văn
hóa quan phương chính thống bên cạnh các hoạt động văn hóa tinh thần của dân
gian. Bằng cách đó, văn hóa tinh thần của Việt Nam đã bị Hán hóa một phần.
Cũng bằng cách đó, Nho giáo đã được Việt hóa một phần trong q trình thâm
nhập vào văn hóa Việt Nam.
Do tác động từ Nho giáo nên sự phân hóa xã hội ở Việt Nam thêm sâu
sắc, chủ thể văn hóa Việt Nam bị chia đơi; hình thành tầng lớp nho sĩ, giai cấp
q tộc, quan lại theo hình mẫu Nho giáo, tồn tại bên cạnh các giai cấp, tầng
lớp sẵn có của xã hội Việt Nam xưa (nông dân, thợ thủ công, thương nhân).
19


Tầng lớp nho sĩ và quan lại ấy có trách nhiệm kinh bang tế thế, trị quốc an dân,

và tùy theo thời thế mà chọn lựa cách ứng xử, xuất và xử, hành và tàng. Còn
các giai cấp, tầng lớp lao động thì có trách nhiệm bảo đảm nhu cầu vật chất cho
các giai cấp, tầng lớp bên trên và cho bản thân mình.
Lịch sử Việt Nam có rất nhiều nhà nho có phẩm hạnh, khí tiết cao cả,
như Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Võ
Trường Toản, Ngơ Tùng Châu, Trịnh Hồi Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân
Tĩnh, Nguyễn Công Trứ, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Đình
Chiểu, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Huy Đức, Nguyễn Thức Tự, Khiếu Năng
Tĩnh, Trần Đình Phong, Lương Văn Can, Phan Bội Châu, Đặng Nguyên Cẩn,
Ngô Đức Kế, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp,... Những
nhà nho này, dù lúc bình thời hay khi vận nước gian nan, vẫn tỏ rõ khí tiết và
phẩm hạnh, đồng thời có thái độ và hành động vì nước, vì dân.
Trong các hoạt động văn hóa, Nho giáo tác động chủ yếu vào các hoạt
động văn hóa tinh thần. Ở cấp độ gia đình, Nho giáo phối hợp với văn hóa Hán
làm hình thành chế độ gia đình phụ hệ đi đơi với nam quyền cực đoan, tồn tại
song hành với truyền thống trọng nam đi đôi với trọng nữ của văn hóa dân gian.
Trong gia đình, gia tộc, quốc gia, Nho giáo trực tiếp làm hình thành chế độ tơng
pháp, trao quyền thừa kế, thừa tự cho con trai trưởng chính dòng, song hành với
tập quán trao quyền thừa kế, thừa tự cho con trai út của dân gian. Trên bình diện
quốc gia, Nho giáo là cơ sở làm hình thành tổ chức nhà nước của Đại Việt, bao
gồm hệ thống hành chính, tổ chức quân sự, quan chế, lương bổng... mô phỏng
Trung Hoa, tồn tại song hành với tổ chức cộng đồng cấp làng quê ra đời từ thời
Văn Lang - Âu Lạc.
1.1.

Về tín ngưỡng
Nhà nho Việt Nam coi Nho giáo như là tơn giáo; gạt bỏ, bài xích
các tơn giáo khác ngoại trừ những nội dung được Nho giáo chấp nhận và
khuyến khích, như lịng tin vào thiên mệnh, việc tế lễ, việc thờ cúng tổ
tiên... Vì vậy, trong Nho giáo là tôn giáo của đàn ông người Việt, bên

cạnh các tôn giáo dành cho các bà các cô như đạo Phật, đạo Mẫu...
20


1.2.

Về phong tục
Sự tác động của Nho giáo và văn hóa Hán đã làm Hán hóa một
phần các phong tục vịng đời, đặc biệt là phong tục hơn nhân, phong tục
tang ma. Trong thời trung đại, các phong tục này đều lấy hình mẫu của
Nho giáo và văn hóa Hán làm chuẩn mực. Chính vì vậy mà cho đến ngày
nay, vẫn cịn nhiều người viết sách mơ tả các phong tục và nghi thức ấy
trong văn hóa Việt Nam hiện đại như thể chúng là bản sao của phong tục
Trung Hoa trung đại! Thật ra, bên cạnh các phong tục hơn nhân, phong
tục tang ma theo hình mẫu của Nho giáo và văn hóa Hán trước đây,
người Việt ở các vùng miền khác nhau và các tôn giáo ở Việt Nam đều
có cách thức riêng để thực hiện các phong tục ấy.

1.3.

Trong giáo dục
Nho giáo là cơ sở hình thành hệ thống giáo dục chính thống của
Việt Nam trung đại ở bốn cấp kinh đô - tỉnh/đạo - phủ - huyện/châu, và
chế độ thi tuyển gồm bốn cấp khảo hạch - thi Hương - thi Hội - thi Đình,
để đào tạo ra quan lại nhà nước, quan viên làng xã. Hệ thống giáo dục
chính thống này tồn tại song hành với mạng lưới giáo dục dân gian trong
gia đình, làng xóm, làng nghề, nhằm giáo dục cách ứng xử với gia đình,
cha mẹ, ơng bà, tổ tiên, họ hàng, làng xóm, thần linh... Trong lịch sử 844
năm khoa cử Hán học ở Việt Nam (1075 - 1919), nền giáo dục Nho giáo
đã tạo ra hàng nghìn ơng Nghè, ơng Cử, ông Tú mà trong số đó nhiều

người đã nổi lên thành nhà văn hóa hay nhà khoa học, như nhà sử học Lê
Văn Hưu, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi, nhà sử học Ngô Sĩ
Liên, Trạng Lường Lương Thế Vinh, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, nhà bác học Lê Quý Đôn, thi hào
Nguyễn Du, nhà bác học Phan Huy Chú…

1.4.

Về văn học và nghệ thuật
Nho giáo đã góp phần làm hình thành các thể văn khoa cử (kinh
nghĩa, chiếu, biểu, luận, văn sách, thơ, phú...), các thể loại văn học mô
phỏng Trung Hoa (thơ Đường luật, phú, từ, đối...), các điển tích văn học,
các sách giáo khoa truyền thụ Nho giáo, các tác phẩm văn học và nghệ
21


thuật chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Những sản phẩm ấy làm thành dịng
văn học nghệ thuật quan phương chính thống, tồn tại song hành với dòng
văn học dân gian, nghệ thuật dân gian.
1.5.

Về ngơn ngữ và văn tự
Q trình tiếp biến văn hóa Hán nói chung, Nho giáo nói riêng đã
để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ và chữ viết ở Việt Nam. Về ngữ
âm, tiếng Việt, tiếng Mường đã biến đổi các phụ âm cuối, hình thành
thanh điệu và rơi rụng các âm tiết phụ của thời Mơn - Khơme; riêng
tiếng Việt hiện đại cịn rơi rụng các tổ hợp phụ âm đầu. Về ngữ pháp,
tiếng Việt, tiếng Mường đã rơi rụng các phụ tố tạo từ của thời Môn Khơme; riêng tiếng Việt hiện đại cịn hình thành các phụ tố tạo từ gốc
Hán - Việt, và mượn nhiều cách diễn đạt của tiếng Hán.
Về từ vựng, trong tiếng Việt, tiếng Mường đều có nhiều yếu tố

gốc Hán; riêng tiếng Việt có đến 70% từ gốc Hán. Hiện nay, tiếng Việt
đang sử dụng một bộ phận từ vựng gốc Hán có số lượng và tần suất sử
dụng rất lớn. Bộ phận từ vựng gốc Hán này bao gồm hầu hết các bình
diện văn hóa mà cư dân Việt chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán, trong đó
ảnh hưởng rõ rệt nhất là các hoạt động văn hóa tinh thần: cách thức tổ
chức xã hội cổ truyền (con người, họ tên, quan hệ thân tộc, tổ chức hành
chính, tổ chức quân sự, bộ máy quan lại...); tín ngưỡng, phong tục, lễ hội
(tín ngưỡng, tơn giáo, giáo dục, khoa cử, phong tục vòng đời, lễ hội...);
văn học, nghệ thuật (thuật ngữ, các thể văn hành chính và khoa cử, các
thể loại văn học bác học, một số loại hình sân khấu...); ngơn ngữ (đặt địa
danh, vay mượn và sao phỏng từ ngữ, cấu tạo từ mới từ các yếu tố gốc
Hán...).
Q trình tiếp biến văn hóa Hán và Nho giáo trong ngôn ngữ ấy
tồn tại song hành với quá trình bảo tồn ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng gốc
Môn - Khơme, và tiếp biến các ngôn ngữ Tày, Chăm, Hoa, Khơme, Pháp
trong tiếng Việt.
Về văn tự, chữ Hán là văn tự chính thức của Việt Nam trong suốt
thời phong kiến tự chủ, và vì là phương tiện chuyên dùng chuyển tải Nho
22


×