Triết học nâng cao
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trung Quốc là một trung tâm văn minh cổ của nhân loại; một cái nôi văn hóa
lớn, rực rỡ và phong phú nhất của nền văn minh phương Đông. Từ thế kỷ VI - V trước
Công nguyên, Nho giáo đã ra đời từ đây. Từ đời Hán (TK II trước CN đến TK II sau
CN), học thuyết này được truyền bá sang Việt Nam. Và dần dần, Nho giáo đã lan rộng
và khẳng định được vị trí của mình trong tiến trình phát triển chung của lịch sử tư
tưởng nhân loại.
Đặc biệt, ở các nước Đông Á, cùng với Nho giáo, trong đời sống tinh thần còn
có các tín ngưỡng bản địa, các tôn giáo, học thuyết khác mà đáng kể nhất, và bao giờ
cũng có là bộ ba: Nho, Phật, Đạo, gọi chung là Tam giáo. Đạo giáo, nhất là Phật giáo,
có ảnh hưởng khá lớn trong nhân dân, đôi khi lớn hơn cả Nho giáo. Nhưng trong
chính trị, trong học thuật, Nho giáo bao giờ cũng giữ địa vị chi phối. Nhà Đường ở
Trung Quốc tự nhận là con cháu Lão Tử, ông tổ của Đạo gia. Nhà Lý ở Việt Nam,
xuất thân từ nhà chùa lên ngôi vua; Nhật hoàng ở Nhật Bản, vốn coi Thần Đạo là tôn
giáo thờ tổ tiên của Thiên hoàng song cũng đều dựa vào Nho giáo trong việc trị nước.
Với khoảng hơn 2000 năm du nhập vào nước ta, từng là hệ tư tưởng thống trị
trong kiến trúc thượng tầng Việt Nam, Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến con người
và xã hội, chính trị và văn hóa, cuộc sống và lẽ sống, hệ tư tưởng và phong tục tập
quán Việt Nam. Nho giáo trở thành một bộ phận của truyền thống dân tộc, một phần
quan trọng trong kho tàng di sản văn hoá Việt Nam. Trên đất Thăng Long - Hà Nội
xưa, không chỉ có Văn Miếu - Quốc Tử Giám được xây dựng để thờ Khổng Tử, các
bậc Tiên thánh, Tiên nho, mà hầu như làng nào, xã nào cũng lập văn chỉ thờ Khổng
Tử và các bậc khoa hoạn của địa phương, bên cạnh đó còn có rất nhiều các nhà thờ
các dòng họ khoa bảng, các vị tiến sĩ. Do đó, không thể phủ nhận được tư tưởng của
Nho giáo cũng như ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam.
Nho giáo là vấn đề quá khứ nhưng cũng là vấn đề hiện tại. Dù muốn hay
không, tư tưởng của Nho giáo vẫn phần nào đang chi phối xã hội, con người Việt
Nam. Đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kết
Nhóm 2_CH20A 1
Triết học nâng cao
hợp với thực tiễn ở nước ta, việc nghiên cứu Nho giáo để nhìn nhận, đánh giá rõ hơn
những yếu tố không còn phù hợp, những phản giá trị cần gạt bỏ, đồng thời kế thừa
những tinh hoa của Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay, có ý nghĩa
quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn. Đồng thời, nghiên cứu Nho giáo và ảnh
hưởng đối với Việt Nam là nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng nhân
cách, tư duy con người và phát triển xã hội Việt Nam trong tương lai. Do vậy, xuất
phát từ những vấn đề trên, nhóm chọn đề tài “Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo
đối với Việt Nam”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu có hệ thống về Nho giáo cùng các tư tưởng
cơ bản của Nho giáo. Đó là sẽ là những cơ sở để cung cấp cái nhìn tổng thể và toàn
diện về ảnh hưởng của Nho giáo đối với nước ta từ xưa đến nay. Qua đó, chúng ta có
thể đánh giá những yếu tố phù hợp hay không phù hợp của Nho giáo trong sự nghiệp
phát triển đất nước.
Với mục đích trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Một là, tìm hiểu về những tư tưởng Nho giáo từ sự ra đời, quá trình phát triển
đến những tư tưởng trung tâm mà Nho giáo đưa ra về vũ trụ, giới tự nhiên; về chính
trị xã hội, đạo đức và giáo dục.
Hai là, chỉ ra những ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đối với nước ta trong
một số các lĩnh vực cơ bản ở mặt tích cực và tiêu cực.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài chủ yếu sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp thu thập, tổng hợp tài liệu;
phương pháp suy diễn (diễn dịch); phương pháp phân tích định tính trên cơ sở kế thừa
những công trình nghiên cứu tư tưởng triết học về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho
giáo đối với nước ta trong suốt quá trình lịch sử. Phương pháp này được thực hiện đều
dựa trên các tài liệu sẵn có, ít tốn kém công sức, thời gian và dễ thực hiện. Các dữ liệu
phù hợp được dùng để đánh giá, mô tả, từ đó phản ánh các vấn đề liên quan đến Nho
giáo và ảnh hưởng của Nho giáo đối với Việt Nam.
Nhóm 2_CH20A 2
Triết học nâng cao
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO
Nho giáo là một trường phái do Khổng Tử, người nước Lỗ (551 – 479) Trước
công nguyên (thời Xuân Thu – Chiến quốc) sáng lập. Khổng từ là người mở đường vĩ
đại của lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại. Ông là nhà triết học, nhà chính trị và là
nhà giáo dục nổi tiếng ở Trung Quốc cổ đại. Ông đã hệ thống những tri thức tư tưởng
đời trước và quan điểm của ông thành học thuyết đạo đức chính trị riêng, gọi là Nho
giáo. Học thuyết của ông được hai nhà tư tưởng là Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và
phát triển. Mạnh Tử theo hướng duy tâm, Tuân Tử theo hướng duy vật. Trong lịch sử
sau này dòng Khổng Mạnh có ảnh hưởng lâu dài nhất. Từ nhà Hán trở đi, Nho giáo
được nhiều nhà tư tưởng phát triển và sử dụng theo môi trường xã hội của nó.
Kinh điển của Nho gia thường kể tới là hai bộ Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tứ thư
gồm 4 sách: Trung dung, Đại học, Luận ngữ, Mạnh Tử. Ngũ Kinh có: Thi, Thư, Lễ,
Dịch, Xuân Thu. Qua hệ thống kinh điển này có thể thấy rõ nét tư tưởng triết học của
Nho giáo là các tư tưởng dựa trên triết lý về vũ trụ và giới tự nhiên, từ đó luận giải về
đạo làm người, về chính trị, về nhận thức. Trong đó đậm nét nhất là tư tưởng về đạo
làm người về chính trị và giáo dục. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã
hội, về chính trị đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho giáo.
1.1. Tư tưởng triết học về vũ trụ và giới tự nhiên
Những người sáng lập Nho giáo nói về vũ trụ và tự nhiên không nhiều, song có
một số tư tưởng cơ bản. Trước hết, trong học thuyết của Nho giáo thì Trời có ý nghĩa
bậc nhất. Khổng Tử thường nói đến trời, đạo trời, mệnh trời. Nhưng khi giảng giải
đạo lý của mình, Khổng Tử lại không nói rõ ràng và hệ thống, ông chỉ cần vận dụng
các khái niệm, phạm trù trời, đạo trời, mệnh trời, để làm chỗ dựa mạnh mẽ, thiêng
liêng cho học thuyết và đạo lý của mình là được. Vì vậy sau này, quan niệm về trời đất
lần lượt được các danh nho đời sau bổ sung. Thứ hai, gộp trời đất muôn vật vào một
thể, Khổng Tử thường chú ý tính chất động nhiều hơn tính chất tĩnh. Thứ ba, Khổng
Tử tin vào vũ trụ quan dịch, cuộc vận hành biến hoá không ngừng, sâu kín, mầu
nhiệm của vũ trụ con người không thể cưỡng nổi, Khổng Tử gọi đó là thiên mệnh. Từ
Nhóm 2_CH20A 3
Triết học nâng cao
đó, ông coi trời có ý chí làm chủ thể của vũ trụ. Tin vào thiên mệnh, Khổng Tử coi
việc hiểu biết mệnh trời là một điều kiện để trở thành người hoàn thiện. Thứ tư,
Khổng Tử tin có quỷ thần, nhưng quan niệm quỷ thần của ông có tính chất lễ giáo
hơn tôn giáo. Ông cho rằng quỷ thần là do khí thiêng trong trời đất tạo thành. Tuy
nhìn mà không thấy, lắng mà không nghe, thể nghiệm mọi vật mà không bỏ sót,
nhưng mọi người đều cung kính, trang nghiêm để tế tự thì quỷ thần có ở bên tả, bên
hữu mình. Mặt khác, ông lại cho rằng quỷ thần không có tác dụng chi phối cuộc sống
con người, ông phê phán sự mê tín quỷ thần. Quan niệm thiên mệnh của Khổng Tử
được Mạnh Tử hệ thống hoá, xây dựng thành nội dung triết học duy tâm trong hệ
thống tư tưởng triết học của Nho giáo.
1.2. Tư tưởng về chính trị, tổ chức xã hội
Nho giáo là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có
hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người
lý tưởng này gọi là quân tử. (Quân là kẻ làm vua, quân tử là chỉ tầng lớp trên trong xã
hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau Khổng Tử
dùng từ "quân tử" để chỉ phẩm chất đạo đức: "Quân tử sở tính Nhân nghĩa lễ trí" phân
biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức). Để trở thành người quân tử, con
người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân
tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Đạo ở đây là
con đường để hoàn thiện chính mình, hoà hợp đất trời trở về bản ngã “bổn thiện”).
Tình hình xã hội thời Xuân Thu - Chiến Quốc đã xuất hiện những vấn đề lớn
như: sự hỗn loạn về quan niệm đẳng cấp và danh phận; các chư hầu xâm lấn và thôn
tính lẫn nhau; mâu thuẫn gay gắt giữa nông dân là lãnh chúa; sự xuống cấp về đạo
đức; Do không hiểu nguyên nhân sâu xa của các sự biến lịch sử và bị những quyền
lợi giai cấp quy định nên những kế sách chính trị của Khổng Tử chỉ dừng lại ở tính
chất cải lương và duy tâm, chứ không phải bằng cách mạng hiện thực.
Đứng trên quan điểm duy tâm, để giải quyết những vấn đề xã hội, Nho giáo
khái quát những quan hệ chính trị - đạo đức ấy vào ba mối quan hệ rường cột, gọi là
tam cương, bao gồm:
Nhóm 2_CH20A 4
Triết học nâng cao
- Quan hệ vua – tôi
- Quan hệ cha – con
- Quan hệ chồng – vợ
Quan hệ thứ nhất thuộc quan hệ quốc gia, còn hai quan hệ sau thuộc quan hệ
gia đình. Điều này nói lên rằng trong quan niệm về xã hội, Nho giáo đặc biệt quan tâm
tới những quan hệ nền tảng của xã hội là quan hệ gia đình. Quan hệ gia đình ở đây
mang tính tông tộc, dòng họ. Xã hội trị hay loạn trước hết thể hiện ở chỗ có giữ được
ba mối quan hệ ấy hay không.
Để theo đuổi mục tiêu lý tưởng xây dựng xã hội đại đồng, Nho giáo nêu
nguyên tắc quản lý xã hội như sau:
- Nguyên tắc 1: Thực hiện nguyên tắc tập quyền cao độ (chế độ quân chủ trung ương
tập quyền cao độ). Trong phạm vi quốc gia, toàn bộ quyền lực tập trung vào một
người là Hoàng đế.
- Nguyên tắc 2: Thực hiện “chính danh” trong quản lý xã hội.
Kế sách chính trị trước hết là thuyết chính danh. Để làm cho xã hội có trật tự,
Khổng Tử cho rằng biện pháp trước hết là phải thực hiện chính danh. Chính danh có
nghĩa là một vật trong thực tại cần phải cho phù hợp với cái danh nó mang. Nói cách
khác, mỗi cái danh bao hàm trong đó một số điều kiện tạo nên bản chất loại sự việc
mà danh liên quan đến. Bản chất của ông vua là những điều kiện lý tưởng mà ông vua
phải có, nghĩa là những điều kiện hợp với vương đạo. Hành động theo vương đạo, thì
ông vua mới thật là ông vua, ông vua vừa hợp với thực và vừa hợp với danh. Nếu ông
vua không hành động theo vương đạo, thì ông vua không phải là ông vua nữa, mặc dù
dân chúng vẫn coi là vua. Vậy, trong xã hội, mỗi cái danh đều bao hàm một số trách
nhiệm, bổn phận và những cá nhân mang danh ấy phải có những trách nhiệm và bổn
phận phù hợp với danh ấy. Đó là ý nghĩa thuyết chính danh của Khổng Tử.
- Nguyên tắc 3: Thực hiện Văn trị - Lễ trị - Nhân trị. Đây là nguyên tắc có tính chất
đường lối căn bản của Nho giáo.
Nhóm 2_CH20A 5
Triết học nâng cao
Văn trị: Đề cao trị bằng hiểu biết. Tạo ra vẻ đẹp của một nền chính trị để mọi
người tự giác tuân theo.
Lễ trị: Thời Xuân Thu - Chiến Quốc nhiều học phái triết học xuất hiện và mỗi
học phái đưa ra cách trị nước an dân khác nhau của mình gọi là trị đạo. Những trị đạo
được người ta nói nhiều là chính trị, đức trị, lễ trị, pháp trị và vô vi trị. Đấu tranh gay
go nhất là đấu tranh giữa Nho gia và Pháp gia về trị đạo. Pháp gia thiên về bá đạo và
chủ trương pháp trị, Nho gia kiên trì vương đạo và chủ trương lễ trị. Lễ, hiểu theo
nghĩa rộng là những nghi thức, quy chế, kỷ cương, trật tự, tôn ty của cuộc sống chung
trong cộng đồng xã hội và cả lối cư xử hàng ngày. Với nghĩa này, lễ là cơ sở của xã
hội có tổ chức bảo đảm cho phân định trên dưới rõ ràng, không bị xáo trộn, đồng thời
nhằm ngăn ngừa những hành vi và tình cảm cá nhân thái quá. Lễ, hiểu theo nghĩa là
một đức bên trong ngũ thường, đó là sự thực hành đúng những giáo huấn kỷ cương,
nghi thức do Nho gia đề ra cho những quan hệ tam cương ngũ luân, thất giáo, và cho
cả sự thờ cúng thần linh. Đã là người thì phải học lễ, biết lễ và có lễ. Không như thế là
phi lễ, mà đã phi lễ thì không được nhìn, không được nghe, không được nói, không
được làm. Kinh lễ cho rằng lễ là trật tự của trời cho nên đức lễ chính là tính trời, mệnh
trời của con người học lễ từ tuổi trẻ thơ. Với ý nghĩa này Lễ là nội dung cơ bản của lễ
giáo đạo Nho. Lễ với những nội dung trên là công cụ chính trị, là vũ khí của một
phương pháp trị nước, trị dân lâu đời của Nho giáo. Phương pháp ấy là phương pháp
lễ trị. Khổng Mạnh coi trọng giáo dục hơn chính trị và pháp luật nhưng giáo dục và kỷ
cương của Nho giáo bao giờ cũng nhằm tới thay thế chính trị, pháp luật một cách hiệu
lực hơn. Lễ, có thể đưa tất cả vào nề nếp tăm tắp, có thể ngăn cấm mọi lỗi khi sắp xảy
ra. Vì vậy, những điều quy định về lễ vốn ra đời rất sớm, nhiều và tỷ mỉ hơn những
điều về pháp luật. Với đối tượng dễ sai khiến đông đảo là nông dân lao động, lớp trẻ
và phụ nữ thì lễ lại càng rườm rà, phiền phức và cay nghiệt, làm cho họ mất đi nhiều
về phẩm chất con người.
Nhân trị: Trị quốc bằng lòng nhân ái, mở rộng ân trạch của hoàng cung tới bốn
phương. Khổng Tử cho rằng việc trị quốc là việc rất khó, nhưng cũng rất dễ làm nếu
đức Minh quân biết sử dụng ba loại người: Cả quyết can đảm, Minh đản (trí thức) và
Nhóm 2_CH20A 6
Triết học nâng cao
nghệ tinh. Nhà vua muốn trị vì đất nước và muốn có đức nhân phải biết dùng người và
thực hiện ba điều sau:
+ Kính sự: chăm lo việc công
+ Như tín: Giữ lòng tin với dân.
+ Tiết dụng: Tiết kiệm tiêu dùng.
- Nguyên tắc 4: Đề cao nguyên lý công bằng xã hội
Đức Khổng Tử đã nói: “ Không lo thiếu mà lo không đều,
Không lo nghèo mà lo dân không yên”.
Sự mất công bằng là đầu mối của loạn xã hội.
Cơ sở của công bằng trong Nho giáo:
+ Theo phái Mặc gia: Công bằng theo kiểu cào bằng.
+ Theo phái Nho gia: Công bằng trên cơ sở danh của mình. Tức là công bằng
theo danh (địa vị xã hội) trong hưởng quyền lợi phân phối theo chức vụ, địa vị.
1.3. Tư tưởng về đạo đức (Tu thân)
Khổng Tử dạy: "Con người nếu không hiếu cha mẹ, không kính tổ tiên thì bất
cứ việc xấu nào họ cũng dám làm. Một người hiếu cha mẹ, kính tổ tiên thì không
những là lời nói việc làm mà khởi tâm động niệm họ đều nghĩ rằng, nếu như việc này
ta làm mà không đúng pháp thì có lỗi với cha mẹ, làm nhục tổ tiên thì họ sẽ không
dám làm."
Đức Khổng Tử nêu lên ngũ luân với thuyết chính danh và chữ “Nhân” để làm
chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Người ta phải giữ năm đạo đó làm
thường, không nên để rối loạn. Ngũ thường gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Nhân: Là phạm trù đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo cương – thường, tất cả các
phạm trù đạo đức đều xoay quanh phạm trù trung tâm này, nó bao hàm trong mình
mọi đức tính. Do vậy, người có nhân đồng nhất với người hoàn thiện nhất, người quân
tử. “Người có đức nhân là người phải nghiêm trang, tề chỉnh, rộng lượng, khoan dung,
Nhóm 2_CH20A 7
Triết học nâng cao
đức tín, lòng thành, siêng năng, cần mẫn và biết thi ân với năm đức (cung, khoan, tín,
mẫn, huệ). Đó cũng là người biết yêu người đáng yêu, biết ghét người đáng ghét.
Người có đức nhân cũng là người có đức lễ, vì biểu hiện ra bên ngoài của nhân là lễ
(khắc kỷ phục lễ vi nhân). Lễ là hình thức thể hiện nhân và cũng là một chuẩn mực
của Ngũ thường. Phạm trù đức nhân tuy bao gồm nhiều nội hàm khác nhau, song cái
gốc và cốt lõi của Nhân là Hiếu đễ. Theo Khổng Tử, tình cảm giữa cha mẹ và con cái,
giữa chồng và vợ, giữa anh và em với nhau là những tình cảm tự nhiên, vốn có thuộc
về bản tính con người. Từ cách hiểu này ông cho rằng, trong gia đình nếu người cha
đứng đầu thì mở rộng ra trong nước vua là người đứng đầu. Nho giáo đặt vua đứng
đầu trong tam cương và ngũ luân. Vì vậy, đạo làm người phải tận hiếu với cha mẹ, tận
trung với vua. Một người biết yêu thương cha mẹ mình thì mới biết yêu thương người
ngoài. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ xuất phát điểm đầu tiên là gia đình, từ đó suy
rộng ra đến quốc gia và thiên hạ. Vì vậy, người cầm quyền nếu không “tề gia” (cai
quản gia đình) của mình thì cũng không thể “trị quốc” (cai trị đất nước) được. Ngoài
ra, Nhân xét trong mối liên hệ với đức nghĩa thì nhân là bản chất của nghĩa, bản chất
ấy là thương người. Khổng Tử nói rằng nhân là thương người, người nào thật lòng
thương người khác thì có thể làm tròn nghĩa vụ của mình.
Nghĩa: Xét trong mối liên hệ với nhân thì nghĩa là hình thức của nhân. Nghĩa là phần
ta phải làm. Đó là mệnh lệnh tối cao. Trong cuộc sống xã hội, mọi người đều có
những điều phải làm, làm nhiệm vụ vì nhiệm vụ, bởi vì những điều ấy đáng phải làm
về phương diện luân lý. Nếu làm nhiệm vụ vì lý do khác, không vì luân lý thì hành vi
ta không hợp nghĩa, dẫu cho ta có làm tròn bổn phận. Khổng tử cho rằng, trong trường
hợp đó hành động chỉ vì lợi. Nghĩa và lợi là hai từ hoàn toàn đối lập. Nhà nho phải
biết phân biệt nghĩa và lợi và sự phân biệt này là tối quan trọng trong giáo dục đạo
đức
Lễ: Theo Nho giáo, Lễ là quy định về mặt đạo đức trong quan hệ ứng xử giữa người
với người. Con cái phải có hiếu với cha mẹ, bề tôi phải trung với vua, chồng vợ phải
có nghĩa với nhau, anh em phải trên kính dưới nhường, bạn bè phải giữ được lòng
tin.Những quy tắc này là bất di bất dịch mà ai cũng phải tuân theo. Lễ là sợi dây buộc
chặt con người với chế độ phong kiến tập quyền. Mở rộng ra là việc tuân thủ các quy
Nhóm 2_CH20A 8
Triết học nâng cao
tắc, nguyên tắc đạo đức xã hội và pháp luật. Một cách căn bản, chính nghi lễ và nghi
thức làm cho cuộc sống quân bình. Lễ làm bền vững nền văn hiến của một nước, lễ
mà ại hoại thì văn hiến cũng tiêu tan. Khổng Tử nói: "Cung kính mà thiếu lễ thì làm
thân mình lao nhọc. Cẩn thận mà thiếu lễ thì trở thành nhút nhát. Dũng cảm mà thiếu
lễ sẽ trở thành rối loạn. Ngay thẳng mà thiếu lễ sẽ trở nên thô lỗ”.
Trí: Óc khôn ngoan, sáng suốt. Cảm giác đúng và sai. Biết tiên liệu, tính toán để hành
động hợp đạo lý.
Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy. Chữ tín vốn nằm trong 4 điều trên, sau này được tách
ra để thành Ngũ thường. Tín là thước đo, là sự phản ánh 4 giá trị trên. Tín có nghĩa là
lời nói và việc làm phải thống nhất với nhau, là lòng tin của con người với nhau. Tín
góp phần củng cố lòng tin giữa người với người. Theo quan niệm của Nho giáo thì
đức tín là nền tảng của trật tự xã hội.
Nhân, theo nội dung sách Luận ngữ, là sự phô bày rất thực tiễn và ngoại tại các
phẩm tính của con người. Khổng Tử chia loài người thành ba hạng:
- Thánh nhân: Bậc hiền giả, người thể hiện và chuyển giao minh triết.
- Quân tử: Người cao nhã, kẻ phấn đấu để làm điều chân chính.
- Tiểu nhân: Kẻ “hèn mọn”, hành động không màng tới đạo đức.
Khổng Tử nói: "Người quân tử sợ ba điều: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ
lời nói của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời, nên không sợ, (mà còn)
khinh nhờn bậc đại nhân, giễu cợt lời nói của thánh nhân. Người quân tử ung dung
mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà không ung dung”.
Trong tu thân, sự học là rất quan trọng. Khổng Tử nói: “Ta đi học là học cho ta,
để gây cái phẩm giá của ta, chứ không phải là để khoe với người. Ta chỉ lo không làm
được những việc đáng cho người ta biết, chứ không lo người ta không biết mình”.
“Muốn nhân mà không muốn học thì bị cái che mờ là ngu, muốn trí mà không muốn
học thì bị cái che mờ là cao kỳ, muốn tín mà không muốn học thì bị cái che mờ là hại
nghĩa, muốn trực mà không muốn học thì bị cái che mờ là ngang ngạnh, muốn dũng
Nhóm 2_CH20A 9
Triết học nâng cao
mà không muốn học thì bị cái che mờ là loạn, muốn cương mà không muốn học thì bị
cái che mờ là táo bạo khinh suất”.
Muốn trở lại người có "Lễ" thì phải học mà học thì phải thông qua chữ Văn.
"Văn" ấy có thể đã thành vǎn và cũng rất có thể đang ở dạng truyền ngôn, bất thành
văn. Do đó vai trò của người thầy là rất quan trọng, đặc biệt là ở tư cách đạo đức.
Quan niệm này khác với lối giáo dục hiện đại: Người lên lớp chỉ truyền đạt mỗi kiến
thức, còn đạo đức của học sinh thì ít được quan tâm (đã có luật pháp chuyên trị). Học
sinh đến lớp chỉ có mỗi nhiệm vụ là tiếp thu kiến thức (dù qua kiến thức thì họ cũng ít
nhiều học được đạo đức).
1.4. Tư tưởng về giáo dục
Theo Khổng Tử để cải tạo nhân tính, muốn dẫn nhân loại trở về chỗ tính gần
nhau, tức là chỗ thiện bản nhiên thì phải để công vào giáo dục vì giáo dục có thể hoá
ác thành thiện. Trung Dung viết: “Giáo dục là tu sửa cái đạo làm người”. Đại học
viết: “Đạo của đại học là ở chỗ làm sáng tỏ đức sáng”. Tu sửa đạo làm người, và làm
sáng tỏ đức sáng là mục đích tối cao của giáo dục trong việc cải tạo nhân tính. Khổng
Tử không coi giáo dục chỉ mở mang tri thức, giải thích vũ trụ mà ông chú trọng đến
việc hình thành nhân cách đầy đủ lấy giáo dục để mở mang cả trí, nhân, dũng, cốt dạy
người ta hoàn thành con người đạo lý. Mục đích của giáo dục, theo Khổng Tử trước
hết là học để ứng dụng có ích cho đời, với xã hội. Thứ hai là học để hoàn thiện nhân
cách. Khổng Tử cho rằng: “Kẻ đi học xưa vì lo mình, ngày nay kẻ đi học là vì người”.
Chương trình giáo dục được Khổng Tử nêu lên là văn chương, thực hành, trung nghĩa,
tín nhiệm. Trong bốn nội dung ấy, có ba nội dung thuộc phương diện hành vi đại biểu
cho nhân cách của một cá nhân hành động ở đời. Thứ ba là học để tìm tòi điều lý. Trời
đất vạn vật rất phức tạp, nhưng có thể tìm ra được đạo lý. Khi tìm ra được hệ thống
điều lý thì có thể hiểu được sự khác nhau của sự vật.
Phương pháp của giáo dục, theo Khổng Tử, trước hết là coi trọng việc giáo dục
theo lịch trình đúng với điều kiện tâm sinh lý. Cách giáo dục ấy nhằm nuôi cho tình
cảm nảy nở, rồi đưa vào khuôn phép, rồi điều hoà sự xung đột ở tâm. Thứ hai, coi
trọng mối quan hệ giữa các khâu của giáo dục. Trong việc học, cần tuân thủ học gắn
Nhóm 2_CH20A 10
Triết học nâng cao
liền với tư, với tập, với hành. Trong việc dạy, muốn dạy tốt, phải có trò tốt, tức những
học trò học vì đạo, học không biết chán, và phải có thầy dạy tốt, dạy vì đạo mà không
biết mệt mỏi.
Nhóm 2_CH20A 11
Triết học nâng cao
CHƯƠNG II: ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến.
Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu nhiều tư
tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…. Đã có thời thời kỳ Phật giáo giữ vai trò chính
yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm ưu thế và trở thành công cụ
tư tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do có thời gian tồn tại lâu dài, do
được các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích, cho nên Nho giáo có
ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã trở
thành cơ sở cho đạo đức thời phong kiến Việt Nam và ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn
còn tồn tại.
2.1. Ảnh hưởng chung của Nho giáo đối với Việt Nam
Ảnh hưởng tích cực
Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh và bảo vệ
chủ quyền dân tộc. Công lao của Nho giáo là góp phần đào tạo tầng lớp nho sĩ Việt
Nam, trong đó có nhiều nhân tài kiệt xuất như: Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du… Những thể chế chính trị, lễ nghi đạo đức Nho giáo đã du nhập vào Việt Nam,
chịu ảnh hưởng của Nho giáo, dòng văn minh dân gian làng xã được phổ biến và phát
triển. Các tư tưởng đấng trượng phu, quân tử, quan hệ tam cương, tam tòng tứ đức,
thủ tục ma chay, cưới xin ảnh hưởng rất đậm nét ở Việt Nam, nhất là bắt đầu từ thời
nhà Lê, khi Nho giáo bắt đầu thống trị và trở thành hệ tư tưởng chính thống của chế
độ phong kiến.
Nho giáo hướng con người vào con đường ham tu dưỡng đạo đức theo Nhân –
Lễ - Nghĩa – Trí - Tín, ham học tập để phò Vua giúp nước. Nhiều ý nghĩa giá trị của
những chuẩn mực đạo đức Nho giáo đã được quần chúng nhân dân sử dụng trong nền
đạo đức của mình. Cụ thể:
- “ Tiên học lễ, hậu học văn” là khẩu hiệu trong các trường học Việt Nam từ xưa tới
nay. Bác hộ cũng từng sử dụng những thuật ngữ đạo đức của Nho giáo và đã đưa vào
đó những nội dung mới như “ Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư…”
Nhóm 2_CH20A 12
Triết học nâng cao
- Tư tưởng “Trăm năm trồng người” và “ Hữu giáo vô loại” (dạy học cho mọi người
không phân biệt đẳng cấp) của Khổng Tử đã được Đảng Cộng sản việt Nam vận dụng
trong công cuộc xây dựng đất nước.
- Thiết lập kỷ cương và trật tự xã hội. Nho giáo với các tư tưởng chính trị - đạo đức như
“Chính danh”, “Nhân trị” luôn luôn là bài học quý báu và được vận dụng trong suốt
lịch sử Việt Nam.
Hồ Chủ Tịch khi kế thừa các tư tưởng triết học Nho giáo đã tinh lọc, loại bỏ
những tư tưởng không phù hợp với thời đại và hoàn cảnh của Việt Nam lúc bấy giờ.
Chẳng hạn, Khổng tử cho rằng “Thứ dân bất nghị” tức là dân thường không có quyền
bàn việc nước, còn Bác Hồ lại đề cao dân chủ.
Ảnh hưởng tiêu cực
Nho giáo xét đến cùng là bảo thủ về mặt xã hội và duy tâm về mặt triết học. Nó
thường được sử dụng để bảo vệ, củng cố xã hội phong kiến trong lịch sử. Nho giáo
góp phần không nhỏ trong việc duy trì quá lâu chế độ phong kiến ở Á Đông nói
chung và ở Việt Nam nói riêng.
Nho giáo cũng là một trong những nguyên nhân kìm hãm sản xuất phát triển ở
Việt Nam. Dưới sự ảnh hưởng của Nho giáo, truyền thống tập thể đã biến thành chủ
nghĩa gia trưởng, chuyên quyền độc đoán, bất bình đẳng. Nho giáo không thúc đẩy sự
phát triển của các ngành khoa học tự nhiên bởi phương pháp giáo dục thiên lệch của
Nho giáo, chỉ quan tâm tới đạo đức, học và dạy làm người mà không đề cập đến khoa
học kỹ thuật. Những mặt tiêu cực đó phản ánh tính chất bảo thủ lạc hậu của Nho giáo
ở nước ta.
Chúng ta có thể xét sự ảnh hưởng của Nho giáo tại Việt Nam trên một số lĩnh
vực cụ thể sau:
Nhóm 2_CH20A 13
Triết học nâng cao
2.2. Những ảnh hưởng của Nho giáo trên các lĩnh vực cơ bản
2.2.1. Đối với đạo đức
a. Ảnh hưởng tích cực
Cơ sở để các phạm trù đạo đức của Nho giáo có thể bám rễ chính là ở điểm
tương đồng của yếu tố nguồn gốc. Nho giáo là sản phẩm của nền văn hóa đậm chất
nông nghiệp Phương Nam thể hiện tinh thần dân chủ, hòa ái, nhân nghĩa, mềm dẻo…
Sự ảnh hưởng Nho giáo đối với đạo đức con người Việt Nam có thể nhìn nhận ở
những góc độ sau:
Một là các giá trị đạo đức truyền thống của người Việt
Đặc điểm cách trình bày các tư tưởng đạo đức của Nho giáo thường thông qua
các tình huống, lời răn dạy của cổ nhân nên dễ nhớ, dễ đi vào lòng người. Cùng với
quá trình hình thành các giá trị đạo đức tự thân của người Việt, tư tưởng đạo đức nho
giáo đã hình thành các giá trị đạo đức truyền thống của người Việt.
+ Hiếu học, kính thầy
Quá trình tiếp nhận văn hóa Hán của người Việt rất đặc biệt. Sự tiếp biến có
chọn lọc và học văn hóa Hán để chống Hán. Việc học chữ Hán không chỉ diễn ra trong
các trường dành cho quan lại quý tộc mà còn diễn ra trong các đình, chùa ở Việt Nam,
việc học trở thành nhu cầu tinh thần không thể thiếu và là con đường để đổi đời. Việc
học không liên quan đến nhà nước, mỗi gia đình tự lo. Chế độ học tập ấy đã tạo cho
đất nước một nền học vấn phổ cập rộng rãi, hiếu học, biết trân trọng yêu quý văn học.
Từ nét văn hóa hiếu học như vậy đưa đến nét văn hóa tốt đẹp, trọng thầy, quý trò, vai
trò của người thầy được đề cao: Không thầy đố mày làm nên; trọng thầy mới được
làm thầy…
+ Trung quân ái quốc
Các nhà Nho giáo của Việt Nam đã thấm triết lý nhân sinh của Nho giáo: Phú
quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng
phu.
Nghĩa là: Phú quý không bị lôi kéo, nghèo nàn không bị thay đổi, uy vũ không khuất
phục, như vậy mới là đại trượng phu.
Nhóm 2_CH20A 14
Triết học nâng cao
Người Việt đã tiếp thu triết lý sống của Đạo Nho, người Việt quý trọng cái sống
sống nên không hề do dự hiến thân cho sự nghiệp đấu tranh sinh tồn tự nhiên, giữ gìn
độc lập dân tộc. Các tấm gương lớn hi sinh cho đất nước lưu danh muôn thưở, góp
phần làm giàu truyền thống tốt đẹp đó là truyền thống yêu nước bất khuất, kiên
cường.
+ Hiếu đễ
Do ảnh hưởng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, xã hội Việt Nam từ xa
xưa được kết cấu theo mô thức gia đình, họ hàng, làng nước. Yếu tố huyết thống được
đề cao. Trước khi đạo Khổng du nhập, người Việt Nam đã có tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên. Gia đình là tổ tông nhỏ, dòng họ là tổ tông lớn, đất nước là tổ tông cao nhất.
Chuẩn mực đạo đước đầu tiên cao nhất của mỗi người phải thực hiện bắt đầu từ chữ
Hiếu và kết thúc là chữ Trung. Hiếu đễ là gốc của điều Nhân.
+ Nhân nghĩa
Nhân nghĩa vốn là các chuẩn mực đạo đức mà đạo Nho đưa ra nhưng các chuẩn
mực đạo đức đó dành cho mỗi cá nhân trong tu thân và thực hành đạo đức cá nhân.
Khi truyền bá và phát triển ở Việt Nam, người Việt đã biết mở rộng quan niệm và thực
hành Nhân (đại nghĩa). Trong thời kỳ xây dựng chế độ phong kiến của Việt Nam cùng
với sự kết hợp tư tưởng Phật giáo trong trị nước và hình thành đạo đức của người
Việt, các giá trị đạo đức nhân nghĩa của đạo Nho có sự pha tạp với các tư tưởng từ bi
hỉ xả của đạo Phật.
+ Thương người như thể thương thân
Tư tưởng Trung, Thứ của nho giáo khi truyền bá vào VN đã có cơ sở bám rễ
khi có điểm tương đồng với quan niệm của người Việt như: Một con ngựa đau, cả tàu
bỏ cỏ; Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn…
những giá trị nhân văn trong đạo đức của người Việt vốn đã hình thành trên cơ sở nền
văn minh lúa nước khi kết hợp với các phạm trù đạo đức có tính lý luận của Nho giáo
càng trở nên sâu sắc bền chặt hơn.
Nhóm 2_CH20A 15
Triết học nâng cao
Hai là các chuẩn mực đạo đức
Vai trò của các tư tưởng đạo đức Nho giáo không chỉ ảnh hưởng có tính tự phát
triển đến sự hình thành các giá trị đạo đức của người Việt mà còn là cơ sở lý luận cho
các nhà tư tưởng Việt Nam đưa ra các chuẩn mực đạo đức cho người Việt. Điển hình
là tư tưởng đạo đức của Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh.
Theo Nguyễn Trãi, khái niệm nước với dân là một. Kết cấu văn hóa làng xã
Việt Nam theo mô thức gia đình – làng xã – nước nhà. Trong tâm thức người Việt lợi
ích đất nước thống nhất với lợi ích của các gia đình, cá nhân (nước mất thì nhà tan).
Nho giáo bàn về Trung hiếu cho rằng trung với vua, hiếu với cha mẹ. Qua tư tưởng
của Nguyễn Trãi, tư tưởng Trung, Hiếu của Nho giáo được mở rộng nội hàm Tận
trung với nước, tận hiếu với dân. Coi trọng nhân dân. Nho giáo vốn coi trọng Đức trị
và lấy dân làm gốc. Kế thừa các tư tưởng của Nho giáo, Nguyễn Trãi cho rằng người
cai trị phải có Đức và coi trọng vai trò của nhân dân.
Nhân nghĩa “phàm mưu lược lấy nhân nghĩa làm gốc, dựng nên công to phải lấy nhân
nghĩa làm đầu, chỉ nhân nghĩa gồm đủ thì việc lớn mới xong xuôi” Chủ trương hòa
bình “ lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức hình thành trên cơ sở kết hợp giá trị đạo đức
truyền thống và yêu cầu xây dựng đạo đức mới cho con người Việt Nam trong thời đại
cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Đây là
những khái niệm mang nội dung mới với những giá trị đạo đức cơ bản nhất của nhân
dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những Đức, Nhân, Lễ, Trí, Tín của Nho
giáo đã được Hồ Chí Minh tiếp thu cải biến thành “ngũ thường” của Việt Nam như
thế. Người giải nghĩa:
Nhân: Thật thà, thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí đồng bào. Vì thế mà
kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân.
Nghĩa: là ngay thẳng không có tư tâm, không có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài
lợi ích của Đảng không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao việc thì dù bất kỳ
việc lớn nhỏ đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói,
không sợ người ta phê bình, mà phê bình người khác cũng luôn luôn đúng đắn.
Nhóm 2_CH20A 16
Triết học nâng cao
Trí: Vì không có việc tư lời làm mù quáng cho nên đầu óc luôn sáng suốt, dễ
tìm phương hướng, biết xem người xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi tránh việc
có hại cho Đảng.
Dũng: Là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có
gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn có gan chịu đựng, có gan chống lại những sự vinh
hoa phú quý không chính đáng. Nếu cần có gan hi sinh cả tính mệnh cho đảng, cho Tổ
quốc không rụt rè nhút nhát.
Liêm: Không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham người ta tâng bốc
mình làm việc quang minh chính đại.
Chính: Là không tà, thẳng thắn đứng đắn.
Như vậy, cũng là tu thân, nhưng chúng ta tu thân theo nội dung của đạo đức
cách mạng đã được Hồ Chí Minh đề cập. Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam, chịu ảnh
hưởng sâu sắc của đạo đức Nho giáo việc sử dụng những từ ngữ quen thuộc của Nho
giáo để đưa vào nội dung đạo đức mới là một biện pháp sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh từng nói: Đạo đức là gốc, là nền tảng của cách mạng. Trong giai
đoạn hiện nay, khi đất nước đang đứng trước những nguy cơ về tụt hậu: nguy cơ tụt
hậu về kinh tế so với các nước trên khu vực và trên thế giới, chệch hướng XHCN, nạn
tham nhũng và nạn quan liêu “diễn biến hòa bình” do các thế lực thù địch gây ra thì
việc trau dồi rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng là hết sức cần thiết.
Có thể nói: Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng đã thấm sâu vào
tâm tư, tình cảm và vào suy nghĩ hành động của mọi tầng lớp người Việt Nam dù họ
sống nơi đo thị tấp nập hay tận chốn thôn quê. Đạo đức nho giáo đã trở thành nhân tố
của đạo đức truyền thống đạo đức vốn có của dân tộc, nó bổ sung và làm cho diện
mạo tư tưởng đạo đức Việt Nam có thêm sắc thái mới, mang nội hàm khác và có
nhiều yếu tố nhân văn hơn.
b. Ảnh hưởng tiêu cực:
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực trên thì Nho giáo cũng có những hạn chế:
chính tính giáo điều bảo thủ cứng nhắc của đạo đức Nho giáo cùng với những mặt trái
của nó đã tạo nên một số tiêu cực trong đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Vì quá
Nhóm 2_CH20A 17
Triết học nâng cao
nhấn mạnh lễ mà dẫn đến bệnh hình thức chủ nghĩa, quan liêu giáo điều, tư tưởng bảo
thủ, coi thường lớp trẻ, chạy theo địa vị; quá coi trọng đức mà quên tài, trọng đức mà
coi thường pháp luật.
Tính giáo điều, ảo tưởng trong đạo đức Nho giáo đã gây nên bệnh hình thức,
quan liêu, thói đạo đức giả. Quá đề cao lễ tỏng học thuyết đạo đức của Nho gia đã gây
nên tư tưởng thứ bậc, gia trưởng, cục bộ địa phương, coi thường lớp trẻ hám lợi, hám
danh, coi thường quần chúng.
Đạo đức Nho giáo thường coi trọng xưa hơn nay, tư tưởng này này tác động
đến hành vi của con người đó là làm ăn sinh sống theo kinh nghiệm chủ nghĩa. Bệnh
kinh nghiệm chủ nghĩa cũng là căn bệnh tương đối phổ biến trong đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý. Nhiều cán bộ quan niệm rằng chỉ cần dựa vào kinh nghiệm là đủ. Do
vậy, họ không chịu khó học tập lý luận, bằng lòng với cái cụ thể, với lợi ích nhất thời,
ít nghĩ tới cái chung, ít nhìn xa trông rộng.
Qua nội dung các phạm trù nhân, lễ, nghĩa… trong Nho giáo, ta thấy rằng đạo
đức Nho giáo vẫn coi trọng danh hơn thực, vẫn thiên về chủ nghĩa hình thức. Điều
này có ảnh hưởng tiêu cực đến việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ là vẫn mang
nặng chủ nghĩa hình thức mà chưa đi vào chiều sâu.
Tính hai mặt trong sự ảnh hưởng của Nho giáo với đạo đức có ảnh hưởng
lớn trong việc xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, lãnh đạo hiện nay.
Việc xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, lãnh đạo hiện nay phải kết hợp được cả
mặt tích cực trong tư tưởng đạo đức Nho giáo vừa phải tiếp cận với những quan điểm
mới của Hồ Chí Minh đó là con người phát triển toàn diện cả về tài và đức thực hiện
cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
2.2.2. Đối với gia đình
Nho giáo là một học thuyết căn cứ vào gia đình để hình dung thế giới, theo mô
hình gia đình êm ấm để xây dựng xã hội lý tưởng. Con người do đó là con người của
gia đình. Từ thiên tử cho tới thần dân ai ai cũng lấy tu thân làm gốc, việc tu dưỡng đạo
đức của mọi người căn bản là rèn luyện phẩm chất của con người trong gia đình đó.
Gia đình truyền thống ở Việt Nam chịu ảnh hưởng Nho giáo sâu sắc, lâu dài và liên
Nhóm 2_CH20A 18
Triết học nâng cao
tục cho đến khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp và Xsã hội VN bắt đầu bị Âu
hóa.
a. Ảnh hưởng tích cực.
Nho giáo chú trọng xây dựng những mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình: cha
ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, thế là gia đình đạo
chính. Trong những mối quan hệ ấy, quan hệ cha con, anh em được Nho giáo tôn rất
cao bằng chữ Hiếu và chữ Đễ. Người con có Hiếu có ý thức đầy đủ về tình cảm và
bổn phận của mình đối với cha mẹ. Đó là sự biết ơn, ý nguyện thường xuyên làm sao
cho cha mẹ được vui lòng, là sự giữ mình không làm điểu gì để làm phiền lụy đến cha
mẹ, là quyết chí lập thân hành đạo, nêu cao thanh danh, làm vinh hiển gia đình.
Đễ là đạo nghĩa đối với đàn anh trong thế hệ của mình. Hiếu Đễ là cái gốc của
đạo đức con người. Cho nên đã có hiếu và đễ thì các đức tốt khác đều có được, không
những trong quan hệ gia đình mà trong cả quan hệ xã hội. Nho giáo dạy rằng: thân
yêu cha mẹ mình, kế đó mà cư xử có nhân với người đời, kính cha anh của mình, từ
đó kính cha anh của người, yêu con trẻ của mình từ đó yêu con trẻ của người. Nho
giáo khẳng định rằng sự giáo dục từ trong gia đình có tác động mạnh mẽ, thậm chí
quyết định sự thành công trong việc trị nước. Chỉ cần mị người yêu thương cha mẹ
mình, bà con mình, kính trọng bậc trưởng thượng của mình tự nhiên thiên hạ sẽ được
thái bình.
Trước kia, gia đình bao gồm nhiều thế hệ sống chung với nhau. Tình cảm giữa
cha mẹ và con cái mở rộng ra ngoài xã hội là cơ sở của quan hệ vua tôi, là điểm xuất
phát để xây dựng quan hệ bạn bè. Ngày nay, chúng ta đặt lên tình cảm hàng đầu với tổ
quốc với nhân dân, nhưng tình cảm ấy trước hết phải được xây dựng và vun trồng từ
những tình cảm đầu tiên giữa người với người trong gia đình. Chúng ta thừa nhận
rằng, những người có đạo đức ngoài xã hội không thể là những người mất đạo đức
trong gia đình. Chúng ta có thể tiếp thu tinh thần của Nho giáo là muốn đào tạo những
con người có đạo đức ngoài xã hội, trước hết phải đào tạo những con người có đạo
đức trong gia đình. Trên cơ sở chữ “Hiếu” của Nho giáo chúng ta mở rộng thành tình
cảm đối với tổ quốc với nhân dân, “Trung” không phải là trung với vua, với ông chủ
Nhóm 2_CH20A 19
Triết học nâng cao
bóc lột mà là trung với tổ quốc, là góp phần xây dựng tổ quốc, xây dựng quê hương
giàu đẹp hơn.
b. Ảnh hưởng tiêu cực
Gia đình Việt Nam ngày nay được xây dựng trên những quy tắc mới nhằm đảm
bảo những quan hệ lành mạnh và có ý nghĩa giữa các thành viên trong gia đình. Cùng
với việc kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống chúng ta còn phê phán và loại
bỏ những yếu tố tiêu cực đang ảnh hưởng tới việc xây dựng gia đình văn hóa mới, cản
trở công cuộc đổi mới của nước ta.
Chủ nghĩa gia đình, căn bệnh từng bám rễ, ăn sâu trong xã hội cũ giờ đây vẫn
còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động của nhiều người. Do ảnh hưởng của Nho giáo,
trên thực tế việc giải quyết các vấn đề trong đời sống xá hội thường bị phụ thuộc vào
tình cảm cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em… Thói chiếu cố cưu mang rộng rãi đến
bà con, họ hàng vẫn tồn tại. Ở nhiều nơi vẫn còn tình trạng cán bộ lợi dụng chức
quyền đưa người thân vào cơ quan nắm giữ những chức vụ quyền lực quan trọng, né
tránh không dùng những người chính trực để mưu lợi cá nhân. Mặt khác, họ biến các
quan hệ cơ quan thành quan hệ kiểu gia đình. Nhìn bề ngoài, quan hệ này có vẻ ấm
cúng, nhưng nó lại chứa đựng mầm mống mất dân chủ, mất đoàn kết, bè phái và nhiều
hành động tiêu cực khác. Đây là tiền đề đi tới những vụ tham nhũng tập thể có hệ
thống, có tính toán chặt chẽ. Các vụ tham nhũng tập thể có khả năng vô hiệu hóa các
hoạt động kiểm tra, thanh tra của các cơ quan chức năng. Quan niệm “nhà trước, nước
sau” hầu như đã trở thành đạo lý khống chế tư duy và hành động của một bộ phận xã
hội.
Chúng ta lên án chủ nghĩa cá nhân của hệ tư tưởng tư sản, đồng thời cũng cần
lên án thứ chủ nghĩa cá nhân của những con người, còn mang nặng tư tưởng phong
kiến trói chặt vào gia đình, một thứ chủ nghĩa cá nhân mà thực chất là chủ nghĩa vị kỷ
gia đình. Tình cảm gia đình là sâu sắc và thiêng liêng của con người. Chủ nghĩa xã hội
không xóa bỏ gia đình mà tạo điều kiện để xây dựng củng cố gia đình bền vững.
Nhưng, tình cảm của con người phải vượt qua ngưỡng cửa gia đình, vươn tới tình cảm
lớn lao, đó là tình yêu Tổ quốc. Quá nặng tình cảm gia đình, quá tính toán vì danh lợi
Nhóm 2_CH20A 20
Triết học nâng cao
riêng của gia đình, thiên vị che đậy cho bà con anh em, kéo bè kéo cánh trong dòng họ
để đối lập với lợi ích của công cộng của địa phương và xã hội là điều cần lên án và
loại bỏ.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn phải cân nhắc lực chọn giữa gia đình
to (cả nước) với gia đình nhỏ. Người cách mạng bao giờ cũng chọn gia đình to, đến
CNXH nếu gia đình to có hạnh phúc thì gia đình nhỏ cũng có hạnh phúc. Vì vậy,
trong lúc cách mạng gay go phải chọn cái lớn nếu phải hi sinh gia đình nhỏ cho gia
đình lớn cũng phải làm.
Gia đình là nền tảng của xã hội mới, phải góp phần bảo vệ những thành quả đã
đạt được. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề gia đình sẽ vừa đáp ứng
được nhu cầu đổi mới của đất nước, vừa khai thác những truyền thống tốt đẹp của gia
đình cũ, trong đó có những nhân tố tích cực của Nho giáo.
2.2.3. Đối với giáo dục
a. Ảnh hưởng tích cực.
Nho giáo đề cao học tập và giáo dục, góp phần quan trọng trong việc hình
thành truyền thống hiếu học, coi trọng sự học tập, coi trọng trí tuệ. Nho giáo quan
niệm điều quan trọng nhất của việc tu thân là học tập và chỉ ra rằng: Muốn làm cho
cái đức tính mình tỏa sáng ra trong thiên hạ trước hết phải lo trị sửa nước mình. Muốn
trị sửa nước mình, trước hết phải sắp đặt nhà cửa cho chỉnh tề. Muốn sắp đặt nhà nước
mình, trước hết phải tu tập lấy mình. Muốn tu tập lấy ình phải giữ cho lòng dạ ngay
thẳng. Muốn giữ lòng dạ ngay thẳng trước hết phải làm cho cái ý mình thành thật.
Muốn làm cho cái ý của mình thành thật trước hết phải có tri thức chu đáo. Muốn có
tri thức chu đáo ắt phải nghiên cứu sự vật.
Việc học tập phải tiến hành trong suốt cuộc đời mỗi con người: Muốn thi hành
những đức, nhân, trí, dũng, cương cho đúng đạo, con người trước hết đều phải học đã
học thì phải luôn ghi nhớ “học cho rộng, hỏi cho cùng, nghĩ cho kỹ, biện cho rành,
làm cho siêng”.
Tri thức là thành quả cụ thể và tất yếu của việc học tập. Phải học tập mới có tri
thức, nếu học tập vì một sự bắt buộc và những động cơ mưu cầu danh lợi riêng hay
Nhóm 2_CH20A 21
Triết học nâng cao
học vì những mục đích thực dụng nào đó thì khó có thể đạt kết quả tốt, khó bảo đảm ý
nghĩa và giá trị của tri thức. Trong thời đại ngày nay, khi trí tuệ trở thành nhân tố
quyết định của sự phát triển thì truyền thống coi trọng giáo dục, học tập của Nho giáo
càng có giá trị nếu chúng ta biết khai thác, kế thừa.
Một ảnh hưởng tích cực nữa của Nho giáo cần phải nhắc tới là tinh thần “tôn
sư trọng đạo”, coi trọng sự học tập, coi trọng người thấy giờ đã trở thành truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
b. Ảnh hưởng tiêu cực.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta bắt đầu trước hết từ việc đổi mới tư duy. Trong khi
đó lối tư duy mang nặng tính giáo điều, kinh nghiệm bảo thủ của Nho giáo vẫn còn
tồn tại ảnh hưởng không nhỏ tới tư duy của đội ngũ cán bộ nước ta.
- Ảnh hưởng của bệnh giáo điều
Trước kia, Nho giáo luôn gò ép tư duy và hành động theo lời dạy của Thánh
hiền, bất kỳ lý luận phải theo khuôn mẫu. Trong những năm xây dựng CNXH trước
thời kì đổi mới, ở cán bộ ta cũng có hiện tượng bắt suy nghĩ và hành động nhất theo
đúng câu chữ trong kinh điển Mác - Lênin. Cùng với bệnh giáo điều, bệnh kinh
nghiệm cũng gây ra những tác hại không nhỏ trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Trong quá trình xây dựng CNXH, Nước ta đã áp dụng cứng nhắc kinh nghiệm
của các nước, không nhận thức đầy đủ hoàn cảnh của nước nhà. Do đó, ta đã mắc sai
lầm nghiêm trọng như Lênin từng cảnh báo: “nếu chỉ vì bắt chước không có tinh thần
phê phán mà đem dập khuôn những kinh nghiệm đó một cách mù quáng vào những
điều kiện khác, vào những hoàn cảnh khác, như thế là phạm sai lầm nghiêm trọng
nhất.”
- Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đối với đội ngũ cán bộ còn biểu hiện ở tính bảo
thủ.
Trong tư duy của cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta tính bảo thủ gắn liền với
bệnh kinh nghiệm, giáo điều. Tính bảo thủ sinh ra từ sự cường điệu cái đã có, thậm
chí tuyệt đối hóa nó, coi nó là khuôn vàng thước ngọc để hành động.
Nhóm 2_CH20A 22
Triết học nâng cao
Trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam, do tuyệt đối hóa kinh điển, tuyệt
đối hóa kinh nghiệm của một số nước cũng như bản thân mình, cán bộ ta đã làm mất
khả năng sáng tạo của mình bóp nghẹt quy luật vốn có. Tính bảo thủ làm cho cán bộ
ta dè dặt với cái mới, không mạnh dạn ủng hộ cái mới. Ngay cả khi đường lối đổi mới
của Đảng đã hình thành, phát huy tác dụng trong hiện thực, một bộ phận cán bộ vẫn
chưa nhận thức được, chưa ủng hộ đường lối đó.
Như vậy có thể thấy rằng, về thực chất bệnh giáo điều, kinh nghiệm trong đội
ngũ cán bộ nước ta là căn bệnh trong nhận thức, tiếp thu và vận dụng tri thức vào thực
tiễn. Bên cạnh nguyên nhân do trình độ lý luận, tư duy lý luận, tri thức khoa học còn
hạn chế còn có nguyên nhân do ảnh hưởng của tư duy một chiều, lệ thuộc vào sách vở
kiểu Nho giáo.
Tóm lại, qua những phân tích trên có thể thấy rằng Nho giáo đã từng ảnh
hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam. Ảnh hưởng đó có phạm vi
rộng khắp từ cá nhân từ cá nhân cho đến xã hội, từ sinh hoạt cho đến học tập công tác.
Đối với cá nhân là trong nếp cảm, nếp nghĩ, trong tác phong và lối sống.
Đối với gia đình là trong gia phong, gia pháp, với xã hội là trong tình thần và
thái độ của con người trước nhiệm vụ và việc làm.
Những ảnh hưởng này cần phải được nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan,
tránh thái độ phủ nhận sạch trơn. Một mặt, khắc phục triệt để những hạn chế của nó;
Mặt khác, cần chắt lọc những hạt nhân hợp lý để kế thừa và phát huy trong sự nghiệp
đổi mới của nước ta hiện nay.
Nhóm 2_CH20A 23
Triết học nâng cao
KẾT LUẬN
Nho giáo tuy là một triết học duy tâm nhưng đặc biệt coi trọng các giá trị đạo
đức. Trong các nội dung đó, chúng vẫn có những ý nghĩa nhân loại nhất định ngoài
những hạn chế của đẳng cấp và giai cấp.
Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn chuyển giao sang nền kinh tế thị
trường với định hướng xã hội chủ nghĩa thì những tư tưởng bảo thủ, hủ nho sẽ là
những cản trở không nhỏ trong quá trình đổi mới ấy. Mặt khác, Việt Nam đang rất cần
giữ thế ổn định xã hội, đó là điều mà Nho giáo đã theo đuổi hàng ngàn năm nay.
Chúng ta cần tham khảo các vấn đề của Nho giáo từ nhiều nguồn khác nhau, nghiên
cứu vận dụng vào Việt Nam cho phù hợp với điều kiện riêng có của nước ta trong
điều kiện hiện nay. Vì vậy nghiên cứu Nho giáo trong điều kiện hiện nay luôn là một
nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn.
Trên cơ sở lý luận và sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, bài thảo
luận đã hoàn thành được một số mục tiêu đề ra:
- Nêu ra được những tư tưởng cở bản của Nho giáo
- Làm sáng tỏ được những ảnh hưởng của Nho giáo đối với nước ta.
Tuy nhiên do điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn và kinh nghiệm của nhóm
nghiên cứu chưa có nhiều nên không tránh khỏi những thiếu sót trong bài thảo luận.
Nhóm nghiên cứu rất mong nhận được ý kiến góp ý của thầy hướng dẫn cùng tất cả
các bạn trong lớp để hoàn thiện hơn bài thảo luận của nhóm.
Nhóm 2_CH20A 24
Triết học nâng cao
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Ngọc Anh (1999), “Về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học.
2. Nguyễn Văn Bình (2001), “Quan niệm Nho giáo về các mối quan hệ xã hội. ảnh
hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay”, Tạp chí Triết học.
3. Phan Đại Doãn (1999), Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
4. Chu Hy (1998), Dịch giả Nguyễn Đức Lân, Tứ thư tập chú, Nxb. Văn Hóa Thông tin ,
Hà nội.
5. Trần Trọng Kim (2001), Đại cương triết học Trung Quốc - Nho giáo, Nxb. Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
6. GS. Vũ Dương Ninh (2009), Lịch sử văn minh Thế giới, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
7. PGS.TS Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
8. Nguyễn Khắc Thuần (2001), Đại cương lịch sử Văn hoá Việt Nam, Tái bản lần thứ 3,
tập 3: Nho giáo với quá trình tham gia vào đời sống văn hoá và tư tưởng ở Việt Nam,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Hữu Vui (2003), Giáo trình lịch sử triết học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10.Trang web: />Nhóm 2_CH20A 25