Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Báo chí về An sinh xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.25 KB, 23 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH

TIỂU LUẬN
MƠN: BÁO CHÍ VỀ KINH TẾ
& AN SINH XÃ HỘI

Giảng viên:
Thực hiện:
MSSV:
Lớp: Báo mạng điện tử

Hà Nội, 2021


ĐỀ BÀI
Câu 1: Anh (Chị) hãy phân tích vai trị của báo chí về kinh tế và an sinh xã
hội.
Câu 2: Thực trạng báo chí về an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay. Giải
pháp nhằm hoàn thiện hoạt động báo chí về an sinh xã hội. Kỹ năng thực
hành tổ chức thực hiện tác phẩm báo chí về an sinh xã hội.

BÀI LÀM
Câu 1:
1. Báo chí về kinh tế

Ở bất kỳ giai đoạn nào của đất nước, dù “thăng” hay “trầm”, báo chí ln
là người bạn thuỷ chung và tận tâm, là người tiên phong đưa những thông
tin chính xác, kịp thời nhất. Đặc biệt, trong quan hệ báo chí với khu vực
kinh tế hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp… báo chí ln ln sát cánh
trong mọi hoàn cảnh.


a. Kinh tế
Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con
người, các mối quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Nói đến kinh tế suy cho cùng là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích. Từ
này chỉ "toàn bộ các hoạt động sản xuất, trao đổi, phân phối, lưu
thông" của cả một cộng đồng dân cư, một quốc gia.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư mở, kinh tế là tổng hòa các mối
quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã hội liên quan trực tiếp
đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con
người trong một xã hội với nguồn lực có giới hạn. Kinh tế là tổng thể

2


các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người, các mối quan
hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Theo các nhà sản xuất sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin, kinh tế là
tổng hịa các quan hệ sản xuất dựa trên một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất, tạo thành cơ sở kinh tế của một chế độ nhất định.
Kinh tế là khái niệm bắt nguồn từ phương Tây. Khái niệm này khi
được dịch sang tiếng Nhật thì người Nhật đã chọn cụm từ "kinh bang
tế thế" để diễn ý. Nguyên nghĩa của cụm từ này là các công việc mà
một vị vua phải đảm nhiệm: chăm lo đời sống vật chất của bề tôi,
chăm lo đời sống tinh thần của cộng đồng. Kinh tế là hình thức rút gọn
của cụm từ Kinh bang Tế thế, kinh bang có nghĩa là trị nước và tế thế
có nghĩa là cứu đời. Người Nhật hiểu rằng hoạt động kinh tế là để đem
lại lợi ích cho xã hội chứ khơng phải chỉ mưu cầu lợi ích cá nhân.
Kinh tế là sự trao đổi giữa bên cung và bên cầu một cách hợp lý,
hợp pháp nhất. Để sự trao đổi giữa bên cung và bên cầu được dễ dàng

thuận lợi, xã hội tạo ra một dạng hàng hóa đặc biệt dùng để đo lường
được gọi là tiền tệ.
Khái niệm kinh tế đề cập đến các hoạt động của con người có liên
quan đến sản xuất, phân phối, trao đổi, và tiêu thụ hàng hóa và dịch
vụ. Tuy nhiên, định nghĩa về kinh tế đã thay đổi theo lịch sử các hoạt
động kinh tế. Ngày nay người ta hiểu kinh tế là hoạt động sản xuất,
trao đổi và phân phối dựa vào các nguồn tài ngun khan hiếm. Trong
đó, con người và xã hội lồi người tìm cách trả lời các câu hỏi "Sản
xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào? Lưu thông, Phân
phối như thế nào?". Việc sử dụng các nguồn tài nguyên không khan
hiếm không làm nảy sinh các vấn đề kinh tế.
b. Vai trị của báo chí với kinh tế
3


Ngược trở lại lịch sử phát triển của báo chí Việt Nam có thể thấy,
ngay từ khi tờ “Nơng cổ mín đàm”, tờ báo kinh tế đầu tiên của Việt
Nam do Canavaggio sáng lập vào năm 1901 tại Sài Gòn đã khẳng định
quan điểm: Trọng thương là cách thứ nhất giúp cho dân phú quốc
cường, đồng thời hướng dẫn các thương nhân Việt Nam về nghệ thuật
buôn bán và khuyến khích, kêu gọi họ đồn kết để cạnh tranh với các
thương nhân nước ngồi…Khi đó, bắt đầu hình thành mối quan hệ báo
chí – doanh nghiệp.
Suốt chiều dài lịch sử phát triển của đất nước, báo chí ln ln
đồng hành và là người bạn thuỷ chung, son sắt với sự phát triển của
đất nước. Từ đây, cũng xuất hiện những mỗi quan hệ song hành giữa
báo chí với các thành phần trong xã hội, trong đó có mối quan hệ báo
chí với đơi ngũ làm kinh tế, doanh nghiệp. Có thể thấy vai trị quan
trọng của báo chí trong mối quan hệ với kinh tế:
Thứ nhất, báo chí về kinh tế là kênh cung cấp thông tin các hoạt

động kinh tế, giúp những người tiếp nhận thông tin xử lý theo nhu cầu
của mình.
Trong nền kinh tế thị trường, thơng tin chính xác, kịp thời là sức
mạnh tạo nên lợi thế cạnh tranh. Các phương tiện thơng tin đại chúng
có vai trị lớn trong việc cung cấp thơng tin kinh tế có thể kể đến như:
Thơng tin thị trường, hàng hóa (bao gồm thơng tin giá cả, sức tiêu thụ,
thị hiếu và xu hướng biến đổi thị hiếu tiêu dùng),…
Thứ hai, báo chí về kinh tế tham gia như một lực lượng sản xuất
của xã hội.
Ngày nay, trong kỷ nguyên thơng tin và thị trường tồn cầu, báo
chí là một lực lượng rất mạnh, tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất, quản lý.
VD: Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới từ 2008-2010,
những thông tin kịp thời của báo chí về tình trạng khủng hoảng kinh tế
4


thế giới, những biện pháp cứu nguy của các nước và những biện pháp
của Chính phủ ta đã tạo điều kiện thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp
trong nước có biện pháp khả thi để vượt qua khủng hoảng.
Thứ ba, báo chí về kinh tế là kênh phản biện các chính sách kinh tế
của Nhà nước, của từng địa phương.
Chỉ có phản biện trên báo chí mới là cách phản biện xã hội rộng rãi
nhất. Bên cạnh phản biện từ các chun gia, vai trị phản biện của báo
chí về kinh tế đối với các chủ trương, chính sách kinh tế là đi đầu.
Thứ tư, báo chí về kinh tế có vai trị trở thành diễn đàn kinh tế giữa
những người theo dõi.
Báo chí kinh tế cũng là diễn đàn để các doanh nghiệp có ý kiến về
những khó khăn, vướng mắc trong cơ chế, chính sách liên quan đến
hoạt động của doanh nghiệp với Chính phủ và các cơ quan quản lý khi

khơng có điều kiện tiếp cận trực tiếp. Đơi khi đây cịn là kênh thơng
tin ngắn nhất để doanh nghiệp chuyển ý kiến của mình tới các cơ quan
quản lý.
Rõ ràng, ở giai đoạn nào, dù thăng hay trầm của đất nước, báo chí ln
đồng hành cùng với sự đi lên của đất nước, nền kinh tế và doanh nghiệp.
Đơn cử, trong giai đoạn đỉnh điểm của dịch Covid – 19 vừa qua, báo chí
đã góp phần quan trọng trong việc tuyền truyền, phổ biến kiến thức
phòng chống và đẩy lùi dịch Covid – 19 ở Việt Nam. Điều này đã được
Đảng, Nhà nước, Chính phủ ghi nhận.
2. Báo chí về an sinh xã hội

Là những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, với bản chất nhân ái,
nhân văn, vì con người, vì sự tiến bộ và công bằng xã hội, an sinh xã hội
là nguồn đề tài rộng lớn, phù hợp với nguyên tắc hoạt động và nhiệm vụ
chính trị của báo chí cách mạng.
a. An sinh xã hội
5


Khái niệm an sinh xã hội thường được đề cập đến ở hai nghĩa rộng
và hẹp. Theo nghĩa rộng: an sinh xã hội là sự bảo đảm thực hiện các
quyền con người được an bình, hạnh phúc, xã hội ổn định, phát triển.
Theo nghĩa hẹp, an sinh xã hội là sự đảm bảo thu nhập và một số nhu
cầu thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trong trường
hợp bị giảm hoặc mất thu nhập vì lý do bị giảm hoặc mất khả năng lao
động hay mất việc làm; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi,
người tàn tật, người yếu thế, người bị ảnh hưởng bởi thiên tai địch
họa…
An sinh xã hội bao trùm một phạm vi rất rộng và tác động đến đời
sống con người trên toàn thế giới. An sinh xã hội phát huy tác dụng từ

trước khi con người ta sinh ra, do có sự chăm sóc trước khi đẻ và các
chế độ hưởng về thai sản, và nó cịn tiếp tục cả sau khi chết đi, do có
sự chi trả chế độ tử tuất. Do đó, trên thế giới, an sinh xã hội là một
thuật ngữ khá phổ cập, đặc biệt là ở những quốc gia công nghiệp phát
triển. Đây là khái niệm được dùng trong hệ thống luật pháp, các giáo
tình học, từ điển và các dịch vụ xã hội khác.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra một khái niệm về an sinh xã
hội như sau: An sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với mọi người
dân thơng qua các chính sách, giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu và
khắc phục các rủi ro hoặc tác động bất thường của tự nhiên, xã hội,
nhằm đảm bảo cuộc sống cho mọi thành viên, nhất là người nghèo,
người thu nhập thấp, giúp họ ổn định cuộc sống, hòa nhập với cộng
đồng.
Hệ thống ASXH là một hệ thống tổng hợp gồm nhiều chế độ, chính
sách mà trong đó mỗi chế độ, chính sách đều có vai trị, chức năng và
phạm vi hoạt động riêng, mang tính kết hợp nhằm tạo ra một mạng
lưới ASXH rộng khắp, bao trùm lên toàn bộ dân cư của một quốc gia
6


với mục tiêu bảo vệ mọi thành viên của mình trước những rủi ro và
giữ gìn cuộc sống của họ với những biện pháp thích hợp hay những
quyền lợi hợp lý trước những biến động bất thường xảy ra hay trong
những hồn cảnh và điều kiện đặc biệt.
b. Vai trị của báo chí với an sinh xã hội
Báo chí là phương tiện truyền thông đại chúng thiết yếu trong đời
sống xã hội, có vai trị hết sức quan trọng trong công tác truyền thông
về an sinh xã hội. Do là lĩnh vực rộng lớn, nhạy cảm, có tính chất bao
trùm trong hệ thống chính sách xã hội, an sinh xã hội vừa là mục tiêu,
vừa là đối tượng phản ánh của báo chí.

Hơn 30 năm sau chiến tranh, Việt Nam đã và đang tự khắc phục
những vết thương và đang phát triển mọi mặt. Hệ thống an sinh xã hội
được hình thành ngay từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa
được thành lập đang ngày càng được hồn thiện. Báo chí Việt Nam là
tiếng nói của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, giữ vai trò
chủ lực trong hoạt động truyền thông xây dựng, phát triển, hồn thiện
hệ thống an sinh xã hội.
Vai trị của báo chí đối với an sinh xã hội được thể hiện chủ yếu ở
những khía cạnh sau:
Thứ nhất, báo chí định hướng dư luận hiểu đúng cách và chấp hành
tốt các chính sách, luật pháp an sinh xã hội.
Với chức năng giáo dục chính trị - tư tưởng, tuyên truyền, cổ động
và tổ chức tập thể, báo chí giữ vai trị chủ lực trong hoạt động truyền
thông đại chúng, kịp thời chuyển tải chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về ASXH đến với mọi tầng lớp cán bộ và
nhân dân; định hướng dư luận xã hội, tạo sự đồng thuận trong thực
hiện chính sách, pháp luật ASXH.
Thứ hai, báo chí tác động thay đổi nhận thức, nâng cao hiểu biết
của đối tượng tham gia, thụ hưởng an sinh xã hội.
7


Báo chí tuyên truyển để nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị và
trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các tổ chức
chính trị - xã hội trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng
về ASXH. Báo chí đăng tải, phổ biến các quy định của pháp luật, giúp
người tham gia, thụ hưởng các chế độ, chính sách ASXH hiểu, biết,
thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi theo luật định.
Thứ ba, báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội; xây dựng,
hoàn thiện chính sách, pháp luật an sinh xã hội.

Báo chí tham gia tích cực vào việc xây dựng và hồn thiện đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về ASXH. Với chức
năng của mình, báo chí phát hiện những bất cập của chính sách, pháp
luật về ASXH hoặc những yếu kém trong tổ chức thực hiện, nhất là
các lĩnh vữ trụ cột, nhạy cảm như BHXH, BHYT, BHTN để giúp các
cơ quan, ban ngành chức năng kịp thời khắc phục và điều chỉnh.
Thứ tư, báo chí động viên, nhân rộng gương tốt trong thực hiện
chính sách, pháp luật an sinh xã hội.
ASXH bao gồm nhiều chế độ, chính sách, phạm vi và đối tượng có
trách nhiệm thực hiện khá đơng đảo trong xã hội, báo chí có vai trò
quan trọng trong việc tuyên truyền cổ động, lấy xây dựng, nhân rộng
cái tốt để chống lại và đẩy lùi những cái xấu, những hành vi vi phạm
pháp luật ASXH.
Thứ năm, báo chí chống tiêu cực, bảo vệ an sinh xã hội.
ASXH khơng chỉ là lưới che chắn, phịng ngừa, khắc phục rủi ro
cho một bộ phận dân cư, mà ý nghĩa sâu xa của ní là nhằm bảo vệ sự
an tồn, ổn định kinh tế, xã hội, vì sự phát triển bền vững của quốc
gia. Do đó, báo chí một mặt tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp
luật ASXH; mặt khác lên tiếng đấu tranh vì sự phát triển của sự nghiệp
ASXH, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
8


vệ Tổ quố Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh tồn diện sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát triển, đặt ra những yêu cầu
mới cao hơn đối với công tác bảo đảm ASXH. Thực tiễn đó địi hỏi cơng
tác truyền thơng về ASXH cần được tăng cường, trong đó hệ thống báo
chí có vị trí, vai trị quan trọng hàng đầu. ASXH vì thế cũng là đối tượng

phản ánh quan trọng của báo chí. Bằng cách thơng tin những nhu cầu của
nhóm người, cộng đồng đang gặp khó khăn, báo chí như một cầu nối giữa
các tầng an sinh xã hội và người dân.
Câu 2:
1. Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam

Hệ thống an sinh xã hội của một quốc gia phụ thuộc vào mơ hình
phát triển và hệ thống kinh tế của quốc gia đó. Tuy nhiên, vấn đề quan
trọng nhất là mơ hình phát triển và hệ thống kinh tế đó phải đảm bảo kết
hợp hài hịa giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội trên
nguyên tắc công bằng và tiến bộ xã hội. Hiện nay, Việt Nam đang chuyển
đổi, nền kinh tế vận động theo thị trường và được định hướng xã hội chủ
nghĩa, dưới sự quản lý của Nhà nước với mục tiêu chiến lược: “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
Ở Việt Nam, bảo đảm an sinh xã hội luôn được coi là nhiệm vụ
thường xuyên của Nhà nước và toàn xã hội. Với mục tiêu đến năm 2020,
cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân với các yêu
cầu: bảo đảm để người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo
hiểm xã hội và bảo đảm hỗ trợ kịp thời những người có hồn cảnh đặc
biệt khó khăn (trẻ em có hồn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu thập thấp,
người khuyết tật nặng, người nghèo…), góp phần từng bước nâng cao thu
9


nhập, bảo đảm cuộc sống an tồn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân.
Đặc biệt, tại Điều 34 Hiến pháp năm 2013 đã chính thức tuyên bố về
quyền an sinh xã hội của người dân.
Theo đó, chính sách ASXH ở Việt Nam tập trung vào 4 nội dung chính:
(1) Nhóm chính sách việc làm đảm bảo thu nhập tối thiểu và giảm
nghèo: hỗ trợ người dân chủ động phòng ngừa các rủi ro thông qua

tham gia thị trường lao động để có được việc làm tốt, thu nhập tối thiểu
và giảm nghèo bền vững.
Hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm giúp người lao động có việc làm để
có thu nhập, từ đó, tự bảo đảm ASXH. Lưới ASXH nào cũng hướng tới
cung cấp cơ hội việc làm cho mọi người trong độ tuổi lao động, kết nối
người thất nghiệp với doanh nghiệp cần lao động; đào tạo, dạy nghề,
nâng cao năng lực cho người lao động để họ có thể tìm kiếm, chuyển đổi
việc làm hoặc tự tạo việc làm. Đặc biệt, lưới ASXH tập trung vào hỗ trợ
tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo, phụ nữ và những nhóm
người yếu thế. Đối với người trong độ tuổi lao động, có đủ điều kiện lao
động thì hỗ trợ việc làm là trợ giúp an sinh quan trọng nhất để họ tự bảo
đảm thu nhập bền vững. Ở các quốc gia, hệ thống hỗ trợ việc làm và
giảm nghèo thường được tổ chức theo các cấp hành chính từ Trung ương
tới địa phương với sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau,
trong đó, vai trò tham mưu, tổ chức thường gắn với các cơ quan có thẩm
quyền về lĩnh vực lao động, việc làm. Hệ thống hỗ trợ giải quyết việc
làm thường hoạt động nhờ ngân sách nhà nước và đóng góp của các tổ
chức, cá nhân.

(2) Nhóm chính sách bảo hiểm xã hội: hỗ trợ người dân giảm thiểu rủi ro
khi bị ốm đau, tai nạn lao động, tuổi già…thông qua tham gia BHXH để
10


chủ động bù đắp phần thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất do các rủi ro
trên.
Hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng vai trị lưới đỡ nếu người lao
động không may không thể làm việc, mất việc làm do bệnh tật, thai sản,
tai nạn lao động,... hoặc nghỉ hưu do tuổi già. Khi đó, họ cần có hệ
thống BHXH chi trả để bảo đảm nguồn thu nhập. Hệ thống BHXH đóng

vai trị trung tâm trong lưới ASXH, giúp chống đỡ các rủi ro mất hoặc
suy giảm thu nhập. Hệ thống BHXH thường được tổ chức thống nhất và
phân chia thành các cấp từ Trung ương tới địa phương. Nguồn quỹ chính
của hệ thống là từ tiền đóng BHXH bắt buộc và/hoặc tự nguyện. Ngồi
ra, có thể có các nguồn thu khác từ hỗ trợ của ngân sách nhà nước,
nguồn đóng góp hảo tâm, nguồn lãi từ đầu tư quỹ... Đối tượng thụ
hưởng BHXH là những người tham gia BHXH, nghĩa là có đóng góp
BHXH.
(3) Nhóm chính sách trợ giúp xã hội, bao gồm chính sách trợ cấp thường
xuyên và trợ cấp đột xuất.
Hệ thống BHXH đóng vai trị chủ chốt trong bảo đảm thu nhập trong
trường hợp già yếu, bệnh tật, mất thu nhập với điều kiện phải tham gia
BHXH. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, cá nhân và hộ gia đình
khơng hoặc khơng có điều kiện tham gia BHXH (chẳng hạn những
người khuyết tật, khơng có việc làm, những người nghèo). Bên cạnh đó,
sinh kế của các cá nhân, hộ gia đình có thể gặp phải một số rủi ro bất
thường nằm ngoài phạm vi BHXH, như thiên tai, mất mùa,... cũng khiến
cá nhân và hộ gia đình mất thu nhập, rơi vào cảnh túng thiếu. Khi đó, hệ
thống trợ giúp xã hội đóng vai trị là lưới an sinh thứ ba để hỗ trợ các cá
nhân và hộ gia đình. Trợ giúp xã hội là các khoản trợ cấp trực tiếp bằng
tiền hoặc hiện vật cho cá nhân và hộ gia đình nghèo hoặc bị tổn thương,
thường do nhà nước thực hiện bằng ngân sách nhà nước. Hệ thống trợ

11


giúp xã hội thường được tổ chức đa dạng, trong đó có sự tham gia của
nhà nước, các tổ chức xã hội, các thiết chế cộng đồng,...
(4) Nhóm chính sách dịch vụ xã hội cơ bản, giúp người dân tiếp cận các
dịch vụ cơ bản về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin truyền

thông.
Việc làm, BHXH, trợ giúp xã hội đều hướng tới bảo đảm thu nhập cho
các đối tượng dân cư. Tuy nhiên, bên cạnh thu nhập, một trong các
quyền ASXH của người dân là được cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản,
như y tế, giáo dục, nước sạch, nhà ở, thông tin... Bên cạnh đó, được tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản cũng nhằm tạo cơ hội cho các cá nhân
nâng cao năng lực, phát triển vốn con người, từ đó có thể có việc làm,
thu nhập, vừa bảo đảm ASXH bản thân và gia đình, vừa đóng góp vào
sự phát triển kinh tế - xã hội. Thông thường, khi thiếu thu nhập, một
mặt, người dân có thể khơng có điều kiện được hưởng các dịch vụ xã
hội cơ bản; mặt khác, ở một số nơi, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng
kinh tế khó khăn, ngay cả khi có thu nhập, người dân có thể vẫn khó tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản, hoặc chỉ tiếp cận được dịch vụ kém chất
lượng. Trong khi đó, đây cũng là nhu cầu thiết yếu của người dân. Việc
tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản không chỉ là quyền của con người mà nó
cịn có ý nghĩa với ASXH và sự phát triển quốc gia trong dài hạn, bởi
con người có trình độ giáo dục, được bảo đảm y tế, sẽ phát triển thành
những cơng dân có trình độ, có ích, có thể có việc làm với thu nhập bảo
đảm và góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Các bộ phận trong lưới ASXH có ở các có mối liên hệ, tác động qua lại
với nhau và cùng hướng tới thực hiện chức năng của lưới ASXH là phòng
ngừa rủi ro, bảo vệ người dân và thúc đẩy sự phát triển.
Như vậy, lưới ASXH là một hệ thống hướng tới xây dựng nền kinh tế vì
con người thông qua việc bảo đảm thu nhập và tiếp cận dịch vụ xã hội cơ
12


bản cho mọi người dân, đặc biệt tập trung hỗ trợ nhóm đối tượng yếu thế
trong xã hội là người già, người khuyết tật, phụ nữ, trẻ em và người
nghèo. Xây dựng lưới ASXH bao phủ rộng rãi tới toàn bộ dân số để bảo

đảm mọi người đều có khả năng tiếp cận và thụ hưởng ASXH là yêu cầu
hướng tới của nền kinh tế vì con người.
2. Thực trạng báo chí về an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay

Tiểu luận thực hiện khảo sát trên 3 trang báo điện tử Tuổi Trẻ, Dân
Sinh và Tạp chí Lao động & Xã hội từ ngày 15/10 – 30/10, phân loại nội
dung theo 4 mục: Việc làm, thu nhập, giảm nghèo; Bảo hiểm xã hội; Trợ
giúp xã hội cho các nhóm đặc thù; Dịch vụ xã hội cơ bản. Bài tiểu luận
hy vọng sẽ phản ánh phần nào thực trạng truyền thơng về an sinh xã hội
của báo chí ở Việt Nam hiện nay, đồng thời rút ra những nhận xét ban
đầu nhằm đề xuất một số giải pháp có giá trị để hồn thiện hoạt động
báo chí về lĩnh vực này.
Có thể khẳng định, an sinh xã hội là lĩnh vực thơng tin khơng thể
thiếu trên báo chí và thực tế cũng cho thấy, tất cả các số báo được khảo
sát đều có thơng tin về lĩnh vực này. Trong khuôn khổ 3 tờ báo trong
thời gian 2 tuần từ ngày 15/10/2021 – 30/10/2021, tiểu luận khảo sát các
tác phẩm báo chí theo 2 tiêu chí chính là bài và tin.
Kết quả khảo sát:
/>qaRK2PL4TUlDXA8mm8p3Y/edit?usp=sharing
a. Tổng quan
- Khảo sát thu được 339 bài viết, 335 bài thuộc thể loại tin, 4 bài
viết thuộc thể loại bài viết sâu phân tích.
- Các bài viết về đề tài an sinh xã hội chủ yếu thuộc thể loại tin,
trong đó bao gồm đa số các bài là tin sâu (cung cấp thông tin một
cách chi tiết, trả lời đầy đủ 5W-1H về tin phản ánh)
13


- Các bài viết xoay quanh chủ đề tình hình dịch bệnh, đều phản ánh
đưa thơng tin về chính sách, các gói hỗ trợ, của Nhà nước, chính

quyền các tỉnh/thành phố và các tổ chức xã hội nhằm đảm bảo
điều kiện an sinh xã hội đời sống người dân.
- Sự khác nhau về hình thức, nội dung và chất lượng của thông tin
an sinh xã hội trên các tờ báo do những đặc điểm (nhiệm vụ, chức
năng, đối tượng công chúng, phạm vi hoạt động, chủ trương lãnh
đạo của tòa soạn, định hướng của cơ quan chủ quản) và trình độ,
quan điểm, điều kiện của mỗi tờ báo quy định.
b. Số liệu chi tiết
(1) Báo Tuổi trẻ

Báo Tuổi trẻ ra đời ngày 2/9/1975, là cơ quan ngơn luận của Đồn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh TP. HCM. Tháng 6 năm 2008,
nhật báo Tuổi Trẻ phát hành trên cả nước Việt Nam với số lượng
gần 500.000 bản/ngày, số lượng ấn bản lớn nhất đất nước của một
nhật báo. Năm 2015, số lượng tác phẩm báo điện tử của Tuổi trẻ
đã phát triển vượt trên cả báo in. Chất lượng các tác phẩm của
Tuổi trẻ được đánh giá là đa dạng, sát sao, đặc biệt quan tâm đến
đời sống của nhân dân.
• Số lượng bài viết: 144 bài
• Trung bình: 9 bài/ngày
• Phân loại nội dung:
Tổn
g

Chính sách
việc làm

Bảo hiểm
xã hội


Hỗ trợ
xã hội

Dịch vụ
xã hội

144

35

7

37

62

• Tỷ lệ nội dung thơng tin về an sinh xã hội:
• Số liệu này cho thấy mức độ quan tâm nhất định của báo chí
về vấn đề an sinh xã hội hiện nay. Đặc biệt ở một trang báo lớn
14


như Tuổi trẻ, số liệu này đã phản ánh được vị trí của truyền
thơng báo chí đối với cơng tác an sinh xã hội của nhân dân.
• Trong tình hình dịch bệnh Covid-19, đề tài chủ yếu Tuổi trẻ
quan tâm và phản ánh là các dịch vụ xã hội cơ bản (44%), sau
đó là những trợ giúp cho nhóm người yếu thế trong xã hội
(26%). Tuy nhiên vấn đề các gói hỗ trợ cho người yếu thế lại
khơng được báo khai thác nhiều như vị trí cần thiết của nó
trong tình hình hiện tại.

• Tần suất bài viết các ngày không bằng nhau, phân bổ bài trên
các mục không đồng đều (đa số là mục Thời sự, Kinh doanh,
các mục Văn hóa, Giáo dục số lượng ít)
(2) Báo Dân sinh

Báo điện tử Dân sinh là cơ quan ngơn luận chính thức của Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội. Là một trang báo điện tử hiếm hoi
có một chuyên mục riêng về đề tài An sinh xã hội, những vấn đề
được Dân sinh quan tâm về An sinh xã hội có đạt được nhiều giá
trị xã hội đối với người đọc. Báo Dân sinh luôn đi đầu trong công
tác chuyển tải các thơng tin về chủ trương, chính sách, pháp luật
về lĩnh vực lao động, việc làm, người có công và xã hội, làm cầu
nối lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân để đóng góp cho ngành
trong việc hồn thiện thể chế, pháp luật.
• Số lượng bài viết: 146 bài
• Trung bình: 10 bài/ngày
• Phân loại nội dung:
Tổn
g

Chính sách
việc làm

Bảo hiểm
xã hội

Hỗ trợ
xã hội

Dịch vụ

xã hội

146

18

14

53

59

• Tỷ lệ nội dung thông tin về an sinh xã hội:
15


• Nội dung chủ yếu tập trung vào các dịch vụ xã hội cơ bản cho
người dân (41%), những chính sách hỗ trợ cho người gặp khó
khăn trong dịch bệnh (37%), các gói hỗ trợ cho từng nhóm đặc
thù khác nhau – một thơng tin cần thiết ở tình hình hiện nay –
được chú trọng và cập nhật thường xuyên, nhanh chóng.
• Báo đã chú ý phân bổ đều các bài viết cho các nội dung an
sinh xã hội khác nhau.
• Tần suất bài các ngày đều nhau.
(3) Báo Lao động & Xã hội

Báo Lao động & Xã hội được thành lập ngày 25/8/1993. Nội dung
chủ yếu tuyên truyền thực hiện chính sách lao động, việc làm, xã
hội và người có cơng thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Lao
động, Thương binh & Xã hội.

• Số lượng bài viết: 49 bài
• Trung bình: 3 bài/ngày
• Phân loại nội dung:
Tổn
g

Chính sách
việc làm

Bảo hiểm
xã hội

Hỗ trợ
xã hội

Dịch vụ
xã hội

49

12

3

21

13

• Tỷ lệ nội dung thơng tin về an sinh xã hội:
• Số lượng bài viết về đề tài An sinh xã hội ít trong khi đây lại là

mảng thơng tin chính trên trang báo. So với Tuổi trẻ và Dân
sinh, một cơ quan ngơn luận chính thức của Bộ Lao động,
Thương binh & Xã hội lại có số lượng bài nhỏ hơn và sơ sài
hơn.
• Khơng có bài phân tích sâu về mảng này

16


c. Nhận xét thực trạng báo chí về an sinh xã hội ở Việt Nam hiện
nay
(1) Có cái nhìn chính xác về tầm quan trọng của an sinh xã hội ở Việt
Nam hiện nay
Số lượng bài viết về đề tài an sinh xã hội hiện nay ở mức
khá cao. Báo Tuổi trẻ trong 15 ngày (24/8-31/8) đã có tới 168
bài báo về đề tài này, chứng minh một luận điểm rằng đây là đề
tài “cấp bách” và “quan trọng” trong tình hình xã hội hiện nay
khi mà nhu cầu an sinh xã hội của người dân ngày một cần phải
chú trọng tăng cao. Báo chí đóng vai trị là tiếng nói của nhân
dân vì vậy việc phản ánh tình hình an sinh xã hội trên mặt báo là
nghĩa vụ, nhiệm vụ của báo chí.
Từ cuối tháng 4/2021 đến nay, dịch bệnh Covid-19 diễn
biến rất phức tạp, xuất hiện biến chủng mới, trong đó có biến
chủng Delta có tốc độ lây lan nhanh chóng. Biến chủng Delta
đang gây ra làn sóng lây lan trên diện rộng tại TP.HCM. Hiện
nay, truyền thông (báo chí) về thơng tin dịch bệnh hoạt động rất
mạnh mẽ, từ việc thường xuyên cập nhật số ca nhiễm trong
nước, số ca hồi phục và tử vong trên các phương tiện truyền
thông đại chúng cho đến những tin bài, phóng sự, câu chuyện,
thước phim khắc họa hình ảnh các chiến sĩ áo trắng đang ngày

đêm quên mình vì người bệnh ở tâm dịch đã làm lay động hàng
triệu trái tim; nghĩa cử cao đẹp trong mùa dịch của các cấp,
ngành từ Trung ương đến địa phương; những người đang thực
hiện nhiệm vụ phòng, chống dịch để bảo vệ “vùng xanh” cho
người dân tại Hà Nội… Những thông tin từ báo chí giúp người
dân biết hành xử đúng đắn, góp phần vào cơng tác phịng, chống
dịch, kiểm sốt tốt tình hình, hạn chế sự lây lan của dịch bệnh.
17


Tình hình COVID-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến
nhiều mặt của cuộc sống. Trong tình hình như vậy, vấn đề an sinh
xã hội và các giải pháp đảm bảo cuộc sống của người dân đặc
biệt được quan tâm, báo chí cũng khơng là ngoại lệ. Dưới góc độ
phản ánh, báo chí đã nói lên tiếng nói của người dân về những
thiếu thốn, những khúc mắc thiết thực chưa được giải đáp
trong mùa dịch. Đồng thời, báo chí giúp người dân nhận được
nhiều hơn nữa sự quan tâm và giúp đỡ của chính quyền, của các
mạnh thường quân,...
Báo chí đã thể hiện sự định hướng rất tích cực trong suốt
cuộc chiến chống dịch Covid-19, đó là, kịp thời phản ánh các chủ
trương, chính sách của Đảng, Chính phủ về cơng tác phòng
chống dịch, thể hiện sự chỉ đạo thường xuyên, liên tục, nhất quán
và hiệu quả về công tác này, giúp người dân yên tâm và tin tưởng
về hoạt động phịng chống dịch. Thơng tin của báo chí cơ bản
đúng mực, phù hợp, không gây hoang mang, lo lắng cho người
dân nhưng cũng không làm dư luận chủ quan, thờ ơ.
(2) Chất lượng bài viết an sinh xã hội trong khoảng thời gian dịch
bệnh được đầu tư cao
Dịch bệnh hoành hành là khoảng thời gian đòi hỏi cao ở

mạng lưới an sinh xã hội nhà nước. Cũng vì nhu cầu đó đặt ra,
báo chí càng phải phát huy hơn nữa vai trị của mình trong cơng
tác truyền thơng về an sinh xã hội. Các bài viết đã đề cập đến
nhiều gói hỗ trợ cho nhiều nhóm đặc thù khác nhau trong xã hội.
Nhiều nhà báo thực sự đã “xông pha” ở những điểm “nóng”,
trong các bệnh viện, ở các khu cách ly, ở biên giới… để có
những thơng tin, hình ảnh chân thực, sống động, phong phú.
Thậm chí có trường hợp nhà báo đã bị nhiễm Covid-19, đủ thấy
18


nhiều người đã tác nghiệp trong tâm thế của những “phóng viên
chiến trường” để kịp thời thơng tin đến bạn đọc, và hơn hết là
việc phản ánh đời sống người dân cũng là điều vô cùng quan
trọng để cho thấy tình hình xã hội theo sát con người, nhân loại
của quốc gia. Các báo luôn dành số lượng các chuyên trang,
chuyên mục với thời lượng truyền thông phù hợp nhằm nhân
rộng những điển hình, nhân tố tích cực, cổ vũ các phong trào,
góp phần củng cố, khẳng định niềm tin của người dân vào chủ
trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước
trong tình hình dịch bệnh.
(3) So sánh số lượng tin bài về ASXH giữa các tờ báo được khảo
sát cho thấy thực trạng về mức độ quan tâm rất khác nhau
Báo Tuổi trẻ và Dân sinh có lượng bài nhiều hơn so với Lao
động & Xã hội. Trong khi lượng bài trung bình của 2 báo lớn
như Tuổi trẻ, Dân sinh lần lượt là 144, 146 bài (chiếm 43%),
khoảng 10 bài/ngày trên đa dạng chuyên mục thì một cơ quan
ngơn luận thuộc Bộ Lao động, Thương binh & Xã hội như báo
Lao động & Xã hội, có liên quan mật thiết đến vấn đề an sinh xã
hội lại chỉ có 49 bài trong 2 tuần (chiếm 14%), trung bình 3

bài/ngày, có ngày cịn khơng có – một con số quá thấp. Kết quả
khảo sát cho thấy mức độ quan tâm, phản ánh của các báo
không đồng đều, mức độ quan tâm của các cơ quan trụ cột còn
chưa thật sự đạt yêu cầu.
(4) Nội dung phản ánh về ASXH còn chưa đồng đều
Trong tổng số 339 các bài báo đăng về an sinh xã hội được khảo
sát, số bài về nội dung các dịch vụ xã hội cơ bản là 134 bài
(chiếm 40%), trợ giúp xã hội cho các nhóm đặc thù là 111 bài
(chiếm 33%) trong khi nội dung về việc làm, thu nhập, giảm
19


nghèo là 65 bài (chiếm 20%), nội dung bảo hiểm chỉ có 24 bài
(chiếm 7%).
Kết quả khảo sát cho thấy, với nội dung phản ánh về ASXH –
trụ cột chính của ASXH rất mờ nhạt. Tờ báo lớn có tầm ảnh
hưởng như Tuổi trẻ cũng tuyên truyền về nội dung này không
thường xuyên, liên tục. Điều này cho thấy các tờ báo của các bộ,
ngành chưa có sự quan tâm thỏa đáng, chưa đánh giá được vị trí,
vai trị của BHXH trong hệ thống chính sách ASXH. Do đó,
hiệu quả truyền thông về BHXH trên hầu hết các bào chưa đạt
yêu cầu. Ngay cả một cơ quan chính trong trụ cột ASXH như
báo Lao động & Xã hội cũng chưa có thái độ quan tâm cần thiết
về nội dung này.
3. Giải pháp nhằm hồn thiện hoạt động báo chí về an sinh xã hội

- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, và quản lý báo chí trong hoạt
động truyền thơng về an sinh xã hội: Giải pháp này yêu cầu xác
định rõ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý các cơ quan báo chí
truyền thơng về an sinh xã hội. Giải pháp này muốn đạt hiệu

quả cần có sự phối hợp chặt chẽ trong tổ chức thực hiện của cả
hệ thống chính trị với các cơ quan báo chí, truyền thơng.
- Tăng cường hợp tác, liên thơng, nâng cao hiệu quả hoạt động
báo chí khu vực an sinh xã hội: Quan tâm, đầu tư, xây dựng và
phát triển hệ thống báo chí chuyên ngành an sinh xã hội, để lực
lượng này đủ sức, đủ tầm cung cấp thông tin chính thống, chủ
động định hướng và làm chủ thơng tin, tăng cường hiệu quả đưa
tin, phản ánh và hướng dẫn dư

luận xã hội.

- Nâng cao chất lượng nội dung và hình thức thơng tin về an sinh
xã hội trên báo chí: Việc nâng cao chất lượng hình thức thơng tin
an sinh xã hội bằng các hình thức, phương pháp được thể hiện
20


thuyết phục, dễ hiểu, góp phần làm tăng thêm hiệu lực, hiệu quả
thơng tin, trong đó việc sử dụng tốt thể loại báo chí là một trong
những yếu tố có vị trí quan trọng hàngđầu.
- Ứng dụng cơng nghệ thơng tin hiện đại trong hoạt động báo chí
khu vực an sinh xã hội: An sinh xã hội có đối tượng tham gia,
thụ hưởng đông đảo trong xã hội, việc ứng dụng công nghệ thông
tin hiện đại trong hoạt động báo chí tiết kiệm nguồn lực; tận
dụng tối đa ưu thế, tiện ích kỹ thuật số và hệ thống internet, phát
huy thế mạnh của truyền thông đa phương tiện tới quảng đại
công chúng.
- Nâng cao năng lực đội ngũ nhà báo viết về an sinh xã hội: Đây
là giải pháp nhằm nâng cao năng lực của người phóng viên trực
tiếp thu thập, xử lý và cung cấp thông tin an sinh xã hội tới cơng

chúng. Muốn báo chí chủ động trong việc phát hiện đề tài, tổ
chức các tác phẩm báo chí phản ánh nhanh, đúng, trúng hay về
những vấn đề đang đặt ra trong hoạt động an sinh xã hội, người
phóng viên phải nắm chắc chủ trương chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, cùng các quy định về an

sinh xã hội.

- Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động báo chí cơ quan trụ cột
của hệ thống an sinh xã hội: Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ,
phóng viên, nhân viên tịa soạn báo BHXH, tạp chí BHXH cả
chun mơn nghiệp vụ báo chí, kỹ năng tác nghiệp và hiểu biết
chính sách, chế độ, pháp luật an sinh xã hội nói chung, BHXH,
BHYT, BHTN nói riêng; đồng thời đổi mới mạnh mẽ nội dung
phản ánh, hình thức thể hiện của các cơ quan báo chí này trong
truyền thơng về an sinh xã hội.
- Tài chính, cơ sở vật chất bảo đảm cho việc thực hiện công tác
truyền thông an sinh xã hội: Bên cạnh việc quan tâm đến chất
lượng nhân lực làm công tác truyền thông, các bộ, ngành liên
21


quan đến công tác quản lý, tổ chức thực hiện chính sách ASXH,
nhất là ngành BHXH cần quan tâm dành nguồn kinh phí thỏa
đáng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho công tác truyền
thông và hỗ trợ các cơ quan báo chí trong việc hợp tác truyền
thơng ASXH.
- Tổ chức khen thưởng cho những nhà báo, phóng viên sáng tạo
được những tác phẩm hay về đề tài an sinh xã hội: Các hoạt
động báo chí về an sinh xã hội chưa được chú trọng do các cơ

quan chủ quản chưa đặt trọng tâm vào đề tài này. Cơ quan chủ
quản cần khuyến khích nhân lực tham gia tích cực vào lĩnh vực
an sinh xã hội, tạo tiền để cho những tác phẩm hay được ra đời,
cũng như là trao tặng, khen thưởng cho những bài viết tốt, có
thành tựu cao.
4. Kỹ năng thực hành tổ chức thực hiện tác phẩm báo chí về an sinh

xã hội
- Có năng lực thu thập, xử lý và công cấp thông tin ASXH
ASXH là chính sách xã hội lớn, trong đó có những lĩnh vực mang
tính chun ngành sâu, những quy định của pháp luật về các chế
độ trợ cấp BHXH, BHYT, BHTN liên quan đến quyền lợi, nghĩa
vụ của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và nhân dân,
hết sức nhạy cảm, địi hỏi thơng tin phải chính xác, chân thực. Do
đó, người phóng viên phải hiểu sâu về chế độ, chính sách, pháp
luật để tự tin, chủ động khai thác đề tài, nhanh chóng, kịp thời
chuyển tải thông tin tới công chúng.
- Chủ động trong việc phát hiện đề tài
Muốn báo chí tổ chức các tác phẩm báo chí phản ánh nhanh,
đúng, trúng, hay về những vấn đề đặt ra trong hoạt động ASXH,
phóng viên phải nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước cùng các quy định về ASXH. Phóng viên cần
phải có nhãn quan chính trị tốt, sự am hiểu về các chế độ, chính
22


sách ASXH và thực tiễn sáng tạo tác phẩm về đề tài này. Cần xây
dựng mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với những cán bộ cơng tác
trong lĩnh vực này để thường xuyên thu thập được thông tin, dữ
liệu cả về lý luận lẫn thực tiễn thực hiện các chế độ, chính sách

ASXH.
- Thường xuyên tham gia các hội thảo khoa học về ASXH và nâng
cao năng lực, kỹ năng viết về ASXH.

23



×