Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Khóa luận Pháp luật Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Viêt Nam làm viêc ở nước ngoài tại địa bàn Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.17 KB, 69 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TRƯƠNG THU HUYỀN

PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG
VIỆT NAM LÀM VIỆC TẠI NHẬT BẢN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-L

HÀ NỘI, 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TRƯƠNG THU HUYỀN

PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG
VIỆT NAM LÀM VIỆC TẠI NHẬT BẢN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: Th.S Nguyễn Lê Thu

HÀ NỘI, 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là cơng trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Khóa luận chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực.
Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo vệ
Khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyền Trương Thu Huyền

i


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................................. iii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ............................................................................ iv
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ............... 5
1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội ......................................................... 5
1.1.1.Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội trên thế giới ............................... 5
1.1.2.Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội Việt Nam ................................... 8
1.2. Khái niệm và phân loại Bảo hiểm xã hội ......................................................................10
1.2.1.Khái niệm Bảo hiểm xã hội ............................................................................................10
1.2.2.Phân loại Bảo hiểm xã hội ..............................................................................................12
1.3. Đặc điểm của Bảo hiểm xã hội.........................................................................................14

1.4. Vai trò bảo hiểm xã hội.....................................................................................................16
1.4.1. Đối với người lao động ...................................................................................................16
1.4.2. Đối với tổ chức sử dụng lao động................................................................................16
1.4.3. Đối với nền kinh tế - xã hội ...........................................................................................17
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
VIỆT NAM LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI ......................................................... 18
2.1. Khái niệm người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài ..................................18
2.1.1. Pháp luật Quốc tế .............................................................................................................18
2.1.2. Pháp luật Việt Nam ......................................................................................... 24
2.2. Chế độ Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài 27
2.2.1. Quyền hưởng Bảo hiểm xã hội cho người lao động di trú .............................. 27
2.2.2. Quyền được hưởng Bảo hiểm xã hội của người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam .............................................................. 29
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI CHO NGƯỜI VIỆT NAM LAO ĐỘNG
Ở NHẬT BẢN ......................................................................................................... 39
3.1. Thực trạng người lao động Việt Nam đi làm việc theo hợp đồng ở Nhật Bản. ..39
3.2. Thực trạng Pháp luật Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm việc
theo hợp đồng ở Nhật Bản.........................................................................................................44
i


3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm xã hội cho người lao
động Việt Nam làm việc theo hợp đồng ở Nhật Bản. ........................................................52
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 57
DANH MỤC THAM KHẢO .................................................................................. 58

ii



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ

BHXH

Bảo hiểm xã hội

ILO

Tổ chức Lao động quốc tế

ICESCR

Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, xã hội và văn hóa

ICRMW

Cơng ước quốc tế về các quyền của người lao động di trú và
các thành viên trong gia đình họ

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động


TNLĐ-BNN

Tai nạn lao động – Bệnh nghề nghiệp

Quỹ BHXH

Quỹ Bảo hiểm xã hội

iii


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
STT

Số hiệu bảng

1

Bảng 3.1

Tên bảng
Một số nước/vùng lãnh thổ tiếp nhận người lao

Trang
40

động Việt Nam nhiều nhất năm 2012-2016
2


Bảng 3.2

Tình hình lao động Việt Nam đang làm việc tại
nước ngoài/vùng lãnh thổ bên ngoài và mức thu
nhập trung bình hằng tháng năm 2014

iv

43


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại tồn cầu hóa khơng chỉ đặc trưng bời tự do hóa thương mại,
dịch vụ, đầu tư và vốn, mà cịn bởi phong trào xuyên quốc gia của người dân để tìm
kiếm cuộc sống tốt hơn và có cơ hội việc làm nhiều hơn. Vì vậy, người lao động di
chuyển từ nước này sang nước khác đã trở thành hiện tượng khá phổ biến, tuy
không nhộn nhịp như tư bản và công nghệ nhưng lao động cũng là một yếu tố sản
xuất ngày càng vượt biên giới tìm nơi có mức thù lao cao hơn. Tuy nhiên, khác với
sự di chuyển của lao động tri thức đã có từ trước thì xuất và nhập khẩu lao động
giản đơn hay lao động chân tay, lao động phổ thông là hiện tượng không còn mới
trong giai đoạn hiện nay.
Trên thế giới hiện tại, có hai loại lao động di cư cơ bản: di cư từ vùng này
đến vùng khác trong phạm vi biên giới của một quốc gia và di cư từ quốc gia này
đến quốc gia khác. Trong phạm vi bài nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu sâu
trong lĩnh vực bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động di cư nhất là đối với lao
động Việt Nam khi đi làm việc ở nước ngoài. Cụ thể là chế độ Bảo hiểm xã hội
dành cho người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài.
BHXH là trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội, vì vậy việc hồn thiện chính
sách BHXH đóng vai trị to lớn trong việc góp phần đảm bảo ổn định đời sống cho

cán bộ, công chức, quân nhân và NLĐ. Đối với nước ta bảo đảm ngày càng tốt hơn
hệ thống an sinh xã hội luôn là chủ trương, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước, thể
hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định
chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước.
Ở nước ta, pháp luật BHXH đã được Nhà nước ban hành và thực hiện hơn
60 năm nay. Do hoàn cảnh lịch sử đất nước nên pháp luật BHXH được hình thành
và phát triển trong cơ chế quản lý hành chính, tập trung bao cấp. Hiện nay, Việt
Nam đang trên đà phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước nên chúng ta cũng không thể nằm ngoài bối cảnh
chung của thế giới được. Trong thực tế hiện nay, hệ thống pháp luật BHXH của
chúng ta đã và đang bộc lộ nhiều nhược điểm cả về mặt lý luận cũng như mặt thực
tiễn; cả trên mặt pháp luật cũng như việc tổ chức thực hiện. Để có căn cứ cho việc
hoàn thiện pháp luật BHXH cũng như hoàn thiện chế độ BHXH cho NLĐ Việt Nam
1


làm việc ở nước ngoài cho phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội đồng thời phải
đồng bộ với các quy định của pháp luật kinh tế, xã hội khác có tính đến pháp luật
Nhật Bản thì việc nghiên cứu “chế độ Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt
Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” là rất cần thiết.
Với những lý do trên, người thực hiện đề tài đã lựa chọn đề tài “Pháp luật
Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Viêt Nam làm viêc ở nước ngoài tại địa bàn
Nhật Bản” để viết với mong muốn là được góp một phần vào cơng viêc nghiên cứu
nhằm xây dựng và hồn thiện pháp luật Bảo hiểm xã hội đối với người lao động
Việt Nam làm việc ở nước ngồi.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
BHXH khơng phải vấn đề mới nhưng nó trở thành mối quan tâm của các
nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Trong thời gian gần đây, nhiều nhà khoa
học, nhà nghiên cứu và những người quan tâm đến BHXH đã có nhiều bài viết,
cơng trình khoa học nhằm đóng góp ý kiến xây dựng hệ thống BHXH ở nước ta:

cuốn sách “Pháp luật an sinh xã hội – những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Tiến
sĩ Nguyễn Hiền Phương, Phạm Lan Hương (2012) “Pháp luật về bảo hiểm xã hội
bắt buộc và thực tiễn thực hiện trên địa bản tỉnh Phú Thọ”, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Đại học Luật Hà Nội, Nguyễn Thị Lan Hương (2012) với nội dung “Pháp luật
về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ
Luật Kinh tế, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội . Bên cạnh đó, rất nhiều bài
viết của các nhà khoa học trên tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành về nội dung
BHXH: PGS. Lê Thị Hoài Thu Lê Thị Hoài Thu (2002) với nội dung “Bảo hiểm xã
hội trong hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam” trên tạp chí khoa học ĐHQGHN
Kinh tế - Luật, Lưu Quang Tuấn (2007) với nội dung “Đánh giá các chế độ Bảo
hiểm xã hội hiện hành ở Việt Nam” trên tạp chí nghiên cứu kinh tế …
Bên cạnh đó vấn đề người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi
cũng có các cơng trình nghiên cứu nhưng chủ yếu dưới khía cạnh như: Hoàng Kim
Khuyên (2011) với nội dung “Bảo vê quyền và lợi ích của người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số nước
hữu quan”, Luận văn thạc sĩ Luật Quốc tế, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội,
Bùi Thị Hịa (2014) với nội dung “Hồn thiện pháp luật về quyền của người lao
động di trú ở Việt Nam” Luận văn Thạc sĩ ngành Pháp luật về quyền con người,
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Nguyễn Thị Thu Hiền (2015) với nội dung
2


“Hợp đồng đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài”, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội , Nguyễn Phúc Khanh (2004) “Xuất
khẩu lao động với chương trình quốc gia về việc làm – Thực trạng và giải pháp” –
Đề tài khoa học cấp Bộ, Phan Huy Đường(2009), bài viết Nâng cao chất lượng dịch
vụ của nhà nước về bảo vệ quyền lợi người lao động Việt Nam ở nước ngoài, Tạp
chí Kinh tế và phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân …
Ở mức độ nhất định, các cơng trình nêu trên đã phân tích, đánh giá và đưa
ra những kiến nghị liên quan đến việc nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đưa

người lao động Việt Nam ra nước ngồi làm việc thơng qua hình thức hợp đồng và
tình hình BHXH trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam những hầu như các bài
trên chưa đánh giá được một cách toàn diện những bất cập của chế độ BHXH cho
NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi theo hợp đồng.
Do đó, đề tài khóa luận “Pháp luật Bảo hiểm xã hội đối với người lao động
Viêt Nam làm viêc ở nước ngoài tại địa bàn Nhật Bản” sẽ là một cơng trình nghiên
cứu các vấn đề xoay quanh chế độ BHXH cho NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài về đối tượng hưởng chế độ BHXH, cách thức đóng quỹ BHXH, mức độ
hưởng các chế độ BHXH cho NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài kể từ khi
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có hiệu lực. Trên cơ sở đó đánh giá những tác
động, ảnh hướng của pháp luật Viêt Nam với thực tiến điều chỉnh quan hệ đưa
người Việt Nam đi làm việc ở Nhật Bản theo hợp đồng nhằm đề xuất giải pháp,
kiến nghị hướng tới việc hoàn thiện pháp luật phù hợp xu thế vận động của thị
trường lao động quốc tế.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ đề tài
- Nghiên cứu vấn đề lí luận BHXH và chính sách về BHXH ở nước ta
dành cho NLĐ Việt Nam làm việc tại Nhật Bản hiện nay: các chế độ BHXH bắt
buộc, BHXH tự nguyện, BHTN được qui định trong pháp luật – Thực trạng áp dụng
qui định pháp luật về BHXH trong thực tế, những kết quả đạt được và những tồn
tại cần khắc phục để đảm bảo BHXH là công cụ hữu hiệu nhất của sàn an sinh xã
hội ở nước ta trong thời gian tới.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
pháp luật về BHXH; đóng góp những ý kiến đề xuất cho việc sửa đổi Luật BHXH
để phù hợp thực tế cuộc sống và sự phát triển của nước ta trong thời gian tới.
3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu pháp luật BHXH trong đó cụ thể là BHXH

bắt buộc đối với NLĐ Việt Nam làm việc ở Nhật Bản – là đối tượng tham gia
BHXH bắt buộc được qui định trong các văn bản pháp luật ở nước ta hiện nay.
b. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung vào các vấn đề lí luận của pháp luận về BHXH đối với
NLĐ Việt Nam làm việc ở nước ngoài cụ thể là làm việc trên địa bàn Nhật Bản
đang được qui định trong Luật BHXH năm 2014 và các văn bản hướng dẫn. Ngoài
ra, trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, đề tài còn tập trung nghiên cứu đánh
giá thực trạng pháp luật BHXH cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này trong
thực tế ở nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, phép biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin.
- Các phương pháp khác: Thu thập tài liệu, tư liệu, số liệu; phân tích tổng
hợp; so sánh; đồ thị; tham khảo ý kiến chun gia…
6. Tính đóng góp của đề tài
- Hồn thiện khóa luận này, hi vọng những kiến thức khoa học trong khóa
luận sẽ đánh giá một cách khái quát thực trạng pháp luật BHXH cho NLĐ Việt
Nam làm việc ở nước ngoài cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này trong thực
tế ở nước ta hiện nay.
- Mong rằng những kiến nghị được đề xuất trong khóa luận này sẽ là
những ý kiến đóng góp vào việc sửa đổi Luật BHXH trong thời gian tới.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục
viết tắt, khóa luận gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về Bảo hiểm xã hội
Chương 2: Pháp luật Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm
việc ở nước ngoài.
Chương 3: Thực trạng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Bảo
hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm việc ở Nhật Bản.


4


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI

1.1.

Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội

1.1.1.

Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội trên thế giới
Để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, con người cần phải lao

động. Nhưng trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ
điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động và những may mắn khác để có một cuộc
sống hạnh phúc. Ngược lại, người nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh
như ốm đau, tai nạn, già yếu, thiếu việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của
những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác... Khi rơi vào
các trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống khơng vì thế mà mất đi, trái
lại cịn tăng lên, thậm chí xuất hiện nhiều nhu cầu mới. Bởi vậy, để khắc phục
những rủi ro, bất hạnh, giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngồi việc tự
mình khắc phục, người lao động cần sự bảo trợ của cộng đồng và xã hội.Sự tương
trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong quá
trình phát triển của xã hội, đặc biệt là sau cuộc cách mạng cơng nghiệp, hệ thống
BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Q trình cơng nghiệp hóa
làm cho đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ chủ yếu dựa
vào thu nhập do lao động làm thêm đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các
trường hợp bị ốm đau, tai nạn, mất việc làm, già yếu... đã trở thành mối đe dọa đối
với cuộc sống bình thường của những người khơng có nguồn thu nhập nào khác

ngồi tiền lương. Điều đó địi hỏi phải có sự tương thân, tương ái giữa những người
lao động, đồng thời đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp nhằm bảo đảm
cuộc sống cho họ.
Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu
cầu công nhân phải đóng góp để dự phịng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật nhằm
san sẻ rủi ro giữa những người lao động.[28]
Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham
gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro nghề
nghiệp, tuổi già, tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã mở ra hướng mới với
cơ chế ba bên: người lao động, giới chủ và Nhà nước nhằm để ý nghĩa bảo vê người
lao động có hiệu quả hơn. Đồng thời, sự bảo vệ này đã được mở rộng ra không chỉ
5


là đối tượng mà cả nội dung bảo vệ. Đối tượng được bảo vệ ngày càng được mở
rộng từ người lao động làm công ăn lương trong các doanh nghiệp đến người lao
động tự tạo việc làm, lao động nông nghiệp. Nội dung bảo vệ cũng được mở rộng,
ban đầu mới chỉ là bảo vệ người lao động trước những rủi ro do ốm đau, thì 100
năm sau phạm vi bảo vệ đã nới rộng như các tai nạn lao động, thương tật (trong quá
trình lao động), tuổi già, tử tuất... (ngồi q trình lao động). Các chế độ BHXH đã
trở thành một hệ thống với nhiều đôi tượng tham gia và thụ hưởng khác nhau, với
nhiều mơ hình thực hiện khác nhau. Mặc dù vậy, đối tượng bảo vệ của bảo hiểm xã
hội vẫn nhỏ hẹp so với cả cộng đồng dân cư. Để xã hội được ổn định và phát triển,
một trong những nền tảng cơ bản là đời sống của người dân phải được an toàn,
được đảm bảo.
Mơ hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ
Latin, Bắc Mỹ, Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới
thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á, châu Phi và
vùng Caribê. BHXH dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống An sinh
xã hội, được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền cơ bản của của

con người.
Bảo hiểm xã hội ra đời và lan rộng rất nhanh. Quá trình phát triển của
BHXH trải qua các mốc sau:
+ Năm 1838 chế độ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ra đời
lần đầu tiên ở nước Phổ (Cộng hòa liên bang Đức).
+ Năm 1850 và năm 1861 các quỹ ốm đau được thành lập ở Đức, Bỉ.
+ Năm 1883, nước Đức ban hành đạo luật đầu tiên về BHXH.
+ Năm 1894 và 1896 nước Bỉ và Hà Lan đã được ban hành Bộ luật đấu tiên
về các tổ chức tương tế.
+ Ở Mỹ, đạo luật đầu tiên về An sinh xã hội( trong đó BHXH là hạt nhân)
đươch ban hành vào năm 1935. Trong đạo luật này có quy định về chế độ bảo hiểm
tuổi già, tử tuất, tàn tật và trợ cấp thất nghiệp cho người lao động.
+ Thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II (1940-1945) có 3 sự kiện lớn đánh dấu
quá trình ra đời và phát triển BHXH, đó là:
- Tổ chức lao động quốc tế đã tổ chức thảo luận một số vấn đề liên quan
đến BHXH như: tàn tật và sinh đẻ liên quan đến lao động nữ. Vấn đề tử tuất của các
binh sỹ trong chiến tranh.
6


- Luật BHXH ở Mỹ đã được thông qua.
- Kế hoạch Beveridge (1942) đã được Chính phủ Bỉ thơng qua để chuẩn bị
thành lập hệ thống BHXH ở Bỉ.
+ Ngày 10/12/1948, Đại hội đồng liên hiệp quốc Tuyên ngôn nhân quyền và
trong đó có đoạn: "Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội, có quyền về
kinh tế, xã hội và văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”.
+ Ngày 25/6/1952, hội nghị toàn thể của tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã
thông qua Công ước số 102 (công ước về an sinh xã hội)[52]. Nội dung công ước
được tập hợp từ các chế độ và các vấn đề an sinh xã hội đã có và thực hiện ở một số
nước trên thế giới trước đó. Sau Cơng ước số 102 đến nay hầu hết các nước ở Châu

á, Châu Phi và Châu Mỹ la tinh đều xây dựng cho mình một hệ thống BHXH phù
hợp với điều kiện kinh tế-xã hội; phù hợp với tương quan lực lượng giữa giới chủ
và giới thợ và phù hợp với thể chế chính trị trong mỗi thời kỳ ở từng nước. Cũng
sau công ước 102, một loạt các công ước quốc tế khác nhằm bổ sung, hồn thiện và
cụ thể hóa các vấn đề liên quan đến BHXH, như:
+ Công ước số 111 ra đời năm 1985, đề cập đến vấn đề việc làm và thất
nghiệp, chống phân biệt đối xử giữa những người lao động có mầu da, tơn giáo và
chủng tộc khác nhau.[58]
+ Công ước số 128 ra đời năm 1967 nói về trợ cấp tàn tật, tuổi già và tiền
tuất.[59]
+ Công ước số 156 ra đời năm 1981 đã khuyến cáo các vấn đề về người lao
động và trách nhiệm gia đình[53].
+ Cơng ước số 158 ra đời năm 1982 nhằm mục đích chống lại việc giới chủ
cho người lao động thơi việc mà khơng có lý do chính đáng.[60]
Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của
giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế -xã hội, trình
độ chun mơn và nhận thức về BHXH của người lao động ngày càng được nâng
cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những sự kiện hoặc không may gặp phải
những rủi ro của người lao động ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự
ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng như những khó khăn mới được giải
quyết một cách ổn thỏa và có hiệu quả nhất. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu
khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy cần thiết phải tham
7


gia hệ thống BHXH và sự cần thiết được BHXH. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu
cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu
khách quan, một trong những quyền cơ bản của con người như trong Tuyên ngôn
nhân quyền của Đại Hội động Liên hợp quốc đã nêu.
1.1.2.


Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội Việt Nam
BHXH ra đời, phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của Nhà nước Việt

Nam từ năm 1945, sau khi Cách mạng tháng 8 thành công và Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà ra đời. BHXH được coi là lĩnh vực có q trình phát triển lâu đời
nhất trong hệ thống bảo đảm ở Việt Nam. Trong những năm qua, BHXH đã đóng
vai trị quan trọng trong bảo đảm xã hội cho người lao động, chủ yếu là công nhân
viên chức Nhà nước.
Cơ sở pháp lý đầu tiên của BHXH ở Việt Nam là Hiến pháp năm 1946.
Trên cơ sở của Hiến pháp, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh quy định về chế độ trợ
cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho cơng nhân viên chức Nhà nước, bao gồm sắc lệnh
số 29/SL ngày 12-03-1947, Sắc lệnh số 76/SL ngày 20-05-1950, Sắc lệnh số 77/SL
ngày 22-05-1950. Theo Hiến pháp năm 1946 và các Sắc lệnh đã ban hành, chế độ
BHXH lúc đó được thực hiện hồn tồn theo nguyên tắc trợ cấp.
Cơ sở pháp lý của BHXH đã được hoàn thiện thêm một bước theo Hiến
pháp năm 1959, trong hoàn cảnh Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Nam- Bắc.
Hiến pháp năm 1959 thừa nhận công nhân viên chức có quyền được hưởng trợ cấp
BHXH. Nội dung này đã được cụ thể hoá trong điều lệ tạm thời về BHXH đối với
công nhân viên chức Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 218/CP ngày
27/12/1961 và điều lệ đãi ngộ quân nhân ban hành kèm theo Nghị định 161/CP
ngày 30/10/1964 của Chính phủ. Hai điều lệ về BHXH này đã trở thành căn cứ
pháp lý quan trọng cho việc thực hiện chế độ bảo hiểm ở miền Bắc XHCN từ đầu
năm 1962. Khi đó đối tượng tượng tham gia của chính sách BHXH là cán bộ của
đảng, đồn thể, cơng chức Nhà nước, nhằm động viên, cổ vũ họ yên tâm phấn khởi
lao động sản xuất, góp phần trong cơng cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
và đấu tranh thống nhất đất nước.
Từ tháng 5 năm 1975, chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong
cả nước đã góp phần to lớn vào bảo đảm xã hội cho công nhân viên chức, đặc biệt
đối với lực lượng quân đội, lực lượng vũ trang nhằm ổn định xã hội sau cuộc kháng

8


chiến kéo dài nhiều năm. Chế độ BHXH lúc đó được thực hiện trong cơ chế kế
hoạch hoá tập trung với những đặc trưng sau:
1. Đối tượng tham gia của BHXH chỉ giới hạn đối với công nhân, viên chức nhà
nước, lực lượng quân đội, vũ trang, cán bộ nhân viên của tổ chức đảng, đoàn thể.
2. Do cơ chế bao cấp, BHXH được thực hiện một cách “cào bằng” dẫn đến
nhiều đối tượng không đủ điều kiện cũng được hưởng, tạo ra sự ỷ lại vào Nhà nước.
3. Không hình thành quỹ BHXH độc lập mà việc thực hiện bằng nguồn
Ngân sách Nhà nước, vì vậy về thực chất Nhà nước đảm nhận toàn bộ trách nhiệm
BHXH.[47]
Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh
tế từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, bên cạnh khu vực kinh
tế Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngồi đã được
hình thành, phát triển và ngày càng có vai trị quan trọng trong việc tạo việc làm,
thu nhập, đặc biệt là đóng góp cho tăng trưởng kinh tế.
Sự đổi mới về cơ chế kinh tế địi hỏi có những thay đổi tương ứng về chính
sách xã hội nói chung và hệ thống BHXH nói riêng, trong đó có lĩnh vực BHXH
nhằm đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội. Văn kiện đại hội đảng lần thứ
VII đã nêu rõ: “Cần đổi mới chính sách BHXH theo hướng mọi NLĐ và đơn vị
kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều đóng góp quỹ BHXH. Từng bước tách quỹ
BHXH đối với công nhân viên chức ra khỏi ngân sách, trở thành quỹ BHXH chung
cho NLĐ thuộc mọi thành phần kinh tế”.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã nêu rõ: “Mở rộng chế
độ BHXH đối với NLĐ thuộc các thành phần kinh tế”. Điều đó cũng chứng tỏ
Đảng đã chú trọng tới bảo đảm cuộc sống cho mọi người dân khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường.
Ngày 26/01/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP về điều lệ
BHXH và Nghị định 19/NĐ-CP ngày 16/02/1995 quy định việc thành lập quỹ

BHXH, tách quỹ BHXH ra khỏi ngân sách nhà nước. Từ đây đánh dấu sự đổi mới
về chính sách BHXH ở nước ta nhằm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã
hội trong quá trình chuyển đổi kinh tế, thể hiện ở ba điểm chính sau:
Thứ nhất, hình thành quỹ BHXH độc lập, tách khỏi NSNN.
Thứ hai, quỹ BHXH được hình thành trên nguyên tắc cùng đóng góp giữa
NLĐ, NSDLĐ và sự hỗ trợ của Nhà nước.
9


Thứ ba, mở rộng đối tượng tham gia tới NLĐ thuộc mọi thành phần kinh tế.
Ngày 28/06/2006, Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
chính thức thơng qua Luật Bảo hiểm xã hội và có hiệu lực thực hiện loại hình
BHXH bắt buộc từ 01/01/2007
Ngày 20/11/2014, Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Viêt Nam
thơng qua Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật cũ hết hiệu lực.
1.2.

Khái niệm và phân loại Bảo hiểm xã hội

1.2.1.

Khái niệm Bảo hiểm xã hội
BHXH là một bộ phận cấu thành của hệ thống an sinh xã hội. Hệ thống an

sinh xã hội trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang trong q trình phát
triển và hoàn thiện. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), an sinh xã hội (Social
Security) là sự bảo vệ của xã hội đối với mọi thành viên của mình thơng qua một
loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do
bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất
nghiệp, thương tật, tuổi già và chết, đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp cho

các gia đình đơng con. Ngày nay, khái niệm an sinh xã hội được hiểu theo nghĩa
rộng hơn, đó là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên không may bị lâm
vào cảnh yếu thế trong xã hội, thông qua các biện pháp phân phối lại tiền bạc, của
cải và dịch vụ xã hội. Theo cách hiểu này, hệ thống an sinh xã hội bao gồm 2 bộ
phận cơ bản là bảo hiểm xã hội và cứu trợ xã hội. Trong đó, bảo hiểm xã hội (Social
Insurance) là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội.
Có nhiều khái niệm khác nhau về BHXH được nêu ra trong các tài liệu tùy
theo phương diện tiếp cận của tác giả. Trong số đó, khái niệm bảo hiểm xã hội nêu
ra trong Từ điển Bách khoa Việt Nam và trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam
được coi là phù hợp nhất với đối tượng nghiên cứu về bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù
đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử
tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm
xã hội, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo an tồn đời sống
của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an tồn xã hội”
10


Theo Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam: “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động
hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”
Hơn thế BHXH cịn được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau:
Dưới góc độ kinh tế, BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp, được coi là
sự bù đắp và thay thế phần thu nhập đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ khi họ bị
giảm hoặc mất thu nhập trên cơ sở thành lập và sử dụng quỹ tiền tệ dự trữ của cộng
đồng những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Trong quá trình
lao động, đặc biệt trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường, q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa thì con người ln gặp phải những khó khăn, rủi ro như: tai nạn

lao động, ốm đau, bệnh tật, mất việc làm, thất nghiệp. Chính vì vậy, để ổn định cuộc
sống NLĐ phải tìm đến các biện pháp đảm bảo thu nhập cho chính mình trong
những trưởng hợp rủi ro nói trên. NLĐ phải có một lượng vật chất đủ để đảm bảo
trang trải và bù đắp cho những tổn thất khi xảy ra, hoặc họ sẽ tham gia vào một hệ
thống BHXH. Khi đó, NLĐ đóng góp một khoản tiền vào nguồn quỹ chung (gọi là
quỹ BHXH), khi họ “gặp rủi ro” bị mất hoặc giảm thu nhập thì quỹ BHXH thực
hiện chức năng hỗ trợ bù đắp phần thu nhập đó cho NLĐ, nhằm giúp họ ổn định
cuộc sống.
Dưới góc độ xã hội, BHXH là một chính sách nhằm đảm bảo đời sống vật
chất cho NLĐ khi họ không may gặp các “rủi ro xã hội”, nhằm góp phần đảm bảo
an toàn xã hội.... Khi NLĐ gặp phải rủi ro trong cuộc sống thì những nhu cầu được
đặt ra như khắc phục khó khăn về kinh tế, chữa bệnh an dưỡng tuổi già... Vì vậy,
Nhà nước cần thiết phải có những giải pháp để giải quyết những vấn đề phát sinh
xảy ra đối với NLĐ, nhằm giúp NLĐ vượt qua khó khăn, ổn định đời sống; đồng
thời cũng là giải pháp nhằm ổn định xã hội. Khi đó, vai trị của BHXH được thể
hiện rõ nét, bù đắp thu nhập cho NLĐ, giữ vững nền sản xuất, đảm bảo ổn định xã
hội. Như vậy, dưới góc độ xã hội, chúng ta có thể thấy BHXH là một bộ phận trong
nội dung của hệ thống bảo đảm xã hội “bảo đảm xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối
với các thành viên của mình thơng qua một loạt các biện pháp cơng cộng để đối phó
khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngưng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi
ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và
việc trợ cấp cho các gia đình đông con”.
11


Dưới góc độ pháp luật, BHXH là tổng hợp các quy định của pháp luật nhằm
bảo vệ NLĐ; sử dụng nguồn đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và sự tài trợ, bảo hộ của
Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm (hoặc gia đình của họ)
trong trường hợp ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, hết tuổi lao động hoặc chết.
Như vậy, về phương diện pháp lý, BHXH là tổng thể các quy định của Nhà nước

quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên khi tham gia vào quan hệ
BHXH; mức đóng góp, phương thức đóng góp và mức hưởng đối với những đối
tượng áp dụng BHXH... Trên cơ sở các quy định pháp luật, các bên tham gia phải
tuân thủ.
Dù tiếp cận dưới góc độ nào thì mục tiêu chính của BHXH cũng được thể
hiện rõ, nhằm bảo vệ NLĐ trước những biến cố cuộc sống và được bảo vệ bằng hệ
thống chính sách.
Như vậy, có thể khái qt về BHXH như sau: BHXH là phương pháp san sẻ
rủi ro được thực hiện thơng qua việc tạo lập quỹ tài chính BHXH, nhằm đảm bảo
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập do ốm đau, thai sản, lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi
lao động hoặc chết.
1.2.2.

Phân loại Bảo hiểm xã hội
BHXH là một vấn đề kinh tế xã hội tổng hợp có thể tiếp cận, nghiên cứu ở

nhiều góc độ khác nhau. Từ đó có nhiều cách, nhiều tiêu chí phân loại, tạo ra những
kết quả phân loại khác nhau. Trong lý luận cũng như trong thực tế, BHXH thường
được phân loại theo các tiêu thức cơ bản sau:
Thứ nhất, phân loại theo loại hình BHXH của người tham gia BHXH. Theo
cách phân loại này, BHXH được chia thành hai loại: BHXH bắt buộc và BHXH tự
nguyện. Cách phân loại này nhằm xác định đối tượng tham gia và điều kiện tổ chức,
mở rộng các loại hình BHXH một cách hợp lý.
Trong đó, BHXH bắt buộc là loại hình bảo hiểm mà người lao động, người
sử dụng lao động bắt buộc phải tham gia theo quy định của pháp luật. Loại BHXH
này được hình thành khi Nhà nước đã đứng ra lo liệu với tư cách là người tổ chức,
quản lý BHXH. Việc tổ chức BHXH bắt buộc chủ yếu để thực hiện mục đích ràng
buộc trách nhiệm của người sử dụng lao động với người lao động nhằm ổn định
nguồn thu, chi để phát triển BHXH bền vững. Thơng qua đó có thể đảm bảo đời

12


sống cho người lao động, đảm bảo an sinh xã hội nói chung. Thơng thường phạm vi
bảo hiểm bắt buộc rộng hay hẹp phục thuộc vào trình độ, khả năng quản lý rủi ro,
quản lý đối tượng tham gia của nhà nước. Khi mới ban hành các chính sách, chế độ
BHXH bắt buộc, các nước thường bắt đầu từ phạm vi hẹp, đó là những lao động
làm việc có hưởng lương tương đối ổn định. Ngay cả các đối tượng này, ban đầu
cũng có những giới hạn nhất định về ngành nghề, thành phần kinh tế hay khu vực
tham gia. Sau đó, phạm vi tham gia ngày càng được mở rộng hơn, trên cơ sở
trình độ, phương tiện và kinh nghiệm quản lý đạt được. Về mức phí BHXH bắt
buộc, người tham gia có trách nhiệm hàng tháng phải đóng một khoản tiền nhất
định, do pháp luật quy định, tương ứng với một tỉ lệ tiền lương của người lao động
cho quỹ BHXH.
BHXH tự nguyện là loại hình bảo hiểm mà người lao động có quyền tự
quyết định tham gia hay khơng tham gia, được lựa chọn mức đóng, phương thức
đóng, hưởng phù hợp theo các quy định của pháp luật. Xuất phát điểm của BHXH
là sự tự nguyện của cộng đồng những người lao động cùng có nguy cơ gặp một số
rủi ro và cùng có nhu cầu chia sẻ các rủi ro đó. Việc Nhà nước phải đứng ra tổ chức
quản lý BHXH theo hình thức bắt buộc cũng chứng tỏ rằng nếu BHXH thuần túy
chỉ là sự tự nguyện của người lao động thì hoặc là khơng bền vững, hoặc là không
hiệu quả, rủi ro chỉ được quản lý, chia sẻ trong những cộng đồng nhỏ hẹp, ít chun
nghiệp... Vì vậy, để có hệ thống bảo hiểm tự nguyện hiệu quả cũng cần có sự tổ
chức, quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên các nước không lựa chọn điều chỉnh loại
hình này ngay từ khi bắt đầu tổ chức BHXH. Bởi vì, những lao động khơng thuộc
đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thường khơng có sự chia sẻ từ phía người sử
dụng lao động. Từ đó, nhu cầu tham gia bảo hiểm của các đối tượng này cũng
khơng ổn định. Nếu khơng có các biện pháp quản lý hữu hiệu thì quỹ bảo hiểm xã
hội tự nguyện khó có điều kiện duy trì bền vững. Đối với những nước mà khu vực
phi chính thức và các lao động tự tạo việc làm chiếm tỉ trọng lớn thì việc quản lý

đối tượng tham gia bảo hiểm tự nguyện cực kỳ khó khăn. Cơ quan bảo hiểm thường
ít có thơng tin về các đối tượng này để kiểm soát thu sao cho đủ và xác định căn cứ
chi trả sao cho quỹ không bị lạm dụng.
Thứ hai, phân loại theo thời gian cân đối và hạch toán quỹ BHXH. Theo
cách này, BHXH được phân loại thành BHXH ngắn hạn và BHXH dài hạn. Cách
13


phân loại này chủ yếu giúp các tổ chức BHXH lựa chọn phương thức quản lý quỹ
BHXH cho cả hệ thống hay cho từng loại chế độ, thống kê xác suất rủi ro trong
phạm vi bao phủ của quỹ, làm cơ sở để xác định cơng thức đóng hưởng và thời
hạnchi trả bảo hiểm. Trong đó, BHXH ngắn hạn thường dùng để chỉ nhóm các chế
độ BHXH có thời hạn ngắn, trong khoảng một năm, chủ yếu trên cơ sở tương trợ
cộng đồng giữa những người tham gia bảo hiểm. Đối tượng hưởng BHXH ngắn hạn
thường là những người lao động trong độ tuổi lao động. Việc hưởng các chế độ
BHXH ngắn hạn chủ yếu là trợ cấp một lần hoặc trong một thời gian ngắn. BHXH
dài hạn thường được dùng để chỉ nhóm các chế độ BHXH dài hạn, từ khi người lao
động bắt đầu tham gia cho đến khi quan hệ BHXH kết thúc, theo hình thức lập quỹ
tiết kiệm bắt buộc, có kết hợp với tương trợ cộng đồng.
Như vậy, yếu tố thời gian đóng BHXH được coi là một trong các điều kiện
cơ bản để xác định để xác định quyền hưởng bảo hiểm và mức hưởng của loại chế
độ bảo hiểm xã hội.
Đối tượng hưởng BHXH dài hạn chủ yếu là người lao động đã kết thúc
quan hệ lao động, nghỉ việc hưởng BHXH sau một thời gian dài đóng góp hoặc để
lại phần đóng góp cho thân nhân như một khoản thừa kế, hoặc cần phải tương trợ
ni thân nhân... Do đó, bên cạnh một số ít trường hợp chi trả một lần, BHXH dài
hạn thường chi trả trợ cấp trong khoảng thời gian dài, khó xác định rõ thời gian
hưởng ở từng đối tượng. Quỹ được thu và quản lý trong thời gian dài nên rất phức
tạp trong việc tính tốn, cân đối đóng, hưởng hợp lý và bảo tồn giá trị trong điều
kiện lạm phát và nhu cầu sống ngày càng tăng do kinh tế phát triển.

Ngoài hai cách phân loại cơ bản trên, cịn có thể phân loại BHXH theo
những tiêu thức khác, như: căn cứ vào các trường hợp được bảo hiểm có thể phân
BHXH thành các chế độ cụ thể như chế độ BHXH khi ốm đau, thai sản, tai nạn
nghề nghiệp, thất nghiệp, hưu trí, tử tuất...; căn cứ vào tần suất chi trả bảo hiểm có
thể phân BHXH thành các loại bảo hiểm một lần, bảo hiểm một thời kỳ và bảo hiểm
thường xuyên; căn cứ vào đối tượng hưởng BHXH có BHXH cho người lao động
và BHXH cho thân nhân người lao động ...
1.3.

Đặc điểm của Bảo hiểm xã hội
Đặc điểm của BHXH thể hiện qua một số khía cạnh sau:
- BHXH là hoạt động chia sẻ rủi ro của cộng đồng theo nguyên tắc “số

đông bù số ít” và nguyên tắc “tiết kiệm chi tiêu”.
14


Theo ngun tắc “số đơng bù số ít”, rủi ro của một hoặc một số người sẽ
được chia sẻ cho nhiều người tham gia BHXH cùng gánh chịu. Theo cách đó,
những rủi ro trong cuộc sống như: đau ốm, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp,
tàn tật, chết sớm... là gánh nặng của bản thân và gia đình của số ít những người
khơng may sẽ trở nên nhẹ bớt khi được san sẻ cho nhiều người. Nói cách khác, đó
chính là sự thể hiện tính tương hỗ của cộng đồng những thành viên trong xã hội
thông qua việc bù trừ rủi ro qua quỹ BHXH.
Theo nguyên tắc “tiết kiệm chi tiêu”, người tham gia BHXH phải “để dành”
một khoản thu nhập bằng việc đều đặn góp khoản để dành đó vào quỹ BHXH lúc có
thu nhập để được hưởng trợ cấp lúc tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động.
- BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập của các thành viên trong xã hội
theo chiều dọc và chiều ngang (hay theo không gian và thời gian).
Phân phối theo chiều dọc và sự phân phối giữa những người khỏe mạnh cho

những người ốm đau, bệnh tật; giữa những người trẻ cho người già; giữa những
người không sinh đẻ và người sinh đẻ; giữa những người có thu nhập cao và người
có thu nhập thấp... Nói cách khác, đây là sự phân phối lại thu nhập theo không gian.
Thực hiện nguyên tắc phân phối theo chiều dọc này, quỹ BHXH ngồi việc được
hình thành từ sự đóng góp của người lao động, cịn hình thành từ sự đóng góp của
người sử dụng lao động và có thể cịn được bù dắp sự thiếu hụt bằng Ngân sách Nhà
nước. Đến lượt mình, quỹ BHXH lại được sử dụng để thay thế hoặc bù đắp thu
nhập cho người lao động bị mất, giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm...
Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối của chính bản thân người lao
động theo thời gian, là sự phân phối lại thu nhập của quá trình làm việc và q trình
khơng làm việc. Khi thực thi chính sách BHXH cũng tức là sử dụng nguồn tài chính
chung của một bên là những người đóng góp đều đặn vào quỹ BHXH, còn bên kia
là những người được hưởng theo quy định.
- Mục tiêu cơ bản của BHXH là nhằm đảm bảo an toàn - hiệu quả xã hội.
BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm
trong nước để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế của người lao động và an toàn xã
hội. BHXH thực hiện nhằm các mục tiêu: thay thế hoặc bù đắp cho người lao động
những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ và gia
đình; chăm sóc sức khỏe và chống lại bệnh tật; bảo đảm điều kiện sống tối thiểu để
15


người lao động khơng lâm và cảnh túng quẫn, góp phần bảo đảm hạnh phúc gia
đình và an tồn xã hội.
BHXH hoạt động dựa trên nguyên tắc có đóng, có hưởng. Quỹ BHXH hình
thành các nguồn tài chính từ các khoản đóng góp của các bên tham gia và có một hệ
thống hoạt động nhằm bảo đảm lợi ích cho người lao động tham gia đóng góp vào
quỹ này. Quyền được hưởng trợ cấp BHXH được bảo đảm bởi chính việc đóng góp
vào quỹ BHXH. Nói cách khác, người lao động muốn được hưởng chế độ BHXH
thì cần phải tham gia đóng góp vào quỹ này theo quy định của pháp luật.

1.4. Vai trò bảo hiểm xã hội
1.4.1. Đối với người lao động
Trong cuộc sống hàng ngày, mọi rủi ro đều có thể xảy ra đối với bất cứ
người lao động nào, tại bất cứ thời điểm nào và gây cho họ những khó khăn cả về
vật chất và tinh thần, gây mất hoặc giảm thu nhập. Là một trong những chính sách
kinh tế - xã hội của Nhà nước, BHXH góp phần trợ giúp cho người lao động gặp
phải rủi ro khắc phục những khó khăn thơng qua các khoản trợ cấp BHXH.Tham
gia BHXH còn giúp người lao động nâng cao hiệu quả trong chi dùng cá nhân, giúp
họ tiết kiệm được những khoản tiền nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phịng cần thiết
chi dùng khi già cả hay mất sức lao động... Đó khơng chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất
mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn,
làm cho họ ổn định về tâm lý, giảm bớt lo lắng khi ốm đau, tai nạn, tuổi già... Nhờ
có BHXH, cuộc sống của những thành viên trong gia đình người lao động, nhất là
trẻ em, những người tàn tật,... cũng được đảm bảo an toàn hơn.
1.4.2. Đối với tổ chức sử dụng lao động
BHXH giúp các tổ chức sử dụng lao động nói chung, các doanh nghiệp nói
riêng, ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh thông qua việc phân phối các chi phí
của người lao động một cách hợp lý. Nếu khơng có BHXH, khi người lao động gặp
các rủi ro, khơng có nguồn thu nhập, khơng có tài chính để trang trải các chi phí y tế
và các chi phí khác dẫn đến đời sống của họ bị ảnh hưởng, chất lượng lao động
cũng sẽ bị ảnh hưởng và tất yếu sẽ kéo theo hệ quả năng suất lao động giảm.
BHXH góp phần làm cho lực lượng lao động trong mỗi đơn vị ổn định, sản
xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả, các bên trong quan hệ lao động gắn bó với
nhau hơn. BHXH tạo điều kiện để người tổ chức sử dụng có trách nhiệm với người
16


lao động, khơng chỉ khi người lao động cịn đang tham gia lao động mà ngay cả khi
người lao động đã già yếu, khơng cịn khả năng tham gia lao động nữa. Qua đó,
người lao động gắn kết bền chặt hơn với người sử dụng lao động và chất lượng lao

động cũng được đảm bảo. Mặt khác, BHXH giúp các tổ chức sử dụng lao động ổn
định nguồn chi, ngay cả khi các rủi ro lớn xảy ra cho người lao động.
1.4.3. Đối với nền kinh tế - xã hội
Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước,
BHXH giải quyết những “trục trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với những người lao động,
đảm bảo cho việc phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao động.
Sự bảo đảm này tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân,
đồng thời góp phần vào việc nâng cao năng suất lao động xã hội. BHXH đã gián
tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng, làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội, đồng thời
góp phần đảm bảo an ninh quốc gia.
Mặt khác, với vị trí là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động tới hệ
thống tài chính thơng qua hoạt động đầu tư, bảo tồn và phát triển quỹ. Hoạt động
đầu tư của quỹ BHXH tác động khơng nhỏ tới q trình phát triển kinh tế - xã hội,
góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới, góp phần quan
trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao động, từ đó góp phần giải quyết
tình trạng thất nghiệp của đất nước, tăng thu nhập cá nhân cho người lao động nói
riêng và tăng tổng sản phẩm quốc dân nói chung. Ngồi ra, vai trị đối với xã hội
của BHXH cịn được thể hiện qua việc BHXH góp phần thực hiện công bằng xã
hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH.

17


CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI CHO NGƯỜI LAO
ĐỘNG VIỆT NAM LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI
Ở Việt Nam hiện nay, thuật ngữ “người lao động di trú”chủ yếu chỉ được sử
dụng trong giới học thuật, nghiên cứu nhưng ngay cả trong pháp luật và các văn bản
của nhà nước cũng ít dùng khái niệm này. Tuy nhiên, thuật ngữ này được sử dụng
rộng rãi tại các văn kiện quốc tế. Theo đó, lao động di trú được hiểu là người di
chuyển đến làm việc tại một quốc gia mà họ không mang quốc tịch. Như vậy, ý

nghĩa nội hàm của khái niệm này giống với cách hiểu về lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài. Do đó, chương này sẽ tập trung nghiên cứu khái niệm lao động di
trú và các chế độ BHXH cho đối tượng này theo pháp luật quốc tế và quy định liên
quan đến lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam.
2.1.

Khái niệm người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài

2.1.1. Pháp luật Quốc tế
Lao động di trú là hiện tượng diễn ra từ lâu trong lịch sử nhân loại nhưng
phát triển đặc biệt nhanh chóng từ đầu thế kỷ XX đến nay. Theo ước tính của một
số tổ chức quốc tế, hiện cứ 35 người dân trên thế giới thì có một người sống và
làm việc ở ngồi đất nước mình. Tổng cộng trên thế giới hiện có khoảng 215 triệu
người lao động di trú, chiếm 3.3% dân số toàn cầu [19]. Cùng với q trình tồn
cầu hóa kinh tế, dự đốn vấn đề lao động di trú sẽ trở nên hết sức phổ biến trong
thế kỷ XXI và là một trong những đặc trưng cơ bản của thế kỷ này.
Dễ dàng thấy được rằng, người lao động di trú có những đóng góp to lớn
vào nền kinh tế của nước gốc và nước nhận lao động. Ở nước gốc, việc đưa người
lao động ra làm việc ở nước ngoài là một trong các biện pháp giảm sức ép tình trạng
thất nghiệp trong nước, thêm vào đó khoản thu nhập của họ có thể gửi về giúp nâng
cao đời sống của gia đình và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nhà nước. Ở nước
nhận tiếp nhận, người lao động di trú giúp giảm tải sự thiếu sức lao động của nền
kinh tế thị trường, đồng thời là giải pháp cho người dân bản xứ đối với các công
viêc họ không muốn làm như mức lương thấp, nặng nhọc, độc hại,…
Với những đóng góp quan trọng trên, người lao động di trú lẽ ra phải bảo
vệ, nhưng ngược lại, ở khắp các khu vực trên thế giới, họ đang phải đối mặt với
những vấn đề nghiêm trọng như bị phân biệt đối xử, bị kỳ thị, bóc lột, lạm dụng và
18



×