Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.94 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC.................4

1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc

4

2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc

6

a. Nội dung về đại đoàn kết dân tộc................................................................................................................. 6
b. Vai trị của đại đồn kết dân tộc................................................................................................................... 6
c. Phương thức thực hiện đại đoàn kết dân tộc................................................................................................ 7

3. Ngun tắc đại đồn kết của Hồ Chí Minh

7

II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC XÂY DỰNG CHIẾN
LƯỢC ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
.................................................................................................11

1. Thực trạng chung

11

2. Những hạn chế còn tồn đọng

13


3. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh

14

4. Khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, nâng
cao ý chí tự lực tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong q trình hội nhập
quốc tế

16

5. Một ví dụ điển hình: Đại đoàn kết dân tộc được phát huy cao độ trong tình
hình dịch bệnh Covid – 19 hiện nay.

18

LỜI MỞ ĐẦU
“Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của
ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó


kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Từ thực tiễn lịch
sử dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định đoàn kết là một trong các truyền thống
quý báu của dân tộc ta đã được hun đúc trên nền tảng lòng yêu nước nồng nàn
của các thế hệ người Việt Nam. Theo Người : “Nhờ đại đoàn kết mà trong bao
nhiêu thế kỷ, nhân dân Việt Nam đã bảo vệ được độc lập tự do của mình. Nhờ
đại đoàn kết mà nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân, làm cách
mạng tháng Tám thành cơng và đã kháng chiến thắng lợi”.
Đại đồn kết dân tộc là tư tưởng có ý nghĩa chiến lược cơ bản, nhất quán và

xuyên suốt, là vấn đề sống còn, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình cách mạng
Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết là sức mạnh, là cội nguồn
của mọi thành cơng: “Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết, Thành cơng, thành cơng,
đại thành cơng”.
Đại đồn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng thực sự là nguồn sức
mạnh, là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng
lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, việc học tập và quán triệt sâu sắc tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất là hết
sức cần thiết
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết tồn dân tộc là nội dung mang tính chiến
lược trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của
dân tộc Việt Nam. Bài học đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng mang tính thời
sự, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình
mạnh mẽ để đón nhận những cơ hội cùng thách thức lớn của quá trình hội nhập
ngày một sâu, rộng.
Tiểu luận sẽ bàn về tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, từ đó vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng chiến lược đại đoàn kết toàn dân
tộc trong giai đoạn hiện nay.
2


NỘI DUNG

3


I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

(1) Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin coi cách mạng là sự nghiệp quần
chúng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
nhân dân là người sáng tạo lịch sử, giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là
lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây
dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra cho các
dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lênin cho rằng, sự liên kết giai cấp,
trước hết là liên minh giai cấp công nhân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng
lợi của cách mạng vơ sản. Nếu khơng có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân
dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vơ sản, thì cách mạng
vơ sản khơng thể thực hiện được. Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần
thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích
cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập
hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng
lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân
tộc.
(2) Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc
Việt Nam.
Trải hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam ta đã luôn
luôn phải chống trả và chiến thắng nhiều kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự
mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Đoàn kết để chiến đấu, đoàn kết để xây dựng,
bảo vệ đất nước đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ta. Chúng là cơ
sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước
của mỗi con người Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát triển
của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nước và giữ nước, làm
nên truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc. Đề cập đến chủ nghĩa yêu
nước của dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Khơng đồn kết thì suy và
4



mất. Có đồn kết thì thịnh và cịn. Chúng ta phải lấy đồn kết mà xoay vần vận
mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống
đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.
(3) Con đường thành công và thất bại của các phong trào cách mạng Việt
Nam và thế giới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam: Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, với mong
muốn biến nước ta thành nước thuộc địa nửa phong kiến, Pháp đã dùng mọi thủ
đoạn thâm độc khai thác tài nguyên, bóc lột dã man của cải và sức lao động của
nhân dân ta để làm giàu cho chính quốc. Trước tình cảnh ấy, nhân dân ta đã phát
huy truyền thống yêu nước, đứng dậy tiến hành nhiều cuộc đấu tranh chống thực
dân Pháp và bè lũ tay sai giành độc lập, tự do nhưng đều thất bại. Nhiều chí sĩ
yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã tổ chức nhiều cuộc khởi
nghĩa, đấu tranh nhưng vẫn khơng tìm ra một con đường mang lại hiệu quả đích
thực. Trước thực tế ấy, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí
Minh), người con xứ Nghệ, mới 21 tuổi, đã quyết định ra đi tìm đường cứu
nước, bởi trong anh đang nung nấu một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng
bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đây là tất cả
những điều tôi hiểu”.
Thực tiễn cách mạng thế giới: Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 đã đưa Hồ
Chí Minh đến bước ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, dân chủ cho nhân dân. Nó là bài học cho sự huy động, tập hợp,
đoàn kết lực lượng quần chúng cơng nơng đơng đảo để giành và giữ chính quyền
cách mạng. Điều này giúp Người hiểu sâu sắc thế nào là một cuộc “cách mạng
đến nơi” để chuẩn bị lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi vào con đường cách mạng
những năm sau này.

5



2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
a. Nội dung về đại đồn kết dân tộc
Hồ Chí Minh cho rằng: đại đồn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Khối
đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp, lực lượng, đảng
phái, các dân tộc, các tôn giáo, các cá nhân yêu nước, người Việt Nam ở nước
ngoài, kể cả những người đã lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải trở về với
nhân dân. Nói cách khác, khối đại đồn kết tồn dân tộc bao gồm “Bất kỳ ai mà
thật thà tán thành hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ”.
Với chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở thống nhất lợi ích quốc
gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng; nịng cốt khối đại đồn kết
tồn dân tộc là liên minh cơng - nơng - trí dưới sự lãnh đạo của Đảng, Người chỉ
rõ, cần giải quyết hài hịa lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các
tôn giáo, dân cư ở các vùng miền khác nhau. Phát huy mặt tương đồng, hóa giải
điểm khác biệt. Mẫu số chung để đại đồn kết tồn dân tộc là: Hịa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ, tự do, giàu mạnh: “Toàn dân đoàn kết nhất trí thì chúng
ta nhất định xây dựng được nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ, tự do, giàu mạnh”.
b. Vai trị của đại đồn kết dân tộc
Hồ Chí Minh khẳng định, đại đồn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm
thành công của cách mạng song song với đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng. Ttrong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế quốc thực dân nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh
thần u nước thì chưa đủ; cách mạng muốn thành công, phải tập hợp được tất
cả mọi lực lượng có thể tập hợp, nhất trí “muôn người như một” của cả dân tộc,
xây dựng được khối đại đồn kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất
quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng.
Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đồn kết tồn dân, cần phải có
chính sách và phương pháp phù hợp với từng đối tượng. Trong từng thời kỳ,
6



từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính
sách và phương pháp tập hợp có thể và cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp
với từng đối tượng khác nhau, đoàn kết dân tộc phải ln ln được nhận thức là
vấn đề sống cịn, quyết định thành bại của cách mạng.
c. Phương thức thực hiện đại đoàn kết dân tộc
Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt
trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Theo Người, đại đoàn kết là
để tạo nên lực lượng cách mạng; vì vậy, nó phải được biến thành lực lượng vật
chất, sức mạnh vật chất có tổ chức, đó là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Muốn xây dựng thành công khối đại đồn kết dân tộc nhất
thiết phải có tổ chức mặt trận thống nhất, phải được xây dựng trên nền tảng liên
minh cơng - nơng - lao động trí óc, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. “Ai có tài, có
sức, có đức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với
họ”. Sau này, tại Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc đóng vai
trị nịng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng
cường sự đồng thuận xã hội; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”.
3. Nguyên tắc đại đồn kết của Hồ Chí Minh
(1) Đại đồn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối
cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con
người.
Kế thừa và nâng tầm tư duy chính trị truyền thống của cha ông: “Nước lấy
dân làm gốc”; đồng thời thấm nhuần nguyên lý “Cách mạng là ngày hội của
quần chúng”, Hồ Chí Minh đã tìm sức mạnh và cái cẩm nang thần kì của cơng
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước ở lực lượng vô địch của
nhân dân: “Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng

có gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân”. Trong tư tưởng Hồ Chí
7


Minh, nhân dân có một nội hàm rất rộng. Người dùng các khái niệm này để chỉ
tất cả mọi công dân của nước Việt Nam, những người được gọi là “con Lạc cháu
Hồng”. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người là đoàn kết tất cả các tầng lớp
nhân dân, các giai cấp, các chính đảng, đồn thể, các dân tộc, tôn giáo, kể cả
những người trước đây lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, quay về với
chính nghĩa của dân tộc. Đồn kết trong tư tưởng của Người là đoàn kết rộng rãi,
mở rộng và tranh thủ tất cả những lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ.
Nguyên tắc đoàn kết rộng rãi được dựa trên điểm tương đồng là: “Bất kỳ ai mà
thật thà tán thành hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì dù những người đó
trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. “Ai
có tài, có sức, có đức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn
kết với họ”.
(2) Đại đồn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đồn kết rộng
rãi, lâu dài, bền vững.
Theo Người, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc chỉ được phát huy khi
tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cả
dân tộc hay tồn dân chỉ có thể tạo nên một sức mạnh to lớn, trở thành lực lượng
vô địch khi được tổ chức thành một khối chặt chẽ, được giác ngộ sâu sắc về mục
tiêu lý tưởng, được định hướng bởi một đường lối chính trị đúng đắn, nếu khơng
thì dù quần chúng nhân dân có số đông tới hàng triệu người cũng chỉ là một số
đơng khơng có sức mạnh, rời rạc.
Cần phải nhấn mạnh rằng: Vấn đề cốt lõi của tinh thần đại đoàn kết dân tộc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh là xây dựng một khối đồn kết mạnh mẽ nhưng có
tổ chức, cương lĩnh, nguyên tắc; có phương châm hành động đúng đắn, cụ thể và
phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Vấn đề đó đã được đặt ra ngay từ khi có
Đảng, với những tổ chức đồn kết các thành phần lao động như: Công hội đỏ,

Nông hội đỏ, Phụ nữ, Thanh niên... Vào ngày 18/11/1930, theo chỉ thị của
Thường vụ Trung ương Đảng, " Hội Phản đế đồng minh Đông dương" đã được
thành lập, giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc chống lại thực dân Pháp xâm
lược và bọn phong kiến tay sai bán nước. Đó là một sự kiện chính trị to lớn đánh
8


dấu một mốc son trong quá trình xây dựng và trưởng thành của Mặt trận dân tộc
thống nhất Việt Nam, là tiền thân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hơm nay. Lấy
cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng, Mặt trận dân tộc thống nhất dù thay đổi tên gọi qua các thời
kỳ, các hình thức tổ chức Mặt trận: Hội Phản đế Đồng minh (1930), Mặt trận
Dân chủ Đông Dương (1936-1939), Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế Đông
Dương (1939) Mặt trận Việt Minh (1941), Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam
(1946), Mặt trận Liên Việt (1951), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955), Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1960), Liên minh các Lực lượng Dân
tộc Dân chủ và Hịa bình Việt Nam (1968), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của
nước Việt Nam thống nhất đã đồn kết tồn dân tộc và có những đóng góp rất to
lớn làm thay đổi bộ mặt của đất nước ta. Đó là: Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám (1945), là chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), là Đại thắng mùa xuân thống
nhất đất nước (1975), là những thành quả rất quan trọng trong công cuộc đổi
mới, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
(3) Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê bình,
phê bình vì sự thống nhất bền vững.
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương
đồng cịn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết bằng con đường đối
thoại, bàn bạc để đi đến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có
những tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, Người nêu rõ:
Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết và căn dặn

mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đồn kết xi chiều, nêu cao tinh thần phê
bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục những mặt chưa tốt, củng
cố đồn kết: “Đồn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường
cũng phải nhất trí. Đồn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học
hỏi những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập
trường thân ái, vì nước, vì dân”. Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát
triển, Đảng ta và Mặt trận dân tộc thống nhất luôn đấu tranh chống khuynh
9


hướng hẹp hòi, một chiều, chống coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng
có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh huớng đồn kết mà khơng có đấu
tranh đúng mức trong khối đại đoàn kết dân tộc. “Chúng ta làm cách mạng nhằm
mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội
thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta”.
(4) Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu
nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp
công nhân.
Ngay từ khi con đường cứu nước vừa sáng tỏ, Hồ Chí Minh đã xác định con
đường cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ có thể
giành được thắng lợi hồn tồn khi có sự đồn kết chặt chẽ với phong trào cách
mạng thế giới. Về sau, trong quá trình cách mạng, tư tưởng của Người về vấn đề
đoàn kết với cách mạng thế giới càng được làm sáng tỏ hơn và đầy đủ hơn: đó là
vấn đề cách mạng trong nước phải gắn với phong trào và phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới. Cụ thể hơn là với nhân dân Pháp, Mỹ, Liên Xô, Trung
Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, với phong trào đấu tranh vì hồ bình,
độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh
đã định hướng cho việc hình thành 3 tầng Mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân
tộc, Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào và Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết
với Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm

lược. Đây là sự phát triển rực rỡ và là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí minh
về đại đồn kết. Như vậy đại đồn kết dân tộc phải là cơ sở và phải đi đến việc
thực hiện đoàn kết quốc tế, nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những yếu tố
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đồn kết quốc tế cũng là yếu
tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến
thắng lợi hoàn toàn và đưa cách mạng Việt Nam lên giai đoạn cách mạng xã hội
chủ nghĩa.

10


II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng chiến lược đại đoàn
kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
1. Thực trạng chung
Thực tiễn đã cho thấy, tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nội
dung xuyên suốt và nhất quán trong tồn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung và là cơ sở cho chiến lược của Đảng ta, nhờ có tư tưởng đại đồn kết đã
đem lại những thành công của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đại đồn kết được hình thành trên cơ sở truyền thống đoàn kết, nhân ái, khoan
dung, độ lượng của người Việt Nam. 90 năm thực hiện xuyên suốt và nhất quán
chiến lược đại đoàn kết dân tộc, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã luôn vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đồn kết dân tộc phù hợp với tình hình, yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách
mạng, kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì một nước Việt Nam
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Kế thừa và vận dụng, “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh” theo tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII,
trong đó có bài học về cổ vũ, động viên và nhân nguồn sức mạnh khối đại đoàn
kết dân tộc trong cách mạng Tháng Tám năm 1945 phù hợp với tình hình mới
vẫn vẹn nguyên giá trị thời sự. Cũng nhờ sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân

tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ mà nhân dân ta đã giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân,
góp sức tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc
lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. 71 năm trơi qua, nhưng đại đồn kết toàn dân tộc
và vận dụng bài học lịch sử đó trong những giai đoạn cách mạng tiếp theo ln
được Đảng ta coi là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được khơi dậy và phát huy trên tinh thần đặt lợi
ích chung của dân tộc, của đất nước và của nhân dân lên trước hết; lấy đó làm cơ
sở để xây dựng các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh
- quốc phòng, đối ngoại… Bài học về việc phát huy sức mạnh toàn dân dựa trên
11


nền tảng khối liên minh giữa công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức chính là
thắng lợi của nghệ thuật phát huy sức mạnh của nhân dân, dựa vào nhân dân dân
và “lấy dân làm gốc” đã được kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới trong
thời đại Hồ Chí Minh lịch sử. Củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc là một nội dung quan trọng trong đường lối cách mạng của Đảng 86 năm
qua, và tiếp tục được khẳng định trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng tồn
quốc lần thứ XII: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”.
Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với
nhịp độ cao so với các nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất
nước ln ln giữ được ổn định. Tình hình xã hội có tiến bộ. Đời sống vật chất
tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Vị thế của đất nước không
ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế và lực của đất nước ta mạnh lên
rất nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp tục phát huy nội
lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững, trước mắt
phấn đấu đến năm 2021 về cơ bản làm cho việt nam trở thành một nước công

nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường;
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ
bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao, hội nhập
quốc tế.
Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết là việc Đảng Cộng sản Việt Nam
thường xuyên tiến hành, đặc biệt trong mỗi kỳ Đại hội Đảng… Mỗi lần Đại hội
là dịp để nhìn lại cơng việc Đảng đã làm, xác định nhiệm vụ trong thời gian tới.
Chính vì thế, với một tinh thần phải thẳng thắn, nhìn thẳng sự thật, phát hiện ra
sự thật và nói đúng sự thật để tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Đại
hội XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh đất nước đang đứng trước nhiều thời
cơ và thách thức đan xen, nhiều vấn đề chiến lược mới đặt ra cần phải giải
quyết, từ tình hình quốc tế, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó
12


lường, đến các thách thức mang tính tồn cầu về biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch
bệnh và cả những thành tựu ngoạn mục của tiến bộ khoa học - công nghệ đang
tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - xã hội của đất nước ta cũng
như tồn thế giới.
2. Những hạn chế cịn tồn đọng
(1) Công tác tuyên truyền để đồng bào các dân tộc nhận thức đúng chính sách
dân tộc và chiến lược đồn kết các dân tộc của Đảng và Nhà nước chưa thật sự
hiệu quả. Đặc biệt là các dân tộc thiểu số, những người sống ở vùng sâu vùng
xa chưa hiểu và tự giác tích cực xây dựng khối đại đồn kết dân tộc, chưa phát
huy nội lực xây dựng khối đại đồn kết dân tộc, dẫn đến khơng có lịng tin tuyệt
đối vào Đảng và Chính phủ.
(2) Các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta,
ln kích động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tơn
giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ đảng, nhà nước và nhân dân ta.

(3) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội chưa có sự đa
dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, chưa tập trung hướng mạnh các hoạt
động về cơ sở. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
chưa được phát huy rõ.
(4) Sự chênh lệch giàu nghèo, khác biệt trình độ văn hoá và phong tục tập
quán, những hủ tục lạc hậu, bất bình đẳng xã hội… gây mâu thuẫn nảy sinh
trong nội bộ nhân dân.
(5) Chính quyền cịn coi thường dân, coi nhẹ công tác dân vận - mặt trận; ở
không ít nơi còn tư tưởng định kiến, hẹp hòi làm cản trở cho việc thực hiện chủ
trương đại đoàn kết tồn dân tộc của đảng; một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng
viên thối hố, biến chất, tham nhũng… khơng thực hiện được vai trò tiên phong
gương mẫu.

13


3. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ
Chí Minh
Tư tưởng hồ chí minh là kết quả của q trình kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn
giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng từng thời kỳ. Hồ Chí Minh
đã nêu lên quan điểm rằng: “Lý luận không được áp dụng vào thực tiễn là lý
luận suông, đồng thời thực tiễn khơng có lý luận soi sáng là thực tiễn mù
quáng”. Trong tình hình hiện nay, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc
xây dựng, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần chú ý những vấn
đề sau đây:
(1) Phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh,
động lực chủ yếu và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, người
đứng đầu và cả hệ thống chính trị trong lãnh đạo, củng cố, phát triển khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống

chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam, được thực hiện bằng
nhiều biện pháp, hình thức; trong đó, chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
(2) Lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm điểm tương đồng, xóa
bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây
dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.
(3) Bảo đảm cơng bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính
đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hịa các lợi
ích cá nhân - tập thể - tồn xã hội; thực hiện dân chủ gắn với giữ gìn kỷ cương,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; khơng ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh
thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc, tinh thần tự lực tự
cường xây dựng đất nước; xem đó là những yếu tố quan trọng để củng cố và
phát triển khối đại đoàn kết dân tộc. Tiếp tục thực hiện Quy định số 124
-QĐ/TW ngày 02/02/2018 của Ban Bí thư về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn
14


luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng
viên”, góp phần xây dựng Đảng và chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh.
(4) Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt
nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình
thức, trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu. Nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể nhân dân trong tham gia xây dựng và hoàn thiện một số chính sách
để củng cố và phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc, góp phần bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, Mặt
trận phải đoàn kết rộng rãi mọi thành viên trong xã hội. Mặt trận phải đa dạng
hóa các hình thức tập hợp, động viên các tầng lớp nhân dân để tạo sự đồng thuận
trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước.
(5) Nắm bắt kịp thời để phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân
dân và nỗ lực chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp,
các tầng lớp nhân dân. Phát huy vai trị của những người tiêu biểu, có uy tín
trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, tơn giáo; cùng với việc giải quyết đúng đắn
và hợp lý các quan hệ lợi ích, khơng ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu
nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh thần tự lực tự cường
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố và phát triển khối đại đồn kết dân
tộc, coi đó là những yếu tố quan trọng để khơng chỉ phịng và chống âm mưu,
thủ đoạn “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch mà cịn góp phần ngăn
chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
(6) Chăm lo xây dựng đời sống văn hóa mới, bảo tồn phát huy bản sắc văn
hóa các dân tộc, đồng thời xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu làm ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe, giống nòi, cản trở phát triển sản xuất…
(7) Tạo điều kiện để đồng bào, cán bộ các dân tộc ngày càng tiếp cận thuận
lợi, hiệu quả hơn với chính sách giáo dục và đào tạo, nhằm thực hiện mục tiêu
tạo nguồn và đào tạo. Nâng cao chất lượng chính sách dân tộc đối với xây dựng
đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số, tạo nên nguồn lực, hiệu quả đào tạo về số
15


lượng và chất lượng trong xây dựng đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số, tăng cường
nguồn nhân lực cho sự phát triển các vùng dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc
tế sâu rộng ở nước ta hiện nay.
(8) Kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia
rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện tốt sẽ góp phần tăng cường sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh, bảo đảm thế và lực cho đất nước trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
(9) Đẩy mạnh thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, tổ

chức động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua làm kinh tế giỏi, phát
triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hố - xã hội; trong đó mỗi người, mỗi gia
đình cố gắng phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng. Tăng cường cơng tác
đối ngoại Nhân dân, tích cực vận động, thu hút kiều bào hướng về Tổ quốc, góp
sức xây dựng quê hương, đất nước; chủ động phối hợp với các cơ quan chức
năng nước sở tại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, kiều bào, đồng
thời, khen thưởng, động viên kịp thời những cá nhân có thành tích tiêu biểu.
4. Khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,
nâng cao ý chí tự lực tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong quá trình
hội nhập quốc tế
Từ khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
tiến hành đổi mới, toàn diện đất nước, Đảng ta đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đồn kết dân tộc phù hợp với tình hình mới. Tuy nhiên, trong thực
tiễn, việc chuyển sức mạnh đoàn kết dân tộc trong thời kỳ giữ nước sang thời kỳ
dựng nước không phải là việc dễ dàng, lịch sử đang đòi hỏi những nỗ lực lớn
của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực này. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
trong xu thế hiện nay là hội nhập kinh tế quốc tế, một loạt vấn đề đặt ra mà
chúng ta phải chú ý: khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh nội lực, phải xuất
phát từ lợi ích dân tộc, từ phát huy nội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác

16


quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát triển
đất nước.
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự cường dân tộc,
trong chính sách đại đồn kết, phải chú ý phát huy tính năng động của mỗi
người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản xuất kinh doanh,
học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Đồng

thời,phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trường, đặc biệt là tâm
lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh làm phai nhạt truyền thống
đồn kết, tình nghĩa tương thân, tương ái của dân tộc và của Đảng.
Điều quan trọng để phát huy nội lực dân tộc, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc hiện nay là phải xây dựng được hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh. Phải chống các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn tham nhũng, quan liêu,
vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, phải biết lắng nghe những ý nguyện chính
đáng của nhân dân, phải kịp thời giải quyết những oan ức của nhân dân, làm cho
lòng dân được yên. Phải tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội,
đặc biệt coi trọng việc xây dựng Mặt trận, đổi mới, hồn thiện chính sách dân
tộc, chính sách tơn giáo, chính sách đối với cơng nhân, với nơng dân, với trí
thức, chính sách đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi, chính sách
đối với các thành phần kinh tế, tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật
lực vào sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, tồn cầu hóa kinh
tế ngày càng phát triển, đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, phát huy tối đa nội lực dân tộc còn đòi hỏi phải củng cố sự đoàn
kết với phong trào cách mạng các nước, đồng thời phải nắm vững phương châm
ngoại giao mềm dẻo, có ngun tắc nhằm thực hiện thắng lợi chính sách đối
ngoại hiện nay của Đảng và Nhà nước ta là: Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin
cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hịa bình, hợp tác và phát
triển.
17


Trong tình hình thế giới hiện nay, địi hỏi chúng ta phải có những chủ trương
đúng đắn, sáng tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, đẩy lùi nguy
cơ, để vừa nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, vừa giữ vững bản sắc dân tộc, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là các quan điểm mới về chủ

trương, đường lối về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường đồng thuận
xã hội, khơi dậy và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện tốt
phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng”. Cùng với đó cần phát huy vai trị cầu nối giữa nhân dân với Đảng, tăng
cường giám sát và phản biện xã hội, phát huy vai trò đại diện, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Phát huy bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, phải nhất quán coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận
không thể tách rời của cách mạng thế giới, tiếp tục đoàn kết, ủng hộ các phong
trào cách mạng, các xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời đại vì các mục tiêu
hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực
và thế giới, Đảng, Nhà nước ta chủ trương nêu cao nguyên tắc độc lập tự chủ, tự
lực tự cường, chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc, sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ và tận dụng sự đồng tình, ủng
hộ rộng rãi của lực lượng bên ngồi.
5. Một ví dụ điển hình: Đại đoàn kết dân tộc được phát huy cao độ trong tình
hình dịch bệnh Covid – 19 hiện nay.
Thực hiện lời kêu gọi của đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam ngày 17/3/2020, được sự chấp thuận của Thường trực Tỉnh ủy,
ngày 19/3/2020, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh ra Lời kêu gọi “Tồn
dân tham gia ủng hộ phịng, chống dịch bệnh Covid - 19”.

18


Với truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc, ngay sau lời kêu
gọi của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, nhiều doanh nghiệp, cơ quan,

đơn vị, tổ chức, cá nhân, nhà hảo tâm đã phát huy trách nhiệm của mình cùng
chung tay ủng hộ phịng, chống dịch bệnh Covid - 19. Bên cạnh đó, qua báo cáo
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên, có
rất nhiều cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, đồn viên, hội viên,
nhân dân trong tỉnh tích cực tham gia đóng góp ủng hộ chương trình “Tồn dân
ủng hộ phòng, chống dịch bệnh Covid - 19” do Trung ương phát động qua tin
nhắn gửi 1407. Từ đó, sẽ góp phần cùng Đảng, Nhà nước và chính quyền các
cấp trong tỉnh có thêm điều kiện tốt hơn để tập trung phòng, chống dịch bệnh
Covid - 19, cũng như kịp thời giúp đỡ nhân dân các địa phương.
Có thể khẳng định, bài học đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng trở nên sống
động và mang tính thời sự, ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh đất nước
đang chuyển mình mạnh mẽ để đón nhận những cơ hội cùng thách thức, khó
khăn lớn của dịch bệnh cũng như của quá trình hội nhập ngày một sâu rộng.

19


KẾT LUẬN
“Hỡi ai con cháu Rồng Tiên
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau”
Lời hiệu triệu đoàn kết năm xưa của Bác vẫn như cịn âm vang cùng non
sơng, đất nước. Thực hiện những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đồn
kết tồn dân tộc, tơi tin tưởng chắc chắn rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước, với truyền thống yêu nước, đại đoàn kết và nền tảng lịch sử, văn hóa hàng
ngàn năm của dân tộc ta, tình đồn kết, gắn bó keo sơn giữa cộng đồng 54 dân
tộc anh em trong ngôi nhà chung Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục được tăng
cường vững chắc, góp phần củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa nhân dân
với Đảng và chính quyền, tạo thành sức mạnh to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc là một hệ thống quan điểm

khoa học, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng và Nhà nước trong xây dựng
phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
trong xây dựng khối đại đồn kết các dân tộc có ý nghĩa vô cùng to lớn khơi
thức nội lực của từng dân tộc, phát huy tiềm lực của nhân dân các dân tộc trong
xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh quốc phịng trong cơng
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Là một sinh viên đang theo học trên giảng đường Đại học và là một cơng dân
của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tôi tự thấy bản thân cần phải cố
gắng học tập, tu dưỡng đạo đức, rèn luyện kỹ năng, không ngừng khát vọng
vươn tới thành công để trở thành người con có ích cho cộng đồng, góp một phần
sức lực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ngày một giàu đẹp hơn.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hồ Chí Minh: tồn tập.
2. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
3. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.

21



×