Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.35 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
I.DÂN CHỦ

5

1.Quan niệm về dân chủ

5

2.Đặc điểm của nền dân chủ

7

II.DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

8

1.Sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

8

2.Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

8

a.Bản chất chính trị

9

b.Bản chất kinh tế


9

c.Bản chất tư tưởng – văn hóa – xã hội

9

3.Đặc trưng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

10

4.Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

10

III.XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY

11

1.Sự phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

11

2.Nội dung của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

12

3.Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

13


4.Thực trạng việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

15

5.Những mặt hạn chế trong việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam

16

6.Những giải pháp để phát huy việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam

19


LỜI MỞ ĐẦU
Làm chủ là khát vọng có tính bản chất của con người. Trong quá trình vận
động và phát triển của xã hội loài người, khát vọng ấy được hiện thực hóa ở mức
độ khác nhau. Con người biết làm chủ trong quan hệ với tự nhiên, biết tận dụng
các điều kiện thuận lợi để tồn tại và phát triển. Trong lịch sử, chế độ chính trị tốt
đẹp nhất là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, đó là xã hội mà đại đa số người dân
được xác định là chủ thể xã hội, nhân dân làm chủ xã hội. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản khơng
chỉ ở chỗ xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xóa bỏ phân hóa giai cấp, mà
về chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải vượt qua dân chủ tư sản, thực hiện
quyền làm chủ thực sự của nhân dân.
Phát huy dân chủ đóng vai trị vơ cùng quan trọng, tạo động lực thúc đẩy sự
phát triển của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,

vì nhân dân. Phát triển lý luận và thực tiễn về dân chủ xã hội chủ nghĩa là một
trong những thành tựu to lớn của Đảng ta qua gần 35 năm đổi mới, góp phần
quan trọng vào việc hình thành và phát triển đường lối đổi mới của Đảng vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đáp ứng được khát
vọng của nhân dân, phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn Việt Nam. Xây
dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là một
trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Đây là một
trong những luận điểm khái quát cốt lõi về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Chúng ta cùng đi sâu vào tìm hiểu chủ đề: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”. Tiểu luận sẽ làm rõ
một số vấn đề lý luận về dân chủ, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó khẳng định bản chất tiến bộ của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa và đưa ra một số kiến nghị góp phần xây dựng, phát huy nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2


NỘI DUNG
I.Dân chủ
1.Quan niệm về dân chủ
Từ việc nghiên cứu các chế độ dân chủ trong lịch sử và thực tiễn lãnh đạo
cách mạng xã hội chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng,
dân chủ là sản phẩm và là thành quả của quá trình đấu tranh giai cấp cho những
giá trị tiến bộ của nhân loại, là một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm
quyền, là một trong những nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị - xã
hội. Dân chủ bao gồm các nội dung cơ bản sau đây:
(1) Phương diện quyền lực: dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân
dân là chủ nhân của nhà nước. Dân chủ là quyền lợi của nhân dân - quyền dân
chủ được hiểu theo nghĩa rộng. Quyền lợi căn bản nhất của nhân dân chính là

quyền lực nhà nước thuộc sở hữu của nhân dân, của xã hội; bộ máy nhà nước
phải vì nhân dân, vì xã hội mà phục vụ. Và do vậy, chỉ khi mọi quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân thì khi đó, mới có thể đảm bảo về căn bản việc nhân dân
được hưởng quyền làm chủ với tư cách một quyền lợi.
(2) Phương diện chính trị: dân chủ là một hình thức hay hình thái nhà nước,
là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ.
(3) Phương diện tổ chức và quản lý xã hội: dân chủ là một nguyên tắc dân
chủ. Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình thành nguyên tắc
tập trung dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh, dân chủ với những tư cách nếu trên phải
được coi là mục tiêu, là tiền đề và cũng là phương tiện để vươn tới tự do, giải
phóng con người, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Dân chủ với tư cách
một hình thức tổ chức thiết chế chính trị, một hình thức hay hình thái nhà nước,
nó là một phạm trù lịch sử, ra đời và phát triển gắn liền với nhà nước và mất đi
khi nhà nước tiêu vong. Song, dân chủ với tư cách một giá trị xã hội, nó là một
phạm trù vĩnh viễn, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của con
người, của xã hội loài người. Chừng nào con người và xã hội lồi người cịn tồn
3


tại, chừng nào mà nền văn minh nhân loại chưa bị diệt vong thì chừng đó dân
chủ vẫn cịn tồn tại với tư cách một giá trị nhân loại chung.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhận thức rất sớm và sâu sắc về dân chủ và vai
trò của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong tư tưởng của Hồ Chí
Minh dân chủ có nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Người khẳng định đồng
thời vị thế và năng lực của dân trong tư cách chủ thể, là người chủ xã hội, chủ
nhà nước. Theo Người, dân chủ là của quý báu nhất trên đời của dân, là quyền
trao cho dân chúng số nhiều; lợi ích và quyền hạn đều của dân. Công việc đổi
mới và xây dựng đều là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc
là cơng việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử

ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Tóm lại, quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân. Trong quan điểm về dân chủ, Người không chỉ đặt
nhân dân lên vị thế chủ thể xã hội mà khẳng định năng lực làm chủ của nhân
dân: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ
là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Dân chủ thì nhân dân là chủ và nhân
dân phải làm chủ. Dân đã có quyền làm chủ thì cũng phải thi hành nghĩa vụ của
người chủ.
Trên cơ sở những quan niệm dân chủ nêu trên, nhất là tư tưởng vì dân của
Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong công
cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khi nhấn mạnh phát
huy dân chủ để tạo ra một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước, Đảng ta
đã khẳng định, “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động”. Nhất là trong thời kỳ đổi mới, nhận thức về dân chủ của Đảng Cộng sản
Việt Nam có những bước phát triển mới: “Tồn bộ tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc
sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thơng qua hoạt
4


động của nhà nước do nhân dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp.
Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và
pháp luật bảo đảm”.
Từ những cách tiếp cận trên, có thể hiểu Dân chủ là một giá trị xã hội phản
ánh những quyền cơ bản của con người; là một phạm trù chính trị gắn với các
hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền; là một phạm trù lịch sử gắn
với quá trình ra đời, phát triển của lịch sử xã hội nhân loại.

2.Đặc điểm của nền dân chủ
Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, Lênin nhiều lần khẳng định
rằng: chế độ dân chủ cũng là nhà nước, do đó, nhà nước mà mất đi thì chế độ
dân chủ cũng mất theo. Ông nhấn mạnh: “Dân chủ là tự do, là bình đẳng, là
quyết định của đa số; cịn có gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết định của đa số
nữa”. Chế độ dân chủ được tạo lập sau các cuộc cách mạng do các Đảng Cộng
sản lãnh đạo là đỉnh cao, vượt trội so với nền dân chủ tư bản chủ nghĩa. Khơng
có một hạn chế luật định nào đối với tất cả công dân tham gia bầu cử, ứng cử;
nhà nước hình thành từ các cuộc bầu cử tự do trở thành một hình thức dân chủ.
Dân chủ dựa trên các nguyên tắc đa số cai trị và các quyền cá nhân. Các nền
dân chủ chống lại các chính phủ trung ương tập quyền và phi tập trận hóa chính
quyền ở cấp khu vực và địa phương, với nhận thức rằng tất cả các cấp độ chính
quyền đều phải được tiếp cận và phải đáp ứng người dân khi có thể.
Các nền dân chủ nhận thức rằng một trong những chức năng chính của họ là
bảo vệ các quyền con người cơ bản như tự do ngôn luận và tự do tơn giáo;
quyền được pháp luật bảo vệ bình đẳng và cơ hội được tổ chức và tham gia đầy
đủ vào đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội. Các nền dân chủ thường
xuyên tổ chức các cuộc bầu cử tự do và công bằng cho công dân ở dộ tuổi bầu
cử tham gia. Công dân ở một nền dân chủ khơng chỉ có các quyền mà cịn có
trách nhiệm tham gia hệ thống chính trị. Đổi lại, hệ thống chính trị đó bảo vệ các
quyền lợi và sự tự do của họ.

5


II.Dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.Sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền dân
chủ trong lịch sử và trực tiếp nhất là nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác - Lênin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài,

phức tạp và giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là hoàn thiện nhất, do đó,
tất yếu xuất hiện một nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ tư sản và đó chính
là nền dân chủ vơ sản hay cịn gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Với sự phát
triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, quá trình xã hội hóa sản xuất dẫn đến xã
hội hóa chế độ chiếm hữu tư liệu sản xuất, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời
phản ánh trình độ phát triển của phương thức sản xuất ấy.
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã nhiều lần khẳng
định: dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân
chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ
và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được
thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản. Ông viết: “Toàn bộ quyền lực tối cao trong nước phải thuộc về
các đại biểu của nhân dân, do nhân dân bầu ra, có thể bị nhân dân bãi chức bất
cứ lúc nào”. Để thực hiện nền dân chủ đó, một mặt nhân dân phải tích cực tham
gia vào cơng việc quản lý nhà nước, mặt khác, nhà nước phải không ngừng mở
rộng các quyền tự do, dân chủ của nhân dân: “dựa vào sáng kiến của bản thân
quần chúng, với sự tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà
nước...Quần chúng càng chủ động, càng có nhiều ý kiến, càng mạnh dạn và càng
có tinh thần sáng tạo khi tiến hành cơng việc đó thì lại càng tốt”
2.Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xét về bản chất của nó, là có khả năng vượt
qua được những hạn chế, những trở ngại mà chế độ dân chủ tư sản không thể
vượt qua. Nếu như trong chế độ dân chủ tư sản, nhà nước càng dân chủ bao
nhiêu, mở rộng các quyền hạn, quyền tự do và những đảm bảo cho những quyền
6


đó bao nhiêu, thì càng làm sâu thêm tính chất không dung hợp với chủ nghĩa tư
bản bấy nhiêu. Cho nên chế độ nhà nước càng dân chủ, thì chế độ tư bản chủ
nghĩa càng không thể chứa đựng nổi. Cịn đối với chủ nghĩa xã hội thì ngược lại,

như Lênin đã chỉ ra: “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của
phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn” - là một trong
những nhiệm vụ cấu thành của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là vấn đề có tính
quy luật của sự phát triển và hoàn thiện của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
a.Bản chất chính trị
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối
với tồn xã hội, nhưng khơng phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng
cho giai cấp công nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của tồn
thể nhân dân, trong đó có giai cấp cơng nhân. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do
Đảng Cộng sản lãnh đạo - yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực sự
thuộc về nhân dân, bởi vì Đảng Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp
cơng nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
khác về chất so với nền dân chủ tư sản ở bản chất giai cấp (giai cấp công nhân
và giai cấp tư sản) ở cơ chế nhất nguyên và cơ chế đa nguyên; một đảng hay
nhiều đảng; ở bản chất nhà nước (nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà
nước pháp quyền tư sản).
b.Bản chất kinh tế
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về những tư liệu
sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực
lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn
ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao
động. Khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế
độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu. Đó là tiền đề kinh tế hết
7


sức trọng yếu để khẳng định quyền dân chủ, quyền làm chủ của quảng đại quần
chúng nhân dân trong xã hội.

c.Bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin - hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong
xã hội mới. Đồng thời nó kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống
dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội… mà
nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc… Trong nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hoá tinh thần; được nâng cao
trình độ văn hố, có điều kiện để phát triển cá nhân. Dưới góc độ này dân chủ là
một thành tựu văn hố, một q trình sáng tạo văn hoá, thể hiện khát vọng tự do
được sáng tạo và phát triển của con người.
3.Đặc trưng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền dân chủ của công dân sẽ
không ngừng được được mở rộng trong tất cả lĩnh vực hoạt động của xã hội, nhà
nước. Thông qua hệ thống cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội và tổ chức
chính trị, chính trị - xã hội với sự tham gia tích cực của đơng đảo quần chúng
nhận dân lao động vào các hoạt động chính trị hàng ngày
Mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là xố bỏ chế độ người bóc lột
người, tạo các điều kiện thuận lợi để thực hiện triệt để dân chủ, cơng bằng xã
hội, cơng lí cho mọi người, bình đẳng thực sự giữa nữ và nam, văn minh, giữa
các dân tộc.
Từ đó, ln tạo ra cơ hội cho mọi người dân cảm thấy hạnh phúc thông qua
việc khẳng định và thừa kế những quyền dân chủ đó một cách chính thức trong
hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật. Cũng như đặt ra những bảo đảm
vật chất và tinh thần để thực hiện các quyền đó và không ngừng mở rộng các
quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, luôn đề cao trách nhiệm cá nhân đối
với Nhà nước và xã hội cũng như phát huy không ngừng quyền làm chủ của
nhân dân lao động.
8



4.Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Theo các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin thì động lực của quá trình phát triển xã hội, của quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội là dân chủ. Dân chủ phải được mở rộng để phát huy cao
độ tính tích cực, sáng tạo của nhân dân, để nhân dân tham gia vào cơng việc
quản lí nhà nước, quản lí và phát triển xã hội “với việc phát triển dân chủ một
cách đầy đủ, nghĩa là việc làm cho tồn thể quần chúng nhân dân tham gia thực
sự bình đẳng và thực sự rộng rãi vào mọi việc quản lí nhà nước”.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là quá trình vận động và thực
hành dân chủ , là quá trình vận động biến dân chủ thành hiện thực trong lĩnh vực
đời sống xã hội, là quá trình đưa các giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc của dân chủ
vào thực tiễn xây dựng cuộc sống mới. xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là quá trình tất yếu diễn ra nhằm xây dựng, phát triển và hoàn thiện dân chủ, đáp
ứng nhu cầu của nhân dân. Trước hết, nó trở thành điều kiện, tiền đề thực hiện
quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân, là điều kiện cần thiết, tất yếu để mọi
công dân được sống trong bầu khơng khí thực sự dân chủ. Xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa chính là thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản. Đây cũng là nhân tố
quan trọng chống lại những biểu hiện của dân chủ cực đoan, vơ chính phủ, ngăn
ngừa mọi hành vi coi thường kỷ cương, pháp luật.
Tóm lại, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một q trình tất yếu của
cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, của quá trình vận động biến dân chủ từ
khả năng trở thành hiện thực, để nền dân chủ “ngày càng tiến tới cơ sở hiện thực
của nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực và được xác định là sự
nghiệp của bản thân nhân dân”.

9



III.Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
1.Sự phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Từ khi thành lập Đảng đến Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ln quyết tâm thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
giành quyền dân chủ nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, chính quyền
cách mạng được giành về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng
định: Nước ta là nước dân chủ; bao nhiêu lợi ích đều vì dân; bao nhiêu quyền
hạn đều của dân; công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân; sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân; chính quyền từ xã đến chính phủ
Trung ương do dân cử ra; đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên;
nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Từ đó đến nay, tư tưởng dân
chủ của Người đã được hiện thực hóa. Nhân dân thực sự trở thành chủ thể đất
nước, từ người nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Mục tiêu xây dựng nền
dân chủ ngày càng được mở rộng và phát huy cao độ, nhân dân hồ hởi, phấn
khởi bước vào các cuộc kháng chiến, kiến quốc, chống thực dân, đế quốc, thống
nhất đất nước, tiến hành đổi mới đất nước với tư thế người làm chủ đất nước.
Đảng ta xác định dân chủ là mục tiêu của mọi cuộc cách mạng. Tùy vào mỗi
giai đoạn lịch sử khác nhau, tùy thuộc vào yêu cầu của các cuộc cách mạng mà
có những hình thức dân chủ phù hợp. Chế độ dân chủ ở Việt Nam ngày càng
hồn thiện hơn, được luật hóa, phổ biến đến mọi người dân. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) một lần nữa tiếp tục nhất quán mục tiêu dân chủ: Xã hội xã hội chủ
nghĩ mà nhân dân ta xây dựng là một chế độ do nhân dân làm chủ, là bản chất
của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây
dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ
được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân
chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật,
được pháp luật bảo đảm.

10



Khi dân chủ trở thành mục tiêu của phát triển xã hội, nó thơi thúc nhân dân
thực hiện cơng cuộc xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân trở thành
động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ và trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu bước ngoặt lớn, đưa đất nước vào thời kỳ
đổi mới toàn diện, đồng bộ. Nhân dân ta lại bước vào một giai đoạn mới, đó là
đổi mới đất nước tồn diện: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, nền văn hóa định hướng xã hội chủ nghĩa... hàng loạt vấn đề có
tính chất mới mẻ, vừa làm, vừa tìm tịi sáng tạo. Q trình đổi mới cho thấy,
chừng nào dân chủ được phát huy, được mở rộng, chừng đó đất nước ta phát
triển vượt bậc, bền vững. Bài học “dân là gốc, dân là chủ” ngày càng thấm
nhuần trong đời sống xã hội.
2.Nội dung của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nội dung cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa là tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân. Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là
thống nhất, nhưng có sự phân cơng rành mạnh và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện ban quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và hoàn thiện khác
về bản chất đối với nền dân chủ tư sản và các nền dân chủ đã từng tồn tại trong
lịch sử nhân loại. Đó là nền dân chủ tiến bộ, nhân văn, của toàn thể nhân dân lao
động, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được bảo đảm bằng hệ thống pháp luật,

bằng hệ thống tổ chức nhà nước do nhân dân bầu ra, do Đảng Cộng sản lãnh
11


đạo. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không ngừng được hồn thiện cùng với q
trình mở rộng, làm phong phú thêm các yêu cầu đa dạng của nhân dân về quyền
tự do, tự quyết và các điều kiện cho sự phát triển toàn diện của con người. Gồm
các đặc điểm sau:
(1) “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Việc bảo đảm nguyên tắc dân chủ
được thực hiện qua cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”.
(2) Nhà nước Việt Nam do nhân dân bầu ra thơng qua các đại biểu của mình.
Ở cấp địa phương, các đại biểu được nhân dân bầu cử trực tiếp, tổ chức thành
hội đồng nhân dân các cấp - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở mỗi địa
phương. Trên phạm vi quốc gia, nhân dân trực tiếp bầu đại biểu quốc hội và
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực thi quyền lập pháp, thay
mặt nhân dân tổ chức ra bộ máy nhà nước và giám sát hoạt động của bộ máy đó.
Nhà nước thực hiện quản lý đất nước bằng pháp luật, không ngừng tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc bảo đảm quyền của công dân không
tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân với xã hội và đất nước.
(3) Nhân dân được hưởng, được tôn trọng các quyền tự do, dân chủ, quyền
con người, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được hệ thống pháp luật bảo
vệ. Nhân dân có quyền trực tiếp tham gia các hoạt động quản lý của Nhà nước,
tham gia xây dựng pháp luật, hoạch định chính sách và quyết định các vấn đề
quốc kế dân sinh. nhân dân được thực hiện quyền làm chủ của mình thơng qua
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị - xã
hội, xã hội - nghề nghiệp. Nhân dân được bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong

kinh tế theo hai bình diện: quyền, các lợi ích kinh tế và hoạt động sản xuất, kinh
doanh, phát triển kinh tế. Nhân dân được hưởng các quyền tự do, dân chủ trong
lĩnh vực văn hóa - xã hội với mục đích đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu
12


ngày càng phong phú của nhân dân về văn hóa, giáo dục, y tế... nhằm tạo điều
kiện tốt nhất cho mỗi người dân ngày càng hồn thiện về đức, trí, thể, mỹ.
(4) Nhà nước và mọi quyền lực trong xã hội đều đặt dưới sự kiểm tra, giám
sát của nhân dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm
tra”.
Sau gần 35 năm đổi mới, về cơ bản nước ta đã chuyển đổi thành từ mơ hình
kinh tế quan liêu bao cấp sang mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và tiến từ dân chủ nhân dân lên dân chủ xã hội chủ nghĩa . Hiện nay
đang từng bước phát triển và hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa để tiến lên kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và xây dưng phát triển
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hướng tới tương lai tốt đẹp.
3.Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
(1) Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, mở rộng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững, thực hiện
thành công mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của
Đảng đề ra, chúng ta phải coi trọng phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vì
nó là một mục tiêu cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đến lượt nó,
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát triển và hoàn thiện lại trở thành động
lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội không ngừng phát triển. Chủ nghĩa xã hội ở nước
ta từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ chỗ chưa phát triển đến phát triển.
Q trình này cần có thời gian và môi trường ổn định, đặc biệt là ổn định chính
trị, nếu khơng có sự ổn định thì sẽ không thực hiện được những ước vọng lớn

lao. Muốn duy trì ổn định xã hội để tiến lên phải phát triển dân chủ xã hội chủ
nghĩa và lấy đó làm động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện xã hội.
Nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng là “xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân”. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn nhấn mạnh nhân dân làm chủ là
13


bản chất của chủ nghĩa xã hội, kiên định nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, khơng ngừng thúc đẩy đổi mới chính trị, xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa và đã đạt được những thành tựu to lớn. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) đã nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong
thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ
luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo
đảm”
Trên cơ sở những lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ “dân là chủ”
đến “dân làm chủ” là một bước phát triển về chất, Đảng ta không chỉ xác định vị
thế, tư cách chủ thể xã hội là của nhân dân, “dân là gốc”, mà quan trọng hơn,
bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là phải làm cho nhân dân được hưởng
quyền làm chủ và có năng lực, phương pháp, bản lĩnh làm chủ trên thực tế... khi
đó, dân chủ trở thành động lực để xây dựng, phát triển đất nước. Tại Đại hội
XIII, Đảng ta khẳng định: “…thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, dân giám sát, dân hưởng thụ”.
(2) Xây dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân
dân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.
Là khát vọng hàng ngàn năm của tuyệt đại đa số nhân dân lao động, tuy

nhiên việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản nói chung, nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng là thực tiễn chưa có tiền lệ, khác với nền dân chủ
tư sản đã có lịch sử hàng nhiều trăm năm và bản thân nó cũng đã và đang tiếp
tục phải cải tiến, điều chỉnh. Do vậy, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
theo ý kiến của đồng chí Tổng Bí Thư, cần phải nhận thức là quá trình lâu dài
của cách mạng Việt Nam. Chỉ có như thế mới khắc phục các biểu hiện chủ quan
duy ý chí nóng vội, cũng như tâm lý chán nản, dễ chấp nhận khiến cho q trình
dân chủ hóa trì trệ, bất cập với yêu cầu đổi mới. Chúng ta vừa tăng cường thực
14


hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, nhưng cũng cần tránh các biểu hiện dân chủ
hình thức, dân chủ cực đoan, dân chủ kiểu phương Tây, lợi dụng dân chủ - nhân
quyền để gây mất ổn định, thực hiện cách mạng “sắc màu” hòng thay đổi chế độ
xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, không được phiến diện trong nhận thức về mối quan
hệ giữa “đa đảng”, “đa nguyên” với mức độ cao thấp của dân chủ; khắc phục sự
mơ hồ về thực chất và hình thức biểu hiện của nền dân chủ tư sản như đồng chí
Tổng Bí thư đã nêu: “Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ
tự do”… không hề bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân
hay vì nhân dân”. Cũng như vậy, nếu ai đang đồng nhất giữa dân chủ trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa đầy đủ
sẽ là một sai lầm nghiêm trọng. Song song với những bất cập trên, còn cần phải
khắc phục tính biệt lập trong xây dựng, hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Tuy khác biệt về bản chất chính trị với dân chủ tư sản, nhưng điều đó khơng
ngăn trở việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc các thành quả của nhân loại trong xây
dựng nền dân chủ của Việt Nam.
4.Thực trạng việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
(1) Tư tưởng chiến lược chỉ đạo phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là
dựa trên lý luận dân chủ của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết
hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nguyên tắc cơ bản.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trị độc tơn lãnh đạo cơng cuộc phát
triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
(3) Cơ sở kinh tế cho việc xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và từng bước hoàn thiện tiến lên kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước với chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu giữ vai trò chủ đạo.
(4) Phương thức thúc đẩy công cuộc phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là lấy dân làm gốc, đánh giá cao vị trí, vai trị làm chủ xã hội của nhân
dân.
15


(5) Trọng điểm công cuộc phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa là thường
xuyên củng cố, phát triển dân chủ trong Đảng, coi dân chủ trong đảng là “hạt
nhân” của dân chủ xã hội chủ nghĩa và lấy dân chủ trong Đảng thúc đẩy dân chủ
trong toàn xã hội. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngày càng cao
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, quán triệt sâu sắc quan điểm dân biết, dân
bàn, dân thực hiện, dân kiểm tra.
5.Những mặt hạn chế trong việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
(1) Một số yếu tố tạo nên dân chủ cơ sở cịn thiếu hoặc chỉ mới hình thành,
thiếu hoàn thiện. Các quyền của người dân là nền tảng của dân chủ cơ sở chưa
được xác định cụ thể thực tế hơn, chưa được nuôi dưỡng để ăn sâu bám rễ vào
đời sống cộng đồng. Quyền làm chủ của nhân dân chưa hồn tồn được tơn
trọng và phát huy, chưa có cơ chế đầy đủ bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò
chủ thể của quyền lực.
Ai sẽ phải chịu trách nhiệm khi quyền lợi chính đáng của người dân bị vi
phạm, khi những hạn chế của cơ chế nhiệm kỳ trong quản lý lâu nay vẫn tồn tại
và nguyên tắc được đặt ra liên tục trong điều hành nhưng khơng được tn thủ

nghiêm túc?
Ai sẽ hồn thiện cơ chế tiếp nhận và giải quyết như thế nào để có thể mang
lại hiệu quả cao hơn khi người dân dùng quyền khiếu nại, tố cáo?
Ai sẽ lên tiếng bảo vệ những người đứng ra tố cáo hành vi sai trái? Cũng
chưa có nghiên cứu thấu đáo nào về quyền của người dân trực tiếp lựa chọn và
loại bỏ người đại diện nếu khơng cịn cảm thấy xứng đáng… Đây chỉ là một số
ít những vấn đề trong rất nhiều vấn đề khác cần phải được giải quyết thấu đáo
trong quá trình xây dựng và phát triển dân chủ cơ sở.
(2) Nhận thức và thực hành về dân chủ còn hạn chế, thực hiện dân chủ cơ sở
chỉ là hình thức. Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở
một số nơi rơi vào hình thức. Cịn tình trạng lạm quyền, lộng quyền, quan liêu,
tham nhũng gây phiền hà, mất niềm tin, bức xúc cho nhân dân của một số cơ
16


quan cơng quyền, cán bộ. Chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành
pháp luật, quy định. Dùng quyền lực hành chính để áp đặt các quy định và
khơng có sự bàn bạc với người dân thấu đáo để triển khai... Hệ thống pháp luật
của Việt Nam có mặt cịn chưa đồng bộ, hay thay đổi gây khó khăn cho các cơ
quan thi hành pháp luật và nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ
trong xã hội...
(3) Giáo dục phục vụ cho sự phát triển dân chủ tuy vậy cách tuyên truyền,
giáo dục đến thể chế và hành động chưa thực sự hiệu quả trong việc xây dựng
nền dân chủ nói chung, nhất là dân chủ cơ sở trong bối cảnh hiện nay - thời kỳ
hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc cách mạng khoa học 4.0 đang phát triển mạnh
mẽ.
Trong “thế giới phẳng”, người dân chưa nhận thức rõ sự chân thực và giả dối
trước các luồng tư tưởng dân chủ đang lan truyền mạnh mẽ và nhanh chóng. Sẽ
có những luồng tư tưởng khác nhau về dân chủ thâm nhập vào đời sống xã hội
như một quy luật của sự giao thoa do quá trình hội nhập quốc tế và sự phát triển

của khoa học công nghệ. Thông tin sẽ đa dạng hơn, kể cả những thông tin về các
xu hướng dân chủ khác nhau trên thế giới. Do sự thiếu hiểu biết, giáo dục hạn
chế từ đó dẫn đến những tư tưởng sai lệch về dân chủ và dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Nếu chỉ có các khẩu hiệu mang tính hơ hào mà thiếu đi những hành động
gương mẫu thì đó khơng phải là cách làm hiệu quả phục vụ cho nhiệm vụ xây
dựng và phát triển dân chủ cơ sở.
(4) Hiện nay nước ta đang xây dựng nền dân chủ trong sự vận hành của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một nền dân chủ ổn định từ cơ
sở là điều kiện tất yếu cho quá trình mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm, liên kết thuận lợi để bảo vệ các giá trị hàng hóa. Nếu dân chủ giúp
đỡ các hoạt động của kinh tế thị trường phát triển thì chính kinh tế thị trường
cũng đòi hỏi phải thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển các yêu cầu về dân chủ. Tuy
vậy ta vẫn chưa đáp ứng được một số điều kiện nhất định như kinh tế phát triển
đồng đều, có một nền giáo dục công bằng và hoạt động hiệu quả cao với sứ
17


mệnh mở mang tầm nhìn của con người để có một nền dân chủ phát triển đi đôi
với nền kinh tế thị trường triển vọng.
(5) Rất nhiều các thế lực thù địch trong và ngồi nước khơng ngừng chống
phá, thực hiện bằng những chiến lược “mềm”, đặc biệt là chiến lược "diễn biến
hịa bình". Một trong những mục tiêu của chiến lược đó là thúc đẩy "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" từ bên trong nội bộ. Thủ đoạn mà chúng thực hiện là lợi
dụng internet, mạng xã hội tán phát các thông tin xuyên tạc bản chất của chế độ
xã hội Việt Nam, thổi phồng những mặt trái của xã hội, tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, từng bước
làm suy giảm niềm tin của nhân dân, của cán bộ, đảng viên với chế độ xã hội,
với Đảng… chuyển hóa xã hội hiện hữu sang con đường tư bản chủ nghĩa.
Những năm gần đây, chúng còn chống phá chế độ bằng phương thức đóng vai
người “yêu nước” để huy động đám đông, dùng phương thức “bất tuân dân sự”

gây rối trật tự công cộng. Vụ việc lấy cớ phản đối Công ty Formosa Hà Tĩnh gây
ô nhiễm môi trường diễn ra ở các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, năm 2014 - 2015 là
một ví dụ điển hình.
6.Những giải pháp để phát huy việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam
(1) Xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tạo ra cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Trước hết cần thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình
thức sở hữu, thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, loại hình doanh
nghiệp trong nền kinh tế. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các
tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu… quy định rõ, quyền trách
nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội. Cùng với đó là có nhận thức đúng đắn
về vai trị quan trọng của thể chế, xây dựng và hoàn thiện thể chế phải được tiến
hành đồng bộ cả ba khâu: Ban hành văn bản, quy định của thể chế; xây dựng cơ
chế vận hành, thực thi thể chế trong hoạt động kinh doanh cụ thể; hoàn thiện tổ
18


chức bộ máy theo dõi, giám sát việc thi hành thể chế, xử lý vi phạm và tranh
chấp trong thực thi thể chế. Trong khi triển khai đồng bộ thể chế môi trường
kinh doanh phải tập trung cải cách hành chính, từ bộ máy hành chính đến thủ tục
hành chính. Thắng lợi của cải cách hành chính sẽ nhanh chóng thúc đẩy cải thiện
nhiều về môi trường kinh doanh. Đồng thời, phải phát triển đồng bộ các yếu tố
thị trường và các loại thị trường. Hình thành việc rà sốt, bổ sung, hoàn thiện
các quy định pháp luật về kinh doanh phù hợp với Việt Nam.
(2) Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh với tư cách
điều kiện tiên quyết để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để
đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí

tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Đảng phải dân
chủ hóa trong sinh hoạt, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và
phê bình. Có như vậy, Đảng mới đảm bảo sự lãnh đạo trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
(3) Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh với tư cách
điều kiện để thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam phải thực thi
quyền dân chủ của nhân dân trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thể
hiện bằng Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước phải đảm bảo quyền con người là
giá trị cao nhất. Chính vì vậy, tất cả các chính sách, pháp luật đều phải dựa vào ý
chí, nguyện vọng của nhân dân. Nhà nước đảm bảo quyền tự do của công dân,
đảm bảo danh dự, nhân phảm, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân bằng
pháp luật và trên thực tế đời sống xã hội.
(4) Nâng cao vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Các tổ chức chính - xã hội ở nước ta cần phải đổi mới
mạnh mẽ phương thức hoạt động để nâng cao vị trí, vai trị của mình, để tham
gia giám sát, phản biện đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Tạo ra khối đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống nhân dân, thực hiện dân chủ
19


trong đời sống xã hội. Đồng thời tham gia vào bảo vệ chính quyền, xây dựng
Đảng, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân.
(5) Xây dựng và từng bước hoàn thiện các hệ thống giám sát, phản biện xã
hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tăng cường công tác giám sát,
phản biện xã hội là yếu tố đảm bảo xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, nó ảnh hưởng tới đời sống tâm lý của nhân dân khi nhìn nhận đánh giá
các chủ trường, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do đó,
cần cơng khai hóa, minh bạch hóa, dân chủ hóa về thơng tin, về chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến lợi ích

chính đáng của nhân dân. Cần cụ thể hóa hơn nữa các quy chế và hình thức thể
hiện sự tơn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân đối với các vấn đề phát triển
của đất nước.
Ngồi ra cần nâng cao dân trí, văn hóa pháp luật cho tồn thể xã hội (cán bộ
đảng viên, công chức, viên chức, nhân dân…).

20


KẾT LUẬN
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung cơ bản trong lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cao nhất của dân chủ
xã hội chủ nghĩa là thiết lập một xã hội mới tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản,
thiết lập một nền dân chủ cho đông đảo nhân dân lao động, một nền dân chủ
nhân văn, tiến bộ, vì hạnh phúc con người.
Xây dựng chế độ dân chủ phải được coi là sự nghiệp cách mạng lâu dài, là
nhiệm vụ trọng yếu, bởi dân chủ vừa thể hiện bản chất của chế độ ta vừa là mục
tiêu, động lực của sự phát triển đất nước. Tơi hồn tồn nhất trí và tin tưởng
rằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những “giá trị đích thực của chủ
nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang định, kiên trì theo đuổi”.
Là một sinh viên đang theo học trên giảng đường Đại học và là một công dân
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tôi tự thấy bản thân cần phải cố
gắng học tập, tu dưỡng đạo đức, rèn luyện kỹ năng, không ngừng khát vọng
vươn tới thành công để trở thành người con có ích cho cộng đồng, góp một phần
sức lực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ngày một giàu đẹp hơn.

21



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hồ Chí Minh: Tồn tập.
2. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI.
3. Nhà xuất bản Sự thật, Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
4. Nhà xuất bản Tiến bộ Matxcơva, V.I. Lênin: Toàn tập.

22



×