BÀI KIỂM TRA PHẦN 2
LỚP BỒI DƯỠNG CHỨNG CHỈ CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP
GIÁO VIÊN THCS HẠNG II
-
Họ và tên học viên:
Ngày tháng năm sinh:
Chức vụ.
Chuyên môn:
- Đơn vị công tác: ----------------------------------------------------------------BÀI LÀM
Câu 1: Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là gì? Mục đích, ý nghĩa của
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học.
- Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là hoạt động GV cùng nhau học tập
từ thực tế việc học của HS. Ở đó, GV cùng nhau thiết kế kế hoạch bài học, cùng dự giờ,
quan sát, suy ngẫm và chia sẻ (tập trung chủ yếu vào việc học của HS) bài học. Đồng
thời đưa ra những nhận xét về sự tác động của lời giảng, các câu hỏi, các nhiệm vụ học
tập mà GV đưa ra,… có ảnh hưởng đến việc học của HS. Trên cơ sở đó, GV được chia
sẻ, học tập lẫn nhau, rút kinh nghiệm và điều chỉnh nội dung, PPDH vào bài học hằng
ngày một cách hiệu quả.
- Mục đích, ý nghĩa của sinh hoạt chun mơn theo NCBH?
+ Đảm bảo cho tất cả học sinh có cơ hội tham gia thực sự vào quá trình học tập,
giáo viên quan tâm đến khả năng học tập của từng học sinh, đặt biệt những học sinh có
khó khăn về học.
+ Tạo cơ hội cho tất cả giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng sư
phạm và phát huy khả năng sáng tạo trong việc áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy
học thông qua việc dự giờ, trao đổi, thảo luận, chia sẻ sau khi dự giờ.
+ Nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường.
+ Góp phần làm thay đổi văn hóa ứng xử trong nhà trường: cải thiện mối quan hệ
giữa Ban giám hiệu với giáo viên; giáo viên với giáo viên, giáo viên với học sinh, cán
bộ quản lý/giáo viên/học sinh với các nhân viên trong nhà trường; giữa học sinh với học
sinh. Tạo môi trường làm việc, dạy và học dân chủ, thân thiện cho tất cả mọi người./
Câu 2: Sự khác nhau của sinh hoạt chuyên môn truyền thống và sinh hoạt chun mơn theo NCBH?
Nội
dung
1. Mục
đích
Sinh hoạt chuyên môn
truyền thống
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên
cứu bài học
- Tập trung vào việc đánh giá, xếp - Không thực hiện đánh giá xếp loại
loại tiết dạy theo các tiêu chí đã quy giờ dạy theo các tiêu chí đã quy định.
định;
- Tạo cơ hội cho GV phát triển năng
- Thống nhất cách dạy các dạng bài lực chuyên môn, phát huy khả năng
để tất cả GV thực hiện nhằm nâng sáng tạo của mình, kết nối lí thuyết với
cao kỹ năng dạy học. Bài dạy minh thực hành, ..
họa được coi là bài dạy mẫu;
- Đảm bảo tất cả HS tham gia quá trình
- Tập trung chủ yếu vào việc dạy, ít học tập, đồng thời nâng cao chất lượng
quan tâm đến việc học của HS. Vì học tập của từng HS
vậy, những HS gặp khó khăn trong
học tập không được GV giúp đỡ kịp
thời.
2. Thiết
kế bài
dạy
minh
họa
3. Dạy
minh
họa
- Bài dạy minh họa được thiết kế
theo nội dung các chuyên đề được
xác định trong KH năm học của Tổ
hoặc theo yêu cầu của trường.
- Bài dạy minh hoạ do nhóm CBQL,
GV trong tổ thiết kế. Khuyến khích
linh hoạt sáng tạo, khơng phụ thuộc
máy móc vào quy trình, các bước dạy
- Bài dạy minh họa được thiết kế học trong SGK, SGV.
theo mẫu chung. Nội dung bài học - Nhóm có thể điều chỉnh nội dung,
bám sát SGK, sách GV. Ít khi dám thời lượng, PPDH, KTDH, ... cho phù
thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp hợp với yêu cầu tiết dạy và đối tượng
với đối tượng HS;
HS.
- PPDH máy móc, khơng linh hoạt
(các bước lên lớp, thời gian, ...).
Câu hỏi phát vấn thường đã có
trước câu trả lời, ít có các phương
án dự kiến tình huống xảy ra.
- GV dạy có thể kinh hoạt thay đổi
hình thức, PPDH, KTDH, ... nếu xuất
hiện tình huống xảy ra khơng đúng dự
kiến.
- Khi dạy minh họa, GV thường cố
gắng làm “tròn vai” (dạy hết các
kiến thức trong bài), tuân thủ thời
gian, tập trung vào các HS khá giỏi
(sợ cháy giáo án). Vì vậy, không
báo quát lớp. Sau tiết dạy, GV
không biết được suy nghĩ và cảm
xúc của (từng nhóm) HS.
- Khuyến khích tự nguyện nhưng đảm
bảo tính ln phiên.
- Thay mặt nhóm thể hiện các ý tưởng
đã thiết kế trong bài học.
- HS gặp khó khăn trong học tập được
GV hướng dẫn, giúp đỡ kịp thời.
- Khơng được “dạy trước” vì mục đích
- Đa số các tiết dạy minh họa của sinh hoạt chun mơn khơng phải
thường mang tính “biểu diễn - trình dể đánh giá xếp loại tiết dạy mà chủ
diễn”.
yếu là cùng nhau trải nghiệm và học
(- Để đối phó với việc đánh giá, xếp tập từ thực tế.
loại tiết dạy, mốt số GV đã “chuẩn
bị trước”).
4. Dự
giờ
- Sự phân chia môn học và giảng
dạy theo khối đã tạo ra sự ngăn
cách giữa các GV, khó có thể cùng
hành động hướng đến mục tiêu
chung: giúp HS học tập.
- Mục đích cuối cùng của dự giờ là
đánh giá, xếp loại tiết dạy. Vì vậy,
người dự giờ thường tập trung mọi
sự chú ý theo dõi GV dạy, ít chú ý
đến người học (HS).
5. Phân
tích tiết
dạy
minh
họa
- Người dự giờ là GV các khối, các
môn học để cùng chia sẻ kinh nghiệm
dạy học dựa trên thực tế học tập của
HS
- Bố trí số lượng vừa phải, đứng ở vị trí
thuận lợi để quan sát, ghi chép, sử
dụng các kĩ thuật, chụp ảnh, quay phim
... những hành vi, tâm lí, thái độ của
HS để có dữ liệu phân tích việc học tập
của HS.
- Các ý kiến phân tích, nhận xét sau
tiết dạy nhằm mục đích đánh giá
xếp loại GV dạy. Thông thường
người dự giờ sẽ dựa vào các tiêu
chí đã quy định để nhận xét. Ý kiến
nhận xét thường chung chung, ít có
minh chứng từ việc học của HS.
- GV dạy minh họa chia sẻ mục tiêu
bài học, những ý tưởng mới, những
thay đổi, điều chỉnh, cách thức tiến
hành, cảm nhận của mình qua quá trình
dạy bài học.
- Cuối cùng, người chủ trì chốt lại
các ý kiến đóng góp và đưa ra quy
trình chung để dạy một dạng bài và
nêu ý kiến xếp loại chung tiết dạy.
- Không đánh giá, xếp loại người dạy
(nếu kết quả khơng như mong muốn)
thì xem đó là bài học chung để mỗi GV
tự rút kinh nghiệm.
- Khơng khí buổi sinh hoạt chun
mơn thường là nặng nề. Vì vây, GV
khơng hứng thú khi tham dự buổi
sinh hoạt chuyên môn. Nhưng
người thiệt thịi nhất là các em HS.
- Người chủ trì tôn trọng và lắng nghe
tất cả ý kiến của GV, khơng áp đặt ý
kiến của mình hoặc của một nhóm
người. Tóm tắt các vấn đề thảo luận và
đưa ra các biện pháp hỗ trợ HS.
- Người dự giờ đưa ra các ý kiến nhận
xét, góp ý về giờ học theo tinh thần
- GV dạy minh họa thường chỉ biết trao đổi, chia sẻ, lắng nghe mang tính
lắng nghe một chiều từ các ý kiến xây dựng; tập trung phân tích các vấn
đóng góp của đồng nghiệp.
đề liên quan đến việc học của HS.
6. Kết
quả
a) Đối với học sinh.
a) Đối với học sinh
- Kết quả học tập ít được cải thiện
vì GV chưa quan tâm nhiều đến HS
mà chỉ tập trung lo “biểu diễn”.
Đặc biệt, những HS gặp khó khăn
trong học tập thường bị GV “bỏ
quên” trong tiết dạy.
- Kết quả của HS được cải thiện.
- HS tự tin hơn, tham gia tích cực vào
các hoạt động học, khơng có học sinh
nào bị “bỏ quên”.
- Quan hệ giữa các HS trở nên thân
thiện, gần gũi về khoảng cách kiến
- Một số tiết dạy minh họa được thức.
“chuẩn bị trước”, HS chủ yếu là
“diễn viên” nên tiết dạy không
đúng thực chất làm cho HS mệt
mỏi, nhàm chán.
b) Đối với giáo viên.
- Bị “áp lực”, phải dạy để mọi
người đánh giá năng lực của mình
(khơng phải vì việc học của HS). Vì
vậy, GV phải “bám sát” những quy
định của tiết dạy, không dám thay
đổi cách dạy, không dám sáng tạo.
b) Đối với giáo viên.
- Chủ động sáng tạo, tìm ra các biện
pháp để nâng cao chất lượng dạy và
học.
- Tự nhận ra hạn chế của bản thân để
điều chỉnh kịp thời.
- Nếu gặp phải những tình huống - Quan tâm đến những khó khăn của
HS, đặc biệt là HS yếu, kém.
bất ngờ, GV thường lúng túng.
- Các PPDH mà GV sử dụng trong tiết - Quan hệ giữa đồng nghiệp trở nên
gần gũi, cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ
dạy thường mang tính hình thức.
lẫn nhau.
- Khi chia sẻ, phân tích tiết dạy
(nếu có hạn chế), GV thường đổ lỗi
cho HS hay những nguyên nhân
khác. GV khơng thấy được ngun
nhân chính là từ GV..
- Việc “chuẩn bị trước” quá kỹ nên
tiết dạy đôi khi quá “lý tưởng”.
Người dự giờ khơng học hỏi được
điều gì.
c) Đối với cán bộ quản lí.
c) Đối với cán bộ quản lí.
- Áp đặt, máy móc, khơng dám và
khơng tạo điều kiện để GV phát - Đặt bài học lên hàng đầu, đánh giá sự
huy những ý tưởng sáng tạo.
linh hoạt sáng tạo của của từng GV.
- GV dạy phải thiết kế bài soạn theo
mẫu chung, bám sát SGK, sách GV,
... Vì vậy, các GV thường chép (in)
giáo án lẫn nhau. Khi có dự giờ thì
chuẩn bị kỹ, luyện tập trước cho
HS, nếu bị phê bình thì đổ lỗi cho
HS. Do đó, CBQL khơng phát hiện
được những điểm yếu, điểm mạnh
của từng GV để hỗ trợ.
- Có cơ hội bám sát chun mơn, hiểu
được ngun nhân của những khó khăn
trong q trình dạy và học để có biện
pháp hỗ trợ kịp thời.
- Quan hệ giữa cán bộ quản lí và GV
gần gũi, gắn bó và chia sẻ.
d) Đối với nhà trường.
Tăng cường mối quan hệ học hỏi, lắng
nghe, cộng tác, đồng thuận, chia sẻ, ...
hướng đến mục tiêu chung. Từ đó, chất
lượng được nâng lên.
Câu 3: Nêu khó khăn gặp phải trong sinh hoạt chuyên môn ở trường thầy/cô đang
công tác?
Vấn đề sinh hoạt chun mơn của nhà trường THCS Nguyễn Chí Thanh trong
nhiều năm qua có nề nếp, chất lượng dạy – chất lượng học được nâng lên qua từng năm
học. Tuy nhiên cũng cần nhận định một cách khách quan rằng vấn đề chỉ đạo sinh hoạt
chuyên môn và sinh hoạt tổ chun mơn có nội dung chưa phong phú, hình thức cịn
đơn điệu gị bó, chưa đi sâu vào các vấn đề trọng tâm đổi mới phương pháp và tháo gỡ
những khó khăn mà giáo viên cịn mắc phải.
Trong dự giờ đồng nghiệp giáo viên chỉ chú ý quan sát việc dạy của giáo viên,
xem giáo viên đó có dạy đủ, đúng kiến thức không, giáo viên dạy như thế nào, ngơn
ngữ ra sao, có đảm bảo các khâu các bước lên lớp hay khơng, phân phối thời gian dạy
có hợp lý hay không. Họ không quan tâm xem học sinh được học như thế nào trong giờ
học ấy. Khi đánh giá tiết dạy các ý kiến trao đổi thường mang tính áp đặt một chiều.
Đồng thời các ý kiến cũng đưa ra cách dạy đặc trưng cứng nhắc cho một loại bài hay
một mơn học nào đó.
Trong các buổi sinh hoạt, một số giáo viên được coi là dạy khá và cán bộ quản lý
hay nhận xét còn những giáo viên trung bình ít khi có ý kiến, những vấn đề mới, khó ít
được mang ra bàn bạc, thảo luận. Khơng khí buổi sinh hoạt chun mơn thường trầm
lắng hoặc căng thẳng khiến giáo viên bị ức chế hoặc không học được gì từ buổi sinh
hoạt chun mơn.
Từ thực trạng nói trên bản thân là Tổ trưởng chuyên môn cần phải thay đổi để
chuyển từ sinh hoạt chuyên môn truyền thống sang sinh hoạt chuyên môn theo NCBH,
lấy học sinh làm trung tâm, để sau mỗi buổi sinh hoạt chun mơn, giáo viên thấy được
những gì mình cịn thiếu, cịn yếu để từ đó có nhu cầu tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao
trình độ chuyên mơn của mình.
Ngồi ra, phải đảm bảo cho tất cả học sinh có cơ hội tham gia thực sự vào quá
trình học tập, giáo viên quan tâm đến khả năng học tập của từng học sinh, đặc biệt là
những học sinh có khó khăn trong khi học. Qua đó nâng cao chất lượng dạy và học của
nhà trường./
Chư sê, ngày 6 tháng 6 năm 2018
Người thực hiện