Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

SKKN thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở trường mầm non đồng sơn, thành phố đồng hới, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.81 KB, 65 trang )

1
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giao tiếp là nhu cầu cơ bản trong đời sống tinh thần của con người. Nhờ giao
tiếp, mỗi người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội , tổng hoà các quan hệ
xã hội tạo thành bản chất con người, lĩnh hội nền văn hố xã hội tạo thành
tâm lí, ý thức, nhân cách. Dân gian có câu: Đi một ngày đàng, học một sàng
khơn. Càng tích cực tham gia vào các mối quan hệ xã hội, quan hệ giao tiếp
phong phú bao nhiêu con người càng tiếp thu được những giá trị vật chất, tinh
thần to lớn bấy nhiêu.
Đối với trẻ em, giao tiếp có vai trị quan trọng giúp trẻ có
thêm những kiến thức về thế giới xung quanh, phong tục, tập
qn, văn hố của dân tộc. Từ đó trẻ sẽ áp dụng vào cuộc
sống một cách có hiệu quả, phù hợp với các chuẩn mực xã
hội. Có rất nhiều con đường rèn luyện, hình thành và phát
triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ nhưng con đường gần nhất đó
là thơng qua hoạt động vui chơi. Có thể nói trị chơi và tuổi
thơ chính là hai người bạn thân thiết khơng thể tách rời nhau
được. Chơi là hoạt động tự nhiên trong cuộc sống của mỗi
người, nó là một thiên tính của tuổi thơ nên nó đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển của trẻ em. Không chơi trẻ chỉ tồn
tại chứ không phải là đang sống, không chơi trẻ không thể
phát triển.. Nhà văn hào lỗi lạc người Nga Maxim Gorki đã
từng nói: “Trị chơi là con đường dẫn trẻ em đến chỗ nhận
thức được cái thế giới mà ở trong đó các em đang sống, cái
thế giới mà các em có sứ mệnh phải cải tạo”.
1


1


2
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
Trị chơi giúp trẻ phát triển kỹ năng giao tiếp, hình thành
nhân cách, trí lực để trẻ hịa nhập vào cuộc sống với mọi
người xung quanh.Thơng qua trị chơi giúp trẻ phát triển các
giác quan, hoàn thiện chức năng tâm sinh lý hình thành nhân
cách.
Thực tiễn hiện nay, việc hình thành kỹ năng giao tiếp
cho trẻ 5 - 6 tuổi vẫn cịn nhiều hạn chế; giáo viên chưa có
nhiều biện pháp giáo dục phù hợp, các hình thức tổ chức chưa
thực sự phong phú. Mặt khác, hiện nay chưa có nhiều cơng
trình nghiên cứu sâu sắc về việc hình thành kỹ năng giao tiếp
thông qua hoạt động vui chơi của trẻ, đặc biệt là trẻ 5 – 6
tuổi.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề
tài: “Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5
- 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm non
Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng hình thành
kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui
chơi ở trường Mầm non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh
Quảng Bình, từ đó đề xuất một số biện pháp góp phần nâng
cao hiệu quả hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 - 6
tuổi ở Trường Mầm non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh
Quảng Bình thơng qua hoạt động vui chơi.
2

2


3
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Giáo viên Trường Mầm non Đồng Sơn, thành phố Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình.
- Trẻ 5 – 6 tuổi Trường Mầm Non Đồng Sơn, thành phố
Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu tổ chức các hoạt động vui chơi phù hợp với đặc
điểm của trẻ 5 - 6 tuổi thì sẽ giúp trẻ có cơ hội để hình thành
và rèn luyện các kỹ năng giao tiếp, tạo điều kiện thuận lợi để
hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu 3 nhiệm vụ chính:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến việc hình thành
kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi thơng qua hoạt động vui
chơi.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng việc hình
thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi ở Trường Mầm non

Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Phân tích
các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành kỹ năng giao tiếp
cho trẻ.
- Đề xuất một số biện pháp tác động góp phần hình
thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt
động vui chơi.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Xây dựng hệ thống khái niệm làm cơ sở lý luận cho đề
tài, bao gồm phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ
3
3


4
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
thống hóa và khái qt hóa vấn đề lý luận về việc hình thành
kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 – 6 tuổi.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến
Khảo sát, đánh giá nhận thức của giáo viên về thực trạng
hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt
động vui chơi ở trường mầm non. Những yếu tố ảnh hưởng và
các biện pháp mà giáo viên đã sử dụng để hình thành kỹ năng
giao tiếp cho trẻ 5 – 6 tuổi.
6.2.2. Phương pháp quan sát
Trực tiếp quan sát các hoạt động của trẻ và giáo viên tại
địa bàn khảo sát. Sử dụng phiếu quan sát để thu thập những

thơng tin phục vụ mục đích nghiên cứu của đề tài.
6.2.3. Phương pháp đàm thoại
Trực tiếp trao đổi với giáo viên và trẻ nhằm chính xác
hóa những thông tin thu được từ các phương pháp nghiên cứu
khác.
6.2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Nhằm thu thập ý kiến đóng góp của các nhà chun mơn có
kinh nghiệm trong lĩnh vực nghiên cứu.
6.3. Nhóm phương pháp thống kê tốn học
Thông qua các số liệu, thông tin thu thập được, tiến hành
xử lý số liệu qua đó rút ra những kết luận để đánh giá các giả
thuyết, nhận định về việc hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 – 6 tuổi và nhằm khẳng định độ tin cậy, tính thuyết phục
của đề tài.
4

7. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
4


5
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
* Phạm vi nghiên cứu: Trường Mầm non Đồng Sơn, thành
phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
+ Giáo viên: 25 giáo viên.
+ Nhóm trẻ 5 - 6 tuổi: 40 trẻ
* Thời gian nghiên cứu: Bắt đầu nghiên cứu từ tháng
12/2015 đến tháng 4/2016.

8. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và làm rõ
thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp của trẻ 5 – 6 tuổi
thông qua hoạt động vui chơi, xây dựng một số biện pháp
nâng cao hiệu quả giáo dục hình thành kỹ năng giao tiếp cho
trẻ.
9. Cấu trúc của đề tài
Đề tài gồm có 3 chương khơng kể mở đầu, kiến nghị và kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kỹ năng giao tiếp của
trẻ mẫu giáo thông qua hoạt động vui chơi.
Chương 2: Thực trạng việc hình thành kỹ năng giao tiếp cho
trẻ 5 – 6 tuổi ở Trường Mầm non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới,
tỉnh Quảng Bình
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hình thành
kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi.

5

5


6
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP
CỦA TRẺ MẪU GIÁO THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

1.1.1. Ở nước ngoài
Từ lâu, vấn đề giao tiếp được các nhà triết học, tâm lý học, xã hội học
quan tâm.
Giữa thế kỉ XIX, trong bản thảo Kinh tế - Triết học 1884,
Các Mác (1818 - 1883) khi bàn về nhu cầu xã hội giữa người
với người trong hoạt động xã hội và tiêu dùng, xã hội loài
người phải giao tiếp thực sự với nhau. Các Mác viết: "Cảm
giác và sự hưởng thụ của những người khác cũng trở thành sở
hữu của bản thân tơi. Cho nên ngồi vũ khí quan trực tiếp ấy
hình thành những khí quan xã hội, dưới hình thức xã hội.
Chẳng hạn như giao tiếp với người khác đã trở thành khí quan
biểu hiện sinh hoạt của tơi và một trong những phương thức
chiếm hữu sinh hoạt của con người. Hơn thế nữa thông qua
giao tiếp với người khác mà có thái độ với chính bản thân
mình, mỗi người tự soi mình". Mác chỉ ra rằng, trong sản xuất
vật chất và tái xuất con người, buộc con người phải giao tiếp
trực tiếp với nhau. Con người chỉ trở thành người khi có những
quan hệ hiện thực với những người khác, và giao tiếp trực tiếp
với những người khác.
Đến thế kỉ XX, Gmít (1863-1931) đã đưa ra thuyết qua
lại tượng trưng, ông khẳng định vai trò của giao tiếp đối với sự

6

6


7
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm

non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
tồn tại của con người, hay như ta thường nói, con người chỉ
tồn tại trong xã hội là người trong cộng đồng người.
Những cơng trình nghiên cứu về giao tiếp của trẻ như: M.I.
Lixina với “Nguồn gốc của những hình thức giao tiếp của trẻ
em”, A.V. Daparogiet và M.I. Lixina nghiên cứu “Sự phát triển
giao tiếp của trẻ mẫu giáo”, A.Ruskaia với “Phát triển giao tiếp
của trẻ với người lớn và bạn cùng tuổi”….
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề giao tiếp mới được nghiên cứu từ
cuối những năm 1970 đến những năm 1980. Phạm Minh Hạc
định nghĩa: “Giao tiếp là quá trình xác lập và vận hành các
quan hệ xã hội giữa người ta với nhau”
Nhóm các cơng trình nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư
phạm có thể kể tới là: Hoàng Anh “Kỹ năng giao tiếp sư phạm
của sinh viên”, Nguyễn Thạc - Hoàng Anh với cuốn “Luyện
giao tiếp sư phạm” - Đại học Sư phạm - 1998, Ngơ Cơng Hồn
- Hồng Anh “Giao tiếp sư phạm”, Trần Duy Hưng đã bàn tới kỹ
năng giao tiếp sư phạm của sinh viên, Ứng xử sư phạm (Trịnh
Trúc Lâm).
Một số cơng trình nghiên cứu về giao tiếp cho trẻ mầm
non cụ thể như: TS Hoàng Thị Phương “Nghiên cứu về hành vi
giao tiếp của trẻ 5 – 6 tuổi”, Trần Trọng Thủy “Giao tiếp và sự
phát triển nhân cách của trẻ”, Ngô Công Hoan “Giao tiếp và
ứng xử giữa cô giáo với trẻ”, Nguyễn Văn Lũy – Trần Thị Tuyết
Hoa với “Giao tiếp với trẻ em”,Vũ Thị Ngân – Lê Xuân Hồng
7

7



8
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
(biên dịch) “Những vấn đề giao tiếp của trẻ ở trường mầm non”
…..
Như vậy qua một số cơng trình nghiên cứu của các tác
giả trong và ngoài nước, chúng ta có thể khẳng định được sự cần
thiết của việc hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi ở
trường Mầm non thông qua hoạt động vui chơi.
1.2. Một số vấn đề lý luận về kỹ năng giao tiếp của
trẻ mẫu giáo
1.2.1. Khái niệm giao tiếp
Có rất nhiều những khái niệm về giao tiếp .
Giao tiếp là một quá trình tác động qua lại giữa các nhân
cách cụ thể. Giao tiếp chỉ được thực hiện trong môi trường xã
hội. Trong giao tiếp con người bộc lộ thái độ với người khác và
chính mình. Nhờ đó các nhà trị liệu tâm lý mới chuẩn đoán
được các bệnh nhân một cách khác nhau rồi kết hợp với các
phương pháp khác để trị liệu. (V.N. Miaxixev, 1960).
Giao tiếp là hoạt động xác lập, vận hành quan hệ giữa
người với người để hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa
người với nhau (TS. Phạm Minh Hạc, 1998).
Theo từ điển tiếng việt, giao tiếp là trao đổi, tiếp xúc với
nhau. Ngôn ngữ là cơng cụ giao tiếp.
Nhưng chúng tơi đồng tình với quan điểm theo Tâm lý
học : giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí giữa người và người, thơng
qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc,
tri giác lẫn nhau và ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau. Hay

nói khác đi giao tiếp là sự xác lập và vận hành các quan hệ
8

8


9
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
người - người, hiện thực hố các quan hệ xã hội giữa chủ thể
này và chủ thể khác.
1.2.2. Vai trò giao tiếp đối với quá trình phát triển
tâm lý của trẻ
Nhờ có giao tiếp mà trẻ tham gia vào các mối quan hệ
xã hội, tiếp thu những kinh nghiệm xã hội – lịch sử chuyển
thành những kinh ngiệm của bản thân.
Thông qua giao tiếp trẻ đối chiếu, so sánh hành vi, thái
độ của mình, từ đó có phương pháp điều chỉnh phù hợp.
1.2.3. Kỹ năng giao tiếp
1.2.3.1. Khái niệm kỹ năng giao tiếp
Có nhiều trường phái định nghĩa khác nhau về kỹ năng
giao tiếp, trong đó Tâm lý học định nghĩa: Kỹ năng giao tiếp là
khả năng nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngồi
và những biểu hiện tâm lý bên trong của đối tượng và bản
thân của chủ thể giao tiếp, là khả năng sử dụng hợp lý các
phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách tổ chức,
điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giao tiếp.
Kỹ năng giao tiếp của cá nhân với đối tượng giao tiếp là
sự thể hiện các thao tác, cử chỉ, điệu bộ, hành vi, thông qua

ngôn ngữ hoặc phi ngơn ngữ.
1.2.3.2. Các nhóm kỹ năng giao tiếp
Bao gồm có 3 nhóm:
Nhóm kỹ năng định hướng giao tiếp: Được biểu hiện ở
khả năng dựa vào sự biểu cảm, ngữ điệu, thanh điệu của
ngôn ngữ, cử chỉ, động tác, thời điểm và không gian giao tiếp
9

9


10
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
để phán đốn chính xác về nhân cách cũng như mối quan hệ
giữa chủ thể và đối tượng giao tiếp.
Nhóm kỹ năng này còn được phân chia nhỏ hơn thành
những kỹ năng sau: Đọc trên nét mặt, cử chỉ, hành động, lời
nói; kỹ năng chuyển từ tri giác bên ngồi vào nhận biết bản
chất bên trong của nhân cách và kỹ năng định hướng (gồm
định hướng trước khi tiếp xúc và định hướng trong quá trình
tiếp xúc với đối tượng giao tiếp).
Kỹ năng định vị: Thực chất đó là khả năng xây dựng mơ
hình tâm lý, phác thảo chân dung nhân cách đối tượng giao
tiếp đạt mức độ chính xác và tương đối ổn định dựa trên hoạt
động nhận thức tích cực.
Kỹ năng định vị là khả năng biết xác định vị trí trong giao
tiếp, biết đặt vị trí của mình vào vị trí của đối tượng để có thể
vui, buồn với niềm vui, nỗi buồn của họ và biết tạo ra điều

kiện để đối tượng chủ động giao tiếp với mình.
Nhóm kỹ năng điều chỉnh, điều khiển q trình giao tiếp:
Việc điều chỉnh, điều khiển quá trình giao tiếp diễn ra rất phức
tạp, sinh động, bởi lẽ có rất nhiều thành phần tâm lý tham
gia, trước hết là hoạt động nhận thức, tiếp theo là thái độ rồi
đến hành vi ứng xử. Sự phối hợp hoạt động của ba thành
phần này cần phải nhịp nhàng, hợp lý. Để điều khiển, điều
chỉnh mình và đối tượng giao tiếp, trước hết phải có khả năng
tìm ra đề tài giao tiếp, duy trì nó, xác định được nguyện vọng,
hứng thú của đối tượng, chủ thể giao tiếp có khả năng làm
chủ trạng thái cảm xúc của bản thân, biết sử dụng toàn bộ
các phương tiện giao tiếp.
10

10


11
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
1.2.3.3. Kỹ năng giao tiếp của trẻ mẫu giáo
* Khái niệm kỹ năng giao tiếp của trẻ mẫu giáo
Kỹ năng giao tiếp của trẻ mẫu giáo là khả năng trẻ sử
dụng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (ánh mắt, nụ
cười...) là sự thể hiện các thao tác, cử chỉ, điệu bộ, hành vi,
thông qua ngôn ngữ hoặc phi ngơn ngữ.
* Con đường hình thành kỹ năng giao tiếp
Theo tâm lý học hoạt động, tâm lý người có bản chất là
hoạt động. Nói cách khác, tâm lý, ý thức (trong đó có kỹ

năng) được nảy sinh, hình thành và phát triển trong quá trình
chủ thể tiến hành hoạt động. Vì vậy, quan niệm về kỹ năng
giao tiếp phải coi chúng như là “các đặc điểm của hành động”
và có quan hệ với hành động, hoạt động của con người.
Khi xem xét giao tiếp dưới dạng hoạt động giao tiếp thì
việc hình thành kỹ năng giao tiếp sẽ chịu ảnh hưởng bởi nhiều
yếu tố như: đặc điểm khí chất với chức năng của hệ thần kinh
não bộ; sự hoạt động tích cực của cá nhân và mơi trường,
trong đó mơi trường nhà trường có vai trị kích thích sự hứng
thú sinh viên tích cực tham gia các hình thức hoạt động khác
nhau nhằm phát huy và hình thành kỹ năng giao tiếp. Những
yếu tố này tác động qua lại đến việc hình thành kỹ năng giao
tiếp tốt hơn.
Để có kỹ năng giao tiếp thì chủ thể phải có những hành
động giao tiếp. Trong quá trình hành động, chủ thể tham gia
các quá trình giao tiếp, các mối quan hệ, thực hiện những hành
động nhằm giải quyết các vấn đề của mình.
11

1.2.4. Đặc điểm tâm lý của trẻ 5 – 6 tuổi
11


12
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
1.2.4.1. Hoạt động nhận thức
Do sự tăng trưởng đáng kể về thể chất, sự phong phú về
đời sống xã hội cũng như hoạt động, trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6

tuổi) đã đạt được mức độ phát triển phong phú về nhiều mặt
của các chức năng tâm lý như: cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng
tượng, chú ý, trí nhớ, ngơn ngữ, ý chí, xúc cảm, tình cảm…
* Cảm giác, tri giác
Những thuộc tính và quan hệ bên ngồi của sự vật hiện
tượng được trẻ tiếp nhận chính xác hơn, giúp cho việc định
hướng vào thế giới xung quanh thuận lợi hơn. Đối với trẻ mẫu
giáo lớn, trẻ có thể phân phối chú ý vào 2 – 3 đối tượng cùng
một lúc. Tuy nhiên, thời gian phân phối chú ý chưa bền vững.
Sự phân tán chú ý của trẻ trong giai đoạn này còn thể
hiện mạnh mẽ. Nhiều khi trẻ khơng tự chủ được. Do đó giáo
viên cần thay đổi đồ chơi, trò chơi hấp dẫn hơn. Cần tập luyện
các phẩm chất chú ý cho trẻ em qua các trò chơi và các tiết
học.
* Tư duy
Để đáp ứng nhu cầu nhận thức đang phát triển mạnh mẽ
ở trẻ mẫu giáo lớn cho nên bên cạnh việc phát triển tư duy
trực quan hình tượng mới đó là tư duy trực quan – sơ đồ. Tư
duy trực quan – sơ đồ là yếu tố đầu tiên làm bước đệm để
phát triển tư duy cao hơn.
* Tưởng tượng
Các hoạt động tưởng tượng đã dần dần tách khỏi đồ vật
hiện có, nội dung tưởng tượng nhiều hơn so với trẻ mẫu giáo
nhỡ vì trẻ đã có sự tiếp xúc nhiều hơn với thế giới bên ngoài.
12
12


13
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ

5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
Cuối tuổi mẫu giáo trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ được
phát triển khá mạnh với sự hỗ trợ đắc lực của tri giác. Nếu trẻ
có khả năng quan sát tốt sự vật và hiện tượng xung quanh thì
quá trình tưởng tượng nhất là tưởng tượng sáng tạo như: vẽ,
nặn, chơi xây dựng... sẽ phát triển thuận lợi, bởi tri giác là
nguồn cung cấp chất liệu cho hoạt động của trí tưởng tượng
sáng tạo.
* Chú ý
Chú ý khơng chủ định chiếm ưu thế. Chú ý có chủ định
đang được phát triển do trẻ đã xác định đối tượng cần chú ý,
biết đặt ra mục đích cho sự chú ý của mình, biết hướng ý thức
của mình vào đối tượng để phục vụ cho mục đích của hoạt
động. Khả năng phân phối, sức tập trung, sự di chuyển… của
chú ý đều tăng lên đặc biệt là đối với những đối tượng hấp
dẫn, sinh động.
* Trí nhớ
Đặc trưng trí nhớ của trẻ mẫu giáo là tính trực quan,
máy móc và khơng chủ định. Tuy nhiên, vào cuối tuổi mẫu
giáo, trí nhớ của trẻ có một bước biến đổi về chất đó là trí nhớ
có chủ định xuất hiện và phát triển. Ngơn ngữ đóng vai trị đặc
biệt quan trọng trong sự phát triển trí nhớ chủ định của trẻ 5 – 6
tuổi, nhờ đó mà trẻ nắm được tên và hiểu được ý nghĩa của sự
vật, hiện tượng cần nhớ, mục đích và tìm phương tiện giúp ghi
nhớ và nhớ lại những điều cần nhớ.
* Ngôn ngữ
Ở giai đoạn lứa tuổi này sự phát triển ngôn ngữ diễn ra
với tốc độ nhanh cả về ngữ âm, ngữ pháp, ngữ điệu, vốn từ,
13

13


14
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
cấu trúc ngữ pháp… Hầu hết, trẻ đã biết sử dụng thành thạo
tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hằng ngày để giao tiếp. Khả năng
ngôn ngữ của trẻ liên quan chặt chẽ với sự phát triển trí tuệ
và những trải nghiệm của trẻ. Vốn từ của trẻ phong phú, ngôn
ngữ mạch lạc là phương tiện làm cho tư duy của trẻ phát triển
lên một bước mới, đó là sự nảy sinh các yếu tố của tư duy
lơgic, nhờ đó mà tồn bộ sự phát triển tâm lý nói chung và tư
duy của trẻ nói riêng được nâng lên một trình độ mới cao hơn.
Tuy nhiên, khả năng ngôn ngữ của từng cá nhân ở độ
tuổi này vẫn cịn có sự khác biệt lớn về mức độ phong phú
của từ, về cách diễn đạt lệch lạc, nói đúng ngữ pháp và thể
hiện lời nói đúng với hồn cảnh giao tiếp. Vì vậy cô giáo cần
chú ý cung cấp vốn từ và tích cực hóa vốn từ cho trẻ.
* Ý chí
Do có khả năng làm chủ được nhiều hành vi và được
người lớn giao cho nhiều việc nhỏ, vì vậy mà trẻ đã xác định
được mục đích của hành động, dần dần tách động cơ ra khỏi
mục đích với sự cố gắng hồn thành nhiệm vụ. Khả năng kiểm
sốt, điều khiển, điều chỉnh hành vi của trẻ tốt hơn so với lứa
tuổi trước. Tính kế hoạch cũng bắt đầu xuất hiện, tinh thần
trách nhiệm, bổn phận… được hình thành và trẻ được ý thức
từng bước một.
* Xúc cảm, tình cảm

Đối với trẻ 5 - 6 tuổi thì xúc cảm, tình cảm khá đa dạng,
phong phú, ổn định và sâu sắc hơn: Các sắc thái tình cảm
được biểu hiện đa dạng hơn với nhiều đối tượng khác nhau
theo mức độ phong phú, phức tạp tăng dần của các mối quan
14
14


15
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
hệ giao tiếp (với người thân, người lạ, cơ giáo…). Tuy, tình
cảm có ổn định hơn so với trẻ 4 – 5 tuổi nhưng đặc tính chung
vẫn là dễ hình thành, dễ thay đổi, dễ giao động và mang tính
tình huống. Các loại tình cảm cấp cao (tình cảm trí tuệ, tình
cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ…) đều phát triển.
1.2.5. Đặc điểm giao tiếp của trẻ 5 – 6 tuổi
Đối với trẻ từ 5 - 6 tuổi, trẻ đã biểu hiện rõ tính độc lập
tự chủ các hoạt động vui chơi và giao tiếp với mọi người. Do
vậy, trong giao tiếp với bạn bè, nhất là với trẻ nhỏ hơn mình,
trẻ đã biết giúp đỡ, nhường nhịn thậm chí cịn chăm sóc em bé
khi người lớn giao việc.
Trẻ có thể vận dụng ngơn ngữ để biểu lộ tình cảm, thái
độ, mong muốn hoặc diễn đạt cách nghĩ của mình.
Trẻ thích giao tiếp với các bạn khác, và tham gia các hoạt
động tập thể. Trong quá trình giao tiếp, chúng thường biểu lộ
nhu cầu tự khẳng định và có năng lực ảnh hưởng đến bạn. Ví dụ
như: có thể chủ động phân vai cho bạn, có thể giải thích rõ ràng
luật chơi…

Trẻ biết lắng nghe người khác nói chuyện, có khả năng
hiểu được nội dung giao tiếp.
Trẻ dễ dàng thiết lập quan hệ giao tiếp với mọi người
không phân biệt tuổi tác, địa vị xã hội, kinh tế (thiết lập quan
hệ giao tiếp rất hồn nhiên, vô tư không để ý đến xuất thân
của đối tượng giao tiếp)
Trẻ chủ động trong giao tiếp, chủ động gợi chuyện, đặt
ra các câu hỏi, tích cực tham gia vào đàm thoại.
15

15


16
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
Trẻ có mong muốn hiểu biết về người lớn, muốn chia sẻ
cảm thông với người lớn (đặt ra các câu hỏi về hoạt động và
mối quan hệ của người lớn, thay đổi ý kiến để mong nhận
được sự hài lòng của người lớn) sẵn sàng giúp đỡ người lớn và
bạn khi được đề nghị hoặc chủ động đề nghị để được giúp đỡ.
Trẻ cố gắng cư xử tốt với người, biết nhường nhịn lẫn
nhau (cố gắng không tranh giành đồ chơi, nhường nhịn khi
tranh luận), có lịng vị tha, độ lượng với bạn (sẵn sàng tha
thứ cho bạn khi bạn đã biết nhận lỗi)…
Khi có lỗi, trẻ biết thật thà nhận lỗi; khơng nói dối, biết
giữ lời hứa với người lớn và bạn.
Mặc dù có những hạn chế của độ tuổi nhưng các kỹ năng
giao tiếp đã được hình thành ở trẻ. Điều này thể hiện như sau:

- Kỹ năng cư xử lịch sự trong giao tiếp được thể hiện qua
cách sử dụng các phương tiện giao tiếp ở trẻ: Biết nói câu đầy
đủ, nói theo mơ hình câu thơng dụng kiểu “Chủ ngữ - Vị ngữ Bổ ngữ”; biết sử dụng một số danh từ chỉ quan hệ theo tuổi
tác để xưng hô: Mẹ - con, bà – cháu, anh – em, cô – cháu, tôi –
bạn; biết sử dụng một số từ lễ độ trong giao tiếp: “cảm ơn”,
“xin lỗi”, “xin phép”, “thưa”, “vâng”, “ạ”…; biết phát âm
đúng, rõ ràng nhưng cách phát âm chưa thật ổn định và chính
xác, nhất là khi sử dụng các nguyên âm đôi, các thành điệu
“ngã”, “sắc”; bước đầu biết sử dụng các kiểu ngữ điệu (tường
thuật, nghi vấn, cảm thán) để diễn đạt mục đích giao tiếp; để
sử dụng các cử chỉ điệu bộ và tư thế để thể hiện, mục đích,
nội dung giao tiếp.
16

16


17
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
- Kỹ năng cư xử khéo léo: Để ý đến các quy tắc giao tiếp
xã hội: biết khởi đầu, đón nhận, kết thúc giao tiếp, biết tính
chất lần lượt trong giao tiếp; Chú ý đến mức độ quan hệ trong
giao tiếp: quan hệ theo tuổi tác, quan hệ theo họ hàng.
- Kỹ năng nhận biết: Bước đầu có khả năng nhận biết
tình cảm, thái độ của đối tượng giao tiếp qua các phương tiện
biểu cảm như giọng điệu, ánh mắt, nét mặt, cử động của
tay… để thể hiện thái độ tình cảm của bản thân.
1.3. Lí luận về hoạt động vui chơi của trẻ 5 – 6 tuổi

1.3.1. Khái niệm về hoạt động vui chơi
Vui chơi là một thiên tính, một bản năng, một nhu cầu tự
nhiên của con người như hít thở khơng khí, ăn cơm, uống
nước...
Hoạt động vui chơi là một hoạt động trong các loại hình
hoạt động cơ bản của trẻ ở trường mầm non - là hoạt động
mà động cơ của nó nằm trong q trình chơi chứ không nằm
trong kết quả của hoạt động. Khi chơi đứa trẻ khơng chủ tâm
vào một lợi ích thiết thực nào cả. Trong trò chơi các loại mối
quan hệ giữa con người tự nhiên và xã hội được mô phỏng lại,
chơi mang lại cho trẻ một trạng thái tinh thần vui vẻ, phấn
chấn, dễ chịu.Chơi được người lớn tổ chức hướng dẫn nhằm
giúp trẻ thỏa mãn các nhu cầu vui chơi và nhận thức, đồng
thời giáo dục và phát triển toàn diện nhân cách của trẻ lứa
tuổi nào.
1.3.2. Đặc điểm hoạt động vui chơi của trẻ 5 – 6
tuổi
17

17


18
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
Hoạt động vui chơi của trẻ mang tính vơ tư, trẻ chơi
khơng chủ tâm nhằm vào một lợi ích thiết thực, mang tính
thực dụng nào cả mà nguyên cớ thúc đẩy trẻ tham gia vào trị
chơi chính là sự hấp dẫn của bản thân quá trình chơi. Động cơ

chơi nằm trong q trình chơi chứ khơng nằm trong kết quả
của hoạt động chơi. Trẻ chơi chỉ cốt cho vui và đã chơi là phải
vui.
Hoạt động vui chơi của trẻ là sự mô phỏng hoạt động
của người lớn; những mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
và giữa con người với xã hội. Do đó, hoạt động này mang tính
tượng trưng, khi chơi trẻ có thể dùng các vật thay thế để
tượng trưng cho người thật, việc thật.
Hoạt động vui chơi của trẻ mang tính tự do. Tính tự do
trong hoạt động vui chơi của trẻ em

thể hiện ở tính tự

nguyện khi tham gia vào trò chơi, hành động chơi của trẻ
hoàn toàn xuất phát từ hứng thú cá nhân, chứ khơng do một
sự áp đặt nào từ phía bên ngoài.
Hoạt động vui chơi của trẻ em là một hoạt động độc lập
và tự điều khiển. Chơi là một hoạt động độc lập và tự chủ đầu
tiên của trẻ em. Trong khi chơi, trẻ cố làm lấy mọi việc (tự
chọn đồ chơi, đồ chơi, bạn chơi), cố gắng suy nghĩ để khắc
phục trở ngại xuất hiện trong quá trình chơi.
Hoạt động vui chơi của trẻ mang màu sắc xúc cảm chân
thực mạnh mẽ. Trò chơi tác động mạnh mẽ và tồn diện đến
trẻ em chính là vì nó thâm nhập một cách dễ dàng hơn cả vào
thế giới tình cảm, mà tình cảm đối với trẻ em lại là động cơ
thúc đẩy hành động mạnh mẽ nhất.
18
18



19
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
1.3.3. Các loại trị chơi của trẻ mẫu giáo
Ở nước ta, trong những năm 60, trò chơi của trẻ mẫu
giáo được phân thành hai nhóm:
+ Nhóm 1: Trị chơi phản ánh sinh hoạt.
+ Nhóm 2: Trị chơi vận động
Trong những năm 70, sự phân loại trò chơi của trẻ mẫu
giáo chưa được thống nhất. Các nhà giáo dục được học và tiếp
cận với qua điểm phân loại của nước nào thì đứng về quan
điểm phân loại của nước đó.
Từ những năm 80 trở lại đây, trong các trường mầm non
ở nước ta vận dụng cách phân loại trò chơi theo quan điểm
Liên Xơ (cũ). Theo quan điểm này, trị chơi của trẻ mẫu giáo
được phân thành hai nhóm chính:
+ Nhóm 1: Nhóm trị chơi sáng tạo bao gồm:
Trị chơi đóng vai theo chủ đề
Trò chơi lắp ghép – xây dựng
Trò chơi đóng kịch
+ Nhóm trị chơi có luật bao gồm:
Trị chơi học tập
Trò chơi lao động
Với đề tài nghiên cứu thì chúng tơi đi sâu tìm hiểu bốn
loại trị chơi sau:
* Trò chơi theo chủ đề.
Trò chơi theo chủ đề bao gồm:
- Trò chơi sắm vai: Trẻ em bắt chước người lớn, lặp lại
trong trò chơi những hành động của người lớn. Hoặc bắt

chước động vật và lặp lại những hành động của động vật đã
19
19


20
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
được nhân cách hóa. Trong khi chơi trẻ em có thể sử dụng
hoặc khơng sử dụng đồ chơi. Nhờ có trò chơi sắm vai, trẻ em
được nhập vai các nhân vật khác nhau với các mối quan hệ
khác nhau. Nhờ vậy các em có thể:
+ Dần dần làm quen với những sinh hoạt, những hoạt
động lao động của
người lớn mà sau này các em sẽ tham gia khi trưởng thành.
+ Bồi dưỡng được nhiều phẩm chất, phản ánh quan hệ
ứng xữ đúng đắn với những người xung quanh (ứng xữ của
cha mẹ với con cái, ứng xữ của bác sĩ với bệnh nhân…).
+ Bồi dưỡng được hứng thú và có thể hình thành những
ước mơ muốn trở thành những người làm nghề gì đó trong
tương lai…
- Trị chơi đạo diễn: Trẻ em không sắm vai nhưng tiến hành
chơi với những trị chơi theo chủ đề nhất định trong đó, các
em đóng vai trị “đạo diễn” chỉ đạo, điều khiển các trò chơi với
tư cách là các “nhân vật”. Trò chơi “đạo diễn” được tổ chức
thường thường theo nhóm. Mỗi trẻ em điều khiển những đồ
chơi nào đó nhưng cùng thống nhất theo chủ đề chung.
Trị chơi này có tác dụng giúp trẻ phát triển óc tưởng
tượng.

* Trị chơi đóng kịch: Trẻ em đóng kịch dựa trên một tác
phẩm văn học nào đó.
Qua đóng kịch các em sẽ có cơ hội:
+ Phát triển ngơn ngữ hình tượng.
+ Phát triển óc thẩm mĩ.
20

20


21
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
+ Thể nghiệm được những thái độ, hành vi đẹp một cách
sâu sắc qua nhập vai thành cơng.
* Trị chơi vận động:
Trị chơi vận động đơi khi cịn được gọi là trò chơi thể
thao vận động. Trong trò chơi vận động, trẻ em bắt chước sự
vận động của người lớn, của tàu, xe… tiến hành chạy, nhảy…
Trò chơi vận động nếu được tổ chức một cách khoa học
thì giúp cho các em:
+ Phát triển thể lực.
+ Rèn luyện ý chí, tính kiên trì, nhẫn nại, tính quả quyết.
+ Tinh thần đồng đội.
* Trò chơi học tập. Trò chơi học tập là một trong những
phương tiện giáo dục trí tuệ cho trẻ em. Nó giúp cho trẻ:
+ Phát triển những kĩ năng về thị giác, thính giác, xúc
giác…
+ Chính xác hóa những hiểu biết về các sự vật, hiện

tượng xung quanh.
+ Phát triển trí thơng minh, sự nhanh trí, ngơn ngữ…
1.3.4. Ý nghĩa hoạt động vui chơi đối với sự phát
triển của trẻ
1.3.4.1. Chơi là phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ
em
* Chơi là phương tiện giáo dục phát triển trí tuệ cho trẻ
em
Chơi là phương tiện mở rộng, củng cố chính xác hóa
những biểu tượng, phản ánh

của trẻ về cuộc sống xung

quanh. Tất cả những điều trẻ lĩnh hội được trước lúc chơi dưới
21
21


22
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
nhiều hình thức hoạt động khác nhau sẽ được chính xác hơn,
phong phú hơn. Ví dụ: Trẻ có biểu tượng chính xác hơn về
chức năng sử dụng một số đồ dùng sinh hoạt quen thuộc: cái
thìa để xúc cơm; cái cốc để uống nước; bế em phải bế như thế
nào...
Chơi là phương tiện giúp trẻ lĩnh hội tri thức mới. Khi
tham gia chơi, dưới sự hướng dẫn của người lớn, trẻ khám phá
ra nhiều điều mới lạ, thú vị ở thế giới xung quanh. Trong quá

trình thực hiện các hành động chơi, thao tác chơi, trẻ nhận ra
được một vài thuộc tính, mối quan hệ nào đó của sự vật hiện
tượng.
Trị chơi là phương tiện phát triển các q trình tâm lý
nhận thức của trẻ. Chơi không chỉ là phương tiện củng cố, mở
rộng, chính xác hóa các biểu tượng đã có, cung cấp tri thức
mới cho trẻ mà cịn là phương tiện phát triển các quá trình
tâm lý, nhận thức cho trẻ như: cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư
duy, tưởng tượng và ngơn ngữ.
Khi tham gia vào trị chơi, trí tưởng tượng của trẻ được
phát triển mạnh mẽ. Trong quá trình chơi, trẻ học thay thế đồ
vật này bằng đồ vật khác; nhận đóng vai này vai kia; nảy sinh
hoàn cảnh tưởng tượng;… để thực hiện hành động chơi, nội
dung chơi. Đó là cơ sở quan trọng để nảy sinh và phát triển trí
tưởng tượng của trẻ.
Vui chơi cịn là phương tiện phát triển ngơn ngữ cho trẻ.
Trước hết khi tham gia vào trò chơi, trẻ sử dụng ngôn ngữ để
giao tiếp với bạn, trao đổi ý kiến với nhau để đi đến thỏa
thuận trong khi chơi; sử dụng ngôn ngữ để suy nghĩ về thao
22
22


23
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
tác, hành động chơi, thực hiện hành động chơi, giao lưu với
nhau, đánh giá lẫn nhau… Qua đó ngơn ngữ của trẻ phát triển
vốn từ phong phú, kỹ năng giao tiếp được phát triển...

* Chơi là phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ em
Trò chơi đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề ảnh
hưởng mạnh mẽ đến nhận thức, thái độ và hành vi đạo đức của
trẻ. Khi tham gia vào trò chơi, đứa trẻ trải nghiệm được những
thái độ, tình cảm đạo đức và tập được hành vi ứng xử với người
xung quanh bằng cách nhập vai của mình, qua đó trẻ học làm
người.
Cũng trong hoạt động vui chơi, đặc biệt là thơng qua trị
chơi đóng vai theo chủ đề, dưới sự hướng dẫn của cô giáo,
một số phẩm chất cao quý được hình thành ở trẻ như sự thật
thà, dũng cảm, tính chủ động, tính kiên trì, lịch sự với người
lớn, quan tâm chăm sóc người thân, nghe lời cơ.
Có thể nói rằng, chơi như là một mắt xích nối liền giữa
trẻ với các quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội, nó giúp cho
quá trình hình thành các phẩm chất đạo đức diễn ra tự nhiên,
hiệu quả mặc dù chơi chỉ là giả vờ nhưng hiệu quả giáo dục
lại thật và lớn lao.
* Chơi là phương tiện giáo dục thể chất cho trẻ em
Chơi mang lại niềm vui cho trẻ, làm cho tinh thần của trẻ
được sảng khoái – một yếu tố quan trọng để phát triển thể
chất cho trẻ, vì tinh thần sảng khoái, thỏa mãn sẽ làm cho thể
lực trẻ được phát triển tốt hơn.
Khi tham gia vào trò chơi, các cơ quan trong cơ thể được
vận động một cách tích cực, thúc đẩy sự trao đổi chất, tăng
23
23


24
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ

5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
cường hơ hấp và tuần hồn máu… góp phần tăng cường sức
khỏe cho trẻ.
* Chơi là phương tiện giáo dục thẩm mỹ cho trẻ
Chơi là hoạt động phản ánh cuộc sống của xã hội. Khi
tham gia trò chơi, trẻ cảm nhận được cái đẹp ở sự phong phú,
đa dạng về màu sắc, hình dạng, kích thước, âm thanh của đồ
vật, đồ chơi.
Trị chơi khơng những giúp trẻ cảm nhận được cái đẹp
của đồ dùng, đồ chơi, của hành động chơi, của các hành vi
giao tiếp giữa người với người, giữa con người với hiện thực;
mà cịn hình thành ở trẻ nhu cầu sống theo cái đẹp, bảo vệ
cái đẹp và làm ra cái đẹp.
* Chơi là phương tiện giáo dục lao động cho trẻ em
Khi tham gia trò chơi, trẻ tái tạo lại những hành động lao
động và những mối quan hệ giữa những người lớn với nhau;
qua đó, thu nhận được những biểu tượng về lao động, ý nghĩa
xã hội và tính hợp tác của nó. Đồng thời, khơng những tái tạo
những hành động lao động của người lớn trong trị chơi mà
góp phần hình thành ở trẻ một số kỹ năng lao động đơn giản
như kỹ năng lao động tự phục vụ, kỹ năng lao động trực
nhật...
Cũng trong q trình chơi, dưới sự hướng dẫn của cơ
giáo, trẻ được giáo dục một số phẩm chất đạo đức cần thiết
cho người lao động tương lai: tính mục đích, tính sáng tạo,
lịng u lao động và thích lao động…
Như vậy có thể nói, chơi là phương tiện giáo dục tồn
diện cho trẻ. Đối với trẻ thơ, chơi là cuộc sống của trẻ. Tổ chức
24

24


25
SKKN_Thực trạng hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động vui chơi ở Trường Mầm
non Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
cho trẻ chơi là mang lại hạnh phúc cho tuổi thơ, tạo điều kiện
cho trẻ phát triển một cách tự nhiên nhất.
1.3.4.2. Chơi là hình thức tổ chức đời sống của trẻ ở
trường mầm non
Chơi chính là cuộc sống của trẻ thơ, tổ chức cho trẻ chơi
chính là tổ chức cuộc sống của trẻ, bởi vì:
Chơi là hoạt động đặc trưng của trẻ và có mặt trong các
hoạt động khác của trẻ như hoạt động học tập, hoạt động lao
động, trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày của trẻ, nó có mặt
trong các hoạt động khác của trẻ. Do vậy, việc tổ chức cho trẻ
chơi vừa là nhiệm vụ, vừa là con đường giáo dục có hiệu quả cho
trẻ em.
Chơi là phương thức thỏa mãn nhu cầu được sống và
được làm việc như người lớn. Trong một giờ chơi, mỗi trò chơi
phản ánh một mảng của hiện thực đời sống xã hội: bệnh viện,
trường học, cửa hàng, công viên… mỗi trẻ có vị trí nhất định
trong nhóm chơi. Trong giờ chơi, trẻ khơng chỉ phối hợp với
nhau trong nhóm chơi mà cịn phối hợp giữa các nhóm chơi,
chính sự phối hợp giữa trẻ như vậy đã hình thành một “xã hội
trẻ em”. Trong xã hội ấy, trẻ thỏa sức hành động, được sống
trong xã hội của người lớn thu nhỏ, được làm việc, được nó
năng như người lớn…vì thế trẻ ln là chủ thể tích cực. Ở đây,
trẻ khơng những tìm thấy vị trí của mình trong nhóm bạn bè

mà cịn làm cho trẻ cảm thấy mình được tự do thoải mái và tự
tin vào bản thân mình hơn, chính vì vậy có thể nói “xã hội trẻ
em” là hình thức đầu tiên giúp trẻ được sống và làm việc cùng
nhau, được sống cuộc sống của người lớn.
25
25


×