Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng là con đường biện chứng của nhận thức”. Hãy phân tích mệnh đề trên, từ đó đề xuất biện pháp phát triển tư duy cho học sinh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
KHOA SƯ PHẠM
-----🙞🙞🙞🙞🙞-----

TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
MƠN TÂM LÝ HỌC GIÁO DỤC

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Thị Quỳnh Trang
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thùy Dương
Mã sinh viên: 19010201
Ngày sinh: 28/08/2001
Mã lớp học phần: PSE2001
HÀ NỘI – 2020


LỜI CẢM ƠN
Thực tế luôn cho thấy, sự thành công nào cũng đều gắn liền với những sự hỗ trợ, giúp
đỡ của những người xung quanh dù cho sự giúp đỡ là ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp.
Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học phần đến nay, em đã nhận được sự quan tâm, chỉ
bảo, giúp đỡ đỡ của cô và bạn bè xung quanh. Với tấm lịng biết ơn vơ vùng sâu sắc, em
xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Thạc sĩ Trần Thị Quỳnh Trang – người trực tiếp giảng
dạy học phần “Tâm lý học giáo dục” đã truyền đạt cho em vốn kiến thức quý báu đồng
thời hướng dẫn tận tình qua từng buổi học, từng buổi nói chuyện, thảo luận về tâm lý học.
Trong quá trình thực hiện, dù đã rất cố gắng nhưng cũng sẽ có những sai sót. Rất mong
nhận được sự góp ý, nhận xét để bài tiểu luận có thể hồn thiện hơn. Em xin chân thành
cảm ơn cô!

Hà Nội, ngày 06 tháng 06 năm 2020
Người thực hiện


Nguyễn Thị Thùy Dương


MỞ ĐẦU

Đề tài: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng là con đường biện chứng
của nhận thức”. Hãy phân tích mệnh đề trên, từ đó đề xuất biện pháp phát triển tư
duy cho học sinh.

Loài người đang bước vào kỷ nguyên của nền văn minh trí tuệ, nền kinh tế tri
thức, địi hỏi con người phải có năng lực tiếp nhận, xử lý thông tin để sản xuất ra
tri thức mới. Do đó, năng lực tư duy trở thành yếu tố quyết định sức mạnh của mỗi
nền kinh tế, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Sự phát triển của cách mạng khoa học,
công nghệ hiện đại đã làm biến đổi một cách sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội.
Khoa học, công nghệ đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nối dài khả
năng của con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới hiện thực. Để
nhanh chóng hội nhập và nắm bắt được những thành tựu khoa học, vận dụng cho
nó có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, địi hỏi chúng ta phải có năng lực tư duy lí luận. Chỉ có năng lực tư duy lí
luận mới giúp con người đủ khả năng nắm bắt được bản chất, quy luật vận động
của thế giới tự nhiên và xã hội, nắm được những tri thức khoa học, công nghệ và
quản lý làm công cụ để vận dụng vào hoạt động thực tiễn một cách hiệu quả. Chính
vì thế, tư duy luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà khoa học,
nhà nghiên cứu ở lĩnh vực triết học, tâm lý học dưới góc độ lí luận nhận thức.
Trong triết học Mác – Lênin, khơng chỉ khẳng định việc con người có thể nhận
thức thế giới mà còn chỉ ra con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận
thức khác quan. Bàn luận về chủ đề này, có ý kiến cho rằng: “Từ trực quan sinh


động đến tư duy trừu tượng là con đường biện chứng của nhận thức”. Vậy ý kiến

này có ý nghĩa như thế nào và người giáo viên có thể có những biện pháp nào
nhằm phát triển tư duy cho học sinh?


NỘI DUNG
Nhận thức con người gồm hai giai đoạn có quan hệ biện chứng với nhau là: Trực
quan sinh động (nhận thức cảm tính) và tư duy trừu tượng (nhận thức lí tính). Nhận
thức có liên quan chặt chẽ với hoạt động học tập, vì bản chất của quá trình học tập
chính là q trình nhận thức. Hiểu rõ bản chất của quá trình nhận thức giúp chúng
ta hiểu được con đường lĩnh hội tri thức, nhờ đó tạo điều kiện cho quá trình học tập
được diễn ra hiệu quả.
I. QUÁ TRÌNH ĐI TỪ TRỰC QUAN SINH ĐỘNG (NHẬN THỨC CẢM
TÍNH) ĐẾN TƯ DUY TRỪU TƯỢNG (NHẬN THỨC LÝ TÍNH)
1. Trực quan sinh động (Nhận thức cảm tính)
Nhận thức cảm tính (hay cịn gọi là trực quan sinh động) là mức độ nhận thức
đầu tiên, mức độ thấp nhất, là giai đoạn đầu tiên của q trình nhận thức. Đó là giai
đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật
ấy. Nhận thức cảm tính bao gồm cảm giác và tri giác, là mức độ sơ đẳng, phản ánh
những cái bên ngoài, cụ thể, những sự vật và hiện tượng trực tiếp tác động vào các
giác quan con người.
1.1.Cảm giác
Cảm giác là hình thức đầu tiên mà qua đó, mối liên hệ của cơ thể với môi trường
được thiết lập và là mức đơ phản ánh tâm lý thấp nhất. Ví dụ như ở tuần thai thứ
28, mắt của thai nhi đã mở và có thể nhìn thấy, thai nhi có thể nghe thấy giọng nói
của mẹ và khi đang ngủ có thể bị đánh thức khi có tiếng động mạnh.


Nguồn gốc nảy sinh: Do tư duy và ngôn ngữ chi phối và chính nhờ nhận thức
cấp thấp này chất lượng của cảm tính hơn hẳn ở động vật. Ví dụ như khi nghe nói
đến quả chanh – chúng ta khơng nhìn thấy nhưng vẫn cảm thấy chua ở đầu lưỡi.

Chức năng của cảm giác: Không chỉ giúp con người thích nghi với mơi trường
mà cịn định hướng, điều khiển, điều chỉnh nhằm nhận thức và cải tạo thế giới
xung quanh. Cảm giác chính là nguồn nguyên liệu đầu tiên để thực hiện những
hình thức nhận thức cao hơn.
Con đường hình thành cảm giác: Do sự rèn luyện và hoạt động nghề nghiệp. K.
Mark viết: “Trong thực tiễn cảm giác trở thành nhà lý luận trực tiếp”
Tóm lại, cảm giác là q trình nhận thức cảm tính, phản ánh các thuộc tính của
sự vật hiện tượng một cách riêng lẻ khi có sự tác động trực tiếp của chúng vào các
cơ quan cảm giác.
Cảm giác con người không chỉ là sự phản ánh trực tiếp thông qua các giác quan
mà cịn là sản phẩm của hoạt động, của tồn bộ nhân cách con người với tư cách là
tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Kết luận sư phạm
Trong dạy học, giao tiếp, nói chuyện phải nói đúng ngưỡng khơng q nhỏ hay
quá to, có nhấn mạnh ngữ âm, ngữ điệu, tránh nhàm chán. Tuy nhiên muốn có cảm
giác phải kích thích đúng ngưỡng độ, độ nhạy cảm phụ thuộc vào đối tượng.
Không gian học tập cũng là một yếu tố quan trọng khi tạo cảm giác thoải mái, tích
cực của của học sinh. Chính vì thế, phịng học, phịng thí nghiệm phải đảm bảo
ngăn nắp, gọn gàng, khoa học, ánh sáng, khơng gian, nhiệt độ và khơng khí phù
hợp cũng tác động đồng thời lên nhiều giác quan của học sinh. Bên cạnh đó áp
dụng các phương pháp dạy học sáng tạo phù hợp với từng đối tượng học sinh,


thường xuyên làm mới môn học với những phương pháp linh hoạt, sinh động, đặc
biệt quan tâm tới học sinh nhút nhát, nhằm tạo điều kiện cho các em có cơ hội trình
bày. Đặc biệt, rèn luyện cho học sinh học tập trong điều kiện “nhiễu”, tránh tình
trạng “Nghe thì khơng ghi được, ghi thì khơng nghe được.
1.2.Tri giác
Các sự vật, hiện tượng xung quanh ta có một cấu trúc hồn chỉnh với các thuộc
tính của mình. Hơn nữa, con người với vốn kiến thức sẵn có lưu trong trí nhớ,

không bao giờ chỉ phản ánh riêng lẻ các thuộc tính mà lúc nào cũng cố gắng nhận
biết, thấu hiểu sự vật trong chỉnh thể của nó. Để phản ánh đúng đắn các sự vật,
hiện tượng, cam giác riêng lẻ, do hoạt động của các cơ quan phân tích đem lại,
thơng tin sẽ được xử lý, phân tích, tổ chức, tổng hợp lại trên vỏ não, đem lại cho
chúng ta một hình ảnh trọn vẹn, hồn chỉnh về sự vật, hiện tượng. Tri giác giúp
chúng ta nhận biết được vật thể, con người, sự kiện, tình huống.
Một người khơng có khả năng tri giác sẽ không thể nhận ra khuôn mặt người
khác, khơng thể hiểu được lời nói hoặc tránh được nguy hiểm. Nói cách khác, tri
giác giúp chúng ta sống trong thế giới.
Vậy, tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính
bên ngồi, khơng bản chất của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào
các giác quan.
Tri giác không phải tổng số của các cảm giác riêng lẻ. Ở mức độ cao hơn cảm
giác, tri giác là một q trình chủ động, có sự phân tích, tổng hợp, lựa chọn, diễn
giải các thơng tin kích thích, được các giác quan chuyển đến não bộ nhằm phản
ánh sự vật, hiện tượng một cách tổng thể, trọn vẹn. Tri giác mang lại tính “có ý
nghĩa” cho các thơng tin cảm giác.


Kết luận sư phạm:
Trong dạy học, có những phương pháp hợp lý, làm nổi đối tượng trên bối cảnh.
Ví dụ như phấn trắng được viết trên nề đen, tô đậm chữ để gây chú ý, dùng mực đỏ
chấm bài. Đồng thời khéo léo ngụy trang, ngụy trang ở đây được hiểu là hịa lẫn
đối tượng với bối cảnh, từ đó học sinh có cái nhìn đầy đủ, tồn diện về bài học.
Ngồi việc thường xun ơn tập, hệ thống hóa tri thức nhằm vận dụng rộng rãi tri
thức thì khi sử dụng phương tiện trực quan có chú thích rõ ràng sẽ kích thích trí tị
mờ, tìm hiểu của học sinh, học sinh có thể nhớ lâu và sử dụng tri giác khi đối
tượng xuất hiện trong những điều kiện, hồn cảnh khác nhau.
Tóm lại, nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách
thể cảm tính và là cơ sở cho nhận thức lý tính.

2. Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính)
Tư duy trừu tượng là mức độ phản ánh tiếp theo của trực quan sinh động hay
chính là nhận thức lý tính. Nếu trí óc của con người chỉ dừng lại ở mức độ nhân
thức cảm tính (cảm giác, tri giác, biểu tượng) thì sự nhận thức của con người sẽ có
những hạn chế và chỉ nhìn thấy một khía cạnh của của bất cứ một vấn đề nào đó
mà khơng thể nhìn bao qt tồn bộ bản chất của sự vật, hiện tượng, con người. Vì
chính con người khơng thể phân tích tất cả mọi thứ xung quanh từ những câu hỏi
như “Tại sao?”, “Vì sao?” thường ngày, chi tiết hơn thì “Tại sao trời lại mưa?”, “Vì
sao nước biển lại mặn”… Hàng vạn câu hỏi vì sao được đưa ra và chính con người
phải tìm ra đáp án cho những câu trả lời đó. Và để giải đáp tất cả những câu hỏi đó
thì con người cần phải có sức mạnh của tư duy trừu tượng.


Trong triết học Mác – Lênin chỉ ra nhận thức lý tính gồm có khái niệm, phán
đốn và suy luận. Nhưng trong tâm lý học, các hình thức được rút gọn thành tư duy
và tưởng tượng.
2.1.Tư duy
Tư duy là một q trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối
liên hệ và quan hệ mang tính quy luật giữa các sự vật hiện tượng mà con người ta
chưa biết tới.
Trên thực tế, con người khơng thể nhìn thấy không gian, màu sắc, nghe được
mọi âm thanh và ngửi hay nếm được tất cả mùi vị, tiếp xúc được với những khối
lượng cực lớn, cực nhỏ. Trong khi đó, nhiệm vụ của nhận thức là phải nắm bản
chất của đối tượng trong tính tất yếu và tính quy luật của nó. Để làm được điều đó,
con người phải có tư duy, tức là phản ánh những thuộc tính bản chất, những quan
hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ để làm một đoạn văn nghị luận văn học, trước hết chúng ta cần xác định
đó là tác phẩm nào, chúng yêu cầu chúng ta phải làm gì và sau đó tư duy xem có
những cách nào để làm bài, thầy cơ đã dạy những gì để áp dụng vào bài này.
Kết luận sư phạm:

Trong dạy học cần đưa học sinh vào hồn cảnh, tình huống có vấn đề, đặt ra
những câu hỏi vừa sức và hướng dẫn, khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề. Khi
giải quyết một vấn đề nào đó nên xếp bào một nhóm, một phạm trù nhất định.
Đồng thời kết hợp khéo léo các phương pháp dạy học tăng tính tư duy của học
sinh. Phát triển tư duy phải tiến hành song song và thông qua truyền thụ tri thức và


phải gắn với rèn luyện cảm giác, tri giác, tính nhạy cảm, năng lực quan sát, trí nhớ
của học sinh.
2.2.Tưởng tượng
Khơng phải bất cứ hồn cảnh có vấn đề nào do thực tiễn đặt ra đều có thể giải
quyết bằng tư duy, tức là phải có đầy đủ các dữ liệu để tìm ra lời giải một cách hợp
lý, tường minh. Trong những trường hợp này, con người không chịu bó tay chờ đợi
mà huy động một q trình nhận thức (lý tính) cao cấp khác để giải quyết, đó chính
là tưởng tượng và sáng tạo.
Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong
kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở của
những biểu tượng đã có
Kết luận sư phạm:
Người giáo viên phải tưởng tượng ra trước mơ hình nhân cách của học sinh.
Trước khi lên lớp phải hình dung trước tiến trình bài giảng, những tình huống có
thể xảy ra, những câu hỏi học sinh thắc mắc bằng mọi cách tăng vốn hiểu biết cho
học sinh. Đồng thời phát triển năng lực tập trung suy nghĩ vào đối tượng được
tưởng tượng. Phát triển trí tưởng tượng với mục đích, tránh mơ mộng, chung
chung, khơng chèo khơng lái. Tập luyện một cách có hệ thống năng lực tưởng
tưởng trong q trình hoạt động sáng tạo tích cực...
3. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng (Từ nhận thức cảm tính đến
nhận thức lý tính)
3.1.Nhận thức cảm tính
Khi bắt đầu nhận thức một sự vật hiện tượng bao giờ con người cũng bắt đầu

bằng việc sử dụng các giác quan của mình để nhận biết nó. Một mức độ nhận thức
của con người bao giờ cũng bắt đầu từ nhận thức cảm tính vì nhận thức cảm tính là


mức độ nhận thức đầu tiên, thấp nhất của con người. Trong đó con người phản ánh
những thuộc tính bên ngoài, những cái trực tiếp tác động đến giác quan của họ.
Nhận thức cảm tính của con người bắt đầu từ cảm giác, cảm giác là định hướng
đầu tiên của con người với môi trường xung quanh. Cảm giác nảy sinh do sự tác
động của sự vật hiện tượng vào các giác quan của con người.
Ví dụ: Ánh sáng mặt trời tác động vào da gây cảm giác nóng, bỏng rát hay ánh
sáng đèn tác động lên đồ vật giúp chúng ta có thể nhận biết rõ màu sắc, hay việc
cầm nắm một vật giúp chúng ta có cảm giác vật vng hay trịn, mịn hay gồ ghề...
Để có thể nhận thức sự vật hiện tượng một cách trọn vẹn, đầy đủ hơn, chúng ta
cần đến một quá trình nhận thức cao hơn trong nhận thức cảm tính, đó là tri giác.
Từ cơ sở các thông tin do cảm giác đem lại, con người tiến hành tri giác là thu
thập, giải nghĩa, lựa chọn và tổ chức các thông tin từ cảm giác. Các thơng tin đó
được sắp xếp thành một thể thống nhất theo đúng cấu trúc khách quan. Từ đó hiện
ra hình ảnh bên ngồi sự vật.
Ví dụ như khi cảm giác về hoa hồng ta mới nhận được những cảm giác riêng lẻ
về màu sắc khi nhìn. Khi cảm giác này đến não bộ, chúng sẽ được tri giác và sẽ
cho ra hình ảnh trọn vẹn về bông hoa hồng với màu sắc và hương thơm của nó chú
khơng đơn thuần là về màu sắc hoặc mùi thơm
Sau khi quá trình tri giác đã cho ta một cái nhìn trọn vẹn về sự vật thì có thể tiếp
tục hoạt động nhận thức ở mức cao hơn con người cần lưu lại hình ảnh sự vật trong
não bộ. Kết thúc q trình nhận thức cảm tính, não bộ đã xuất hiện biểu tượng về
sự vật ở con người nhưng chỉ phản ánh được vẻ bề ngoài của sự vật chưa khẳng
địn được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để
nhận thức được chân lý, con người cần tiếp tục nhận thức ở mức độ cao hơn, đó là
mức độ nhận thức lý tính.



Như vậy, nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách
thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính.
3.2.Nhận thức lý tính
Để thực hiện quá trình này con người phải sử dụng đến thao tác của tư duy, được
cụ thể trong sơ đồ sau:

Sau khi tiến hành các thao tác tư duy, con người bắt đầu đưa ra những phán đốn
của mình về sự vật. Đó là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với
nhau để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của sự vật.
Ví dụ: Sau khi tiến hành các tư duy liên quan tới kim loại Đồng ta đưa ra phán
đoán là Đồng dẫn điện hoặc vì đồng là kim loại nên rút ra phán đoán kim loại dẫn
điện.


Từ các phán đoán, con người tiến hành thao tác suy luận, lên kết các phán đốn,
sàng lọc và hình thành nên các giả thuyết rồi đúc kết nó thành các quy luật, định lý
Ví dụ: từ phán đốn đồng dẫn điện và đồng là kim loại thì con người suy luận ra
giả thuyết mọi kim loại đều dẫn điện.
Trong quá trình tư duy, con người liên tục xuất hiện các ý tưởng mới, những
phát minh mới. Đó là do sự tác động của tưởng tượng. Nhờ có tưởng tượng mà con
người có thể phát hiện ra những quy luật bên trong của sự vật mà mức độ nhận
thức lý tính chưa thể cung caaos dữ liệu để có thể nhận thức được, từ đó đưa ra
những liên tưởng phán đốn.
Q trình nhận thức lý tính kết thúc, khi con người bắt đầu hình thành những giả
thuyết về sự vật. Tại thời điểm này con người đã đi sâu vào bản chất của sự vật, đã
biến những tri thức của nhận thức cảm tính trở lên sâu sắc hơn, rút ra được những
chân lý, những quy luật. Nhưng tất cả các chân lý, quy luật mà con người ta rút ra
trong mức độ này mới chỉ mang tính chất giả thuyết, mới chỉ là những suy luận
tròn não bộ của con người, để biến những giả thuyết này trở thành những chân lý

cần phải có sự kiểm tra tính đúng đắn của nó.
Vì vậy, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng là con đường biện chứng
của nhận thức.
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TƯ DUY CHO NGƯỜI HỌC
1. Rèn luyện 1 bộ não khỏe mạnh
Não bộ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc chỉ huy các bộ phận khác của
cơ thể để có thể hồn thành các nhiệm vụ mà mình mong muốn. Mỗi ngày chúng ta
cần dành chút thời gian để tập luyện nó khơng chỉ giúp chúng ta tư duy tốt hơn mà
cịn giúp cải thiện trí nhớ và có một bộ não khỏe mạnh.
Bên cạnh đó, chúng ta cần có chế độ ăn uống và nghỉ ngơi hợp lí. Nên ăn những
loại hoa quả như hạt óc chó, hạt điều để tăng khả năng ghi nhớ.


2. Trau dồi kiến thức
Chúng ta cần phải nắm bắt, tìm tịi thêm những kiến thức mới dựa trên những
lượng kiến thức được lĩnh hội từ thầy cô, bạn bè, mọi người xung quanh. Ví dụ như
từ một bài tốn đơn giản, chúng ta có thể làm những bài tốn nâng cao và phức tạp
hơn để có thể nắm vững được nội dung kiến thức cũ và nâng cao kiến thức mới.
3. Phương pháp học tập
Ở mỗi các nhân khác nhau sẽ có những phương pháp học tập khác nhau nhằm
hướng đến một mục đích chính là tiếp thu và áp dụng được nhiều kiến thức. Chúng
ta có các phương pháp để học tập hiệu quả như: Tư mình vạch ra và đặt mục tiêu
để phán đấu hoàn thành; tự giác, chủ động trong việc học tập; lựa chọn thời điểm
thích hợp để học hay đơn giản là sắp xếp và trang trí góc học tập của mình gọn
gàng và sạch sẽ.
4. Rèn luyện tư duy logic
Rèn luyện tư duy logic rất quan trọng. Rèn luyện thường xuyên bằng nhiều cách,
ví dụ như chơi các trị chơi trí tuệ
5. Nâng cao kĩ năng phản biện
Rèn luyện kĩ năng phản biện bằng cách tự đặt ra câu hỏi và tìm ra những lí lẽ để

bảo vệ quan điểm của mình dưới hai trường hợp đồng tình hoặc khơng đồng tình.
Nhưng những lí lẽ đó phải thực tế, phải được chứng minh bằng những ví dụ cụ thể
tránh việc bảo vệ quan điểm của mình theo hướng bảo thủ.
6. Rèn luyện sự tập chung
Hãy cố gắn gạt bỏ những vấn đề khác khơng liên quan ra khỏi đầu mình để tập
trung vào cơng việc chính mà mình đang cần phải giải quyết.


KẾT LUẬN

“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng là con đường biện chứng của
nhận thức”, ta thấy được q trình nhận thức chân lí phải đi từ thấp đến cao, hoạt
động nhận thức luôn gắn liền với hoạt động thực tiễn thì mới có thể nhận thức
đúng đắn mọi tri thức. Cần phải đổi mới tư duy gắn liền với hoạt động thực tiễn vì
chỉ có như vậy mọi kiến thức của chúng ta mới được sử dụng và áp dụng vào cuộc
sống trên tư cách có nghĩa. Qua đó chúng ta cũng đưa ra được những bài học cho
bản thân, những phương pháp học tập có hiệu quả, xác định đúng động cơ học tập
của bản thân.



×