Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

mqh giữa lý luận và thực tiễn, áp dụng vào việt nam 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.59 KB, 32 trang )

ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
LIÊN HỆ VỚI QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM.

Mục lục


2

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Có thể nói, “lí luận” và “thực tiễn” là hai phạm trù thường xuyên được đề cập
đến trong các hoạt động của con người. Giữa lí luận và thực tiễn có mối quan hệ
rất chặt chẽ với nhau và nó là một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin nói chung và của lí luận nhận thức Macxit nói riêng. Lần đầu tiên
trong lịch sử triết học, C.Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lí luận chính là mối
liên hệ của nó với thực tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ
của nó với lí luận. Thực tiễn ln ln vận động, biến đổi, do đó lí luận cũng
không ngừng đổi mới, phát triển; sự thống nhất biện chứng giữa chúng, vì thế,
cũng có những nội dung cụ thể và những biểu hiện khác nhau trong mỗi thời
đại, mỗi giai đoạn lịch sử.
Với tư cách là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo đất nước tiến hành thành cơng cơng cuộc đổi mới, đưa nước ta bước
đầu thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, hội nhập ngày càng sâu
rộng vào nền kinh tế quốc tế. Có được những kết qủa đó là do Đảng cộng sản
Việt Nam đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lí luận của chủ nghĩa MácLênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Một trong những nguyên
tắc lí luận cơ bản mà Đảng ta đã vận dụng là mối liên hệ giữa lí luận và thực tiễn
của triết học Mác - Lênin. Từ năm 1958 đến năm 1960 hợp tác xã hoá ở miền
Bắc bắt đầu thực hiện cơ bản hồn thành. Khi đó chúng ta cho rằng làm ăn tập
thể ưu việt hơn làm ăn cá thể, kinh tế cá thể tự phát dẫn đến phân hóa giàu
nghèo, phân chia giai cấp.Và từ năm 1987 đến nay Đảng đã thực hiện sự thống


nhất trở lại giữa lí luận với thực tiễn. Quan điểm của triết học Mác về mối quan
hệ giữa lí luận và thực tiễn khơng chỉ ở chỗ vạch rõ vai trị quyết định của thực
tiễn đối với lí luận, coi thực tiễn là cơ sở, là tiêu chuẩn, là mục đích quan trọng
của lí luận với thựctiễn. Cội nguồn của những đột phá tạo ra những bước tiến
vượt bậc của xã hội loài người có sự đóng góp của lí luận đích thực. Lí luận có


3

nguồn gốc cơ sở động lực từ thực tiễn, chính thực tiễn đặt ra vơ vàn những vấn
đề mà lí luận phải giải đáp và chỉ trên cơ sở đó lí luận mới thực sự giữ vai trị
dẫn đường, lí luận phải đi trước một bước.

Như vậy việc phân tích tìm hiểu mối liên hệbiện chứng giữa lí luận và thực tiễn
từ đó rút ra quan điểm thực tiễn và vận dụng đúng đắn quan điểm đó trong hoạt
động thực tiễn là rất cần thiết đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Với
những kiến thức được trang bị, cùng với sự giúp đỡ của thầy cô, nhóm chúng
em chọn đề tài: “Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn vào sự nghiệp
đổimới ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận.
B. PHẦN NỘI DUNG
Lý luận và thực tiễn
Thực tiễn
1.1. Khái niệm thực tiễn
Thực tiễn là tồn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Khác với các hoạt động khác, thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng công
cụ tác động vào đối tượng vật chất làm cho đối tượng đó thay đổi theo mục đích
của mình. Là hoạt động đặc trưng của bản chất con người, thực tiễn không
ngừng phát triển bởi các thế hệ của lồi người qua các q trình lịch sử.
Đặc trưng của thực tiễn:

- Thực

tiễn chỉ là những hoạt động vật chất - cảm tính của con người hay nói khác đi

là những hoạt động vật chất mà con người cảm giác được, quan sát được trực
quan được. Hoạt động vật chất - cảm tính là những hoạt động mà con người phải
sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất


4

để biến đổi chúng; trên cơ sở đó, con người làm biến đổi thế giới khách quan và
biến đổi chính bản thân mình.
- Thực

tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội, với sự tham gia đông đảo của mọi

người, luôn bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể và cũng trải
qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể. Do vậy, thực tiễn là những hoạt động
mang tính lịch sử - xã hội của con người.
- Thực

tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội để phục

vụ con người. Nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của con
người, khác hẳn với hoạt động chỉ dựa vào bản năng, thụ động của động vật.
1.2. Các hình thức hoạt động thực tiễn
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song
có ba hình thức cơ bản là: Hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã
hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.

Hoạt động sản xuất vật chất
Là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn.
Là hoạt động phổ biến khắp mọi nơi trong cuộc sống, rất dễ nhận diện như hoạt
động trồng lúa, hoạt động trồng rau, trồng hoa màu hay các hoạt động dệt vải,
sản xuất giày dép, hoạt động sản xuất ô tô, xe máy…
Đây cũng là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ lao động tác động
vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì
sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người.
VD: Trồng lúa, trồng khoai, dệt vải, sản xuất giày dép, ô tô, xe máy…
Hoạt động chính trị xã hội
Là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải
biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.


5

Cụ thể như những hoạt động liên quan đến chính trị xã hội như những hoạt động
bỏ phiếu của nhân dân đi bầu cử đại biểu Quốc hội, hoạt động bỏ phiếu tán
thành sự ra đời, sửa đổi của các bộ Luật, Nghị định… của các đại biểu, hoạt
động tình nguyện giúp đỡ nhân dân vùng núi vùng sâu xa xây dựng đường xá,…
VD: Đi bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri,
thanh niên tham gia tình nguyện giúp đồng bào vùng sâu vùng xa…
Thực nghiệm khoa học
Là một hình thức đặc biệt của thực tiễn.
Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần
giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định
các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trị quan trọng trong sự phát
triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại.

VD: Hoạt động nghiên cứu, làm thí nghiệm của các nhà khoa học để tìm ra các
vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, vắc - xin phòng ngừa dịch bệnh mới…
1.3. Mối quan hệ giữa các hoạt động thực tiễn
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác
nhau, không thể thay thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động qua lại lẫn nhau.
-

Trong các mối quan hệ, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động có vai trị
quan trọng nhất, đóng vai trị quyết định đối với các hoạt động khác. Bởi vì,
nó là hoạt động ngun thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường
xuyên nhất trong đời sống của con người và nó tạo ra những điều kiện của
cải thiết yếu nhất, có tính quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của
con người. Nếu khơng có hoạt động sản xuất vật chất thì khơng thể có các


6

hình thức thực tiễn khác. Các hình thức thực tiễn khác suy đến cùng cũng
xuất phát từ thực tiễn sản xuất vật chất và nhằm phục vụ thực tiễn sản xuất
vật chất.
VD: Sản xuất lương thực nuôi sống con người, và con người là yếu tố quyết
định mọi hoạt động khác.
- Ngược

lại, hoạt động chính trị – xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học có tác

dụng kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất vật chất phát triển.
VD: Xã hội phát triển làm như cầu hàng hóa tăng lên, từ đó thúc đẩy hoạt động
sản xuất. Ngược lại, xã hội đi xuống làm nhu cầu hàng hóa giảm, kìm hãm hoạt

động sản xuất.
- Chính

sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho

hoạt động thực tiễn vận động, phát triển và ngày càng có vai trị quan trọng đối
với hoạt động nhận thức.
Lý luận
2.1.

Khái niệm lý luận

Lý luận là hệ thống các quan điểm phản ánh thực tiễn, là tri thức được khái quát
từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh các mối liên hệ cơ bản mang tính quy luật
của các sự vật, hiện tượng và hiện thực khách quan được biểu đạt bằng hệ thống
nguyên lý, quy luật, phạm trù.
(Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của
loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong q
trình lịch sử”)
2.2.

Đặc trưng và tính chất của lý luận

Lý luận có đặc trưng và tính chất sau:
Về nội dung phản ánh: Lý luận phản ánh cái bên trong, cái tất yếu của đối
tượng. Lý luận có thể phản ánh cái bên trong, cái tất yếu của sự vật trong tính


7


chỉnh thể, tồn vẹn của nó, nhưng cũng có thể chỉ phản ánh cái bên trong, tất
yếu của từng mặt nào đó của đối tượng.
Về hình thức phản ánh: Lý luận biểu hiện trong hình thức những khái niệm,
phạm trù, quy luật hoặc hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật.
Lý luận có tính hệ thống, tính khái qt cao, tính logic chặt chẽ: Lý luận cũng có
tính trừu tượng hoá và tổng hợp. Bản thân của lý luận là hệ thống tri thức được
khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, từ quan sát và thực nghiệm khoa học.
Tính gián tiếp đối với đối tượng nhận thức. Xét về mặt tâm lý, có thể thấy chủ
thể lý luận là người hoạt động tự giác và tích cực, lý luận biểu hiện rõ tính chủ
thể của con người.
Lý luận cịn mang tính khuynh hướng. Tính khuynh hướng của lý luận khơng
phải là q trình tự thân của lý luận, mà do thực tiễn quy định.
VD: Có lý luận tiên tiến, cách mạng, có lý luận bảo thủ, phản cách mạng, cólý
luậngiáo điều, chiết trung, nguỵ biện, duy lý, phi duy lý, duy khoa học, có lý
luận khoa học và khơng khoa học, phản khoa học ..v.v.
2.3.

Cơ sở của lý luận

Cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn, khơng có kinh
nghiệm thực tiễn thì khơng có cơ sở để khái quát lý luận.
Lý luận gắn với nhu cầu của thực tiễn: lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn đánh giá
đúng, sai của lý luận, của chủ trương, đường lối, chính sách; đồng thời phải tăng
cường tổng kết thực tiễn để kiểm tra lý luận, chủ trương, đường lối, chính sách,
trên cơ sở đó kịp thời bổ sung, điều chỉnh, phát triển lý luận.


8

Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn

3.1. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận
3.1.1. Thực tiễn là cơ sở nguồn gốc của lí luận
Con người liên hệ với thế giới hiện thực bên ngoài bằng thực tiễn, chỉ thơng qua
hoạt động thực tiễn thì cịn người mới nhận thức được thế giới khách quan.
Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ,
cách thức và khuynh hướng vận động, phát triển của nhận thức.
Con người ln ln có nhu cầu khách quan là phải giải thích và cải tạo thế giới,
điều đó bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng
hoạt động thực tiễn của mình, làm cho các sự vật vận động, biến đổi
qua đó, bộc lộ các thuộc tính, những mối liên hệ bên trong giúp con người nhận
thức được bản chất, quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó
mà hình thành các lý luận, học thuyết khoa học.
- Chẳng

hạn xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con người là đo lường diện tích và

đong lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính tốn thời gian và chế tạo cơ
khí mà toán học đã ra đời và phát triển.
- Sự xuất hiện học thuyết Macxit từ những năm 40 của thế kỉ XIX cũng bắt nguồn từ
hoạt động thực tiễn của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại
giai cấp tư sản trong xã hội tư bản.
- Thành tựu mới đây nhất là khám phá giải mã bản đồ gen người cũng ra đời từ
chính hoạt động thực tiễn. Từ nhu cầu phải chữa trị được những căn bệnh nan y
và nhu cầu tìm hiểu khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người...
Có thể nói suy cho cùng khơng có một lĩnh vực tri thức nào mà không xuất phát từ
thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ hướng dẫn thực tiễn.
3.1.2. Thực tiễn là động lực của lí luận
Nhu cầu thực tiễn thúc đẩy sự ra đời và phát triển của lý luận, thông qua thực
tiễn những bế tắc của lý luận sẽ phát triển; thực tiễn làm cho xã hội ngày càng
phát triển, năng lực trí tuệ ngày càng cao hơn, khả năng nhận thức và khái quát



9

lý luận ngày càng tốt hơn, qua đó mỗi hệ thống lý luận ngày càng hồn thiện và
phát triển.
Nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan con người ngày càng được hồn
thiện; năng lực tư duy lơgíc khơng ngừng được củng cố và phát triển; các
phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác dụng “nối dài” các
giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
3.1.3. Thực tiễn là mục đích của lí luận
Lý luận giúp con người hoạt động thực tiễn để xây dựng thế giới vì lý luận dù
bàn về vấn đề khía cạnh nào đi nữa thì cũng quay về phục vụ thực tiễn. Để nhấn
mạnh vai trò này của thực tiễn Lenin đã cho rằng: “Quan điểm về đời sống, về
thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về thực tiễn”
Như những thành tựu y học hay khoa học cũng ra đời từ chính thực tiễn và từ
mục đích phục vụ lợi ích để chữa trị và nâng cao đời sống và từ mục đích tìm
hiểu khai thác tiềm năng từ con người. Vậy nên không một tri thức nào mà
không xuất phát từ mục đích nào đó của thực tiễn khơng nhằm vào việc phục vụ
hướng dẫn thực tiễn.
Lý luận không chỉ thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của con người mà còn đáp ứng
nhu cầu nâng cao năng lực hoạt động để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của
con người. Thực tiễn thúc đẩy nhận thức, lý luận vận động và phát triển theo.
Vậy nên lý luận có ý nghĩa thật sự khi chúng được vận dụng và cải tạo thực tiễn.
3.1.4. Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lí
Theo triết học Mac - Lenin thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm
tra lý luận, bác bỏ sai lầm. Không thể lấy tri thức kiểm tra tri thức, cũng không
thể lấy sự hiển nhiên hay sự tán thành của số đông để kiểm tra sự đúng sai của
tri thức. C.Mac đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có
thể đạt tới tính chân lý, khách quan khơng hồn tồn khơng phải là một vấn đề

lý luận mà là một vấn đề thực tiễn”


10

Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, lý luận vừa có tính chất tuyệt đối vừa có
tính chất tương đối. Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu
chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra, kiểm nghiệm lý luận; thực tiễn ở mỗi
giai đoạn lịch sử có thể xác định được lý luận. Tiêu chuẩn của thực tiễn có cả
tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà luôn biến đổi và
phát triển. Do đó: “Khơng bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn
toàn một biểu tượng nào đó dù biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa” (V.I. Lenin
(1960), Toàn tập, t.19, Sdd Tr.168)
Thực tiễn là một quá trình quan trọng và được thực hiện bởi con người nên
không thể tránh khỏi yếu tố chủ quan. Như vậy, Thực tiễn là thước đo chính xác
nhất để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức, xác nhận xem tri thức đó có phải
chân lý hay khơng.
3.2. Tác động của lý luận đối với thực tiễn
3.2.1. Lý luận là “kim chỉ nam” soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo hoạt động thực
tiễn
Bởi vì lý luận nắm bắt được quy luật vận động và phát triển hiện thực. Do đó, lý
luận giúp cho việc xác định mục tiêu,phương hướng, làm cho hoạt động trở nên
chủ động, tự giác, hạn chế tối đa tình trạng mị mẫn, tự phát và điều chỉnh hoạt
động theo đúng mục tiêu đã xác định và vạch ra phương hướng mới cho sự phát
triển của thực tiễn.
Lý luận được hình thành và phát triển trên nền tảng thực tiễn nhưng lý luận có
tính độc lập tương đối so với thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Lý
luận là sự tổn kết những kinh nghiệm của loài người, là tổn hợp những tri thức
về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”. Lý luận hình thành là
kết quả của q trình nhận thức lâu dài và khó khăn của con người trên cơ sở

thực tiễn. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công hay thất bại,
con người phân tích cấu trúc, tính chất, nguyên lí và các mối quan hệ của các


11

yếu tố, điểu kiện trong các hình thức thực tiễn từ đó tính ra quy luật của thực
tiễn được khái quát dưới dạng hình thức lý luận.
Lý luận hướng dẫn, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương pháp giúp hoạt
động thực tiễn đi tới thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Khơng có lý
luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Lý luận đem lại cho thực tiễn những tri
thức đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan,
giúp con người xác định đúng mục tiêu để hành động có hiệu quả hơn, tránh được
những sai lầm vấp váp.
3.2.2. Lý luận góp phần phát huy tối đa sức mạnh của cộng đồng trong thực
tiễn
Lý luận khoa học thâm nhập vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức mạnh
vật chất, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động của con người trở
nên tự giác, chủ động, tiết kiệm được thời gian, công sức, hạn chế những mò
mẫn, tự phát.
Khi lý luận thâm nhập vào quần chúng, thông qua phong trào của quần chúng
trở thành sức mạnh vật chất. Lý luận có vai trị giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, xác
định phương pháp, biện pháp thực hiện, liên kết, tập hợp lực lượng tạo thành sức
mạnh to lớn cải tạo tự nhiên, xã hội vì sự phát triển của các cá nhân và xã hội.
Lý luận cách mạng có vai trị to lớn trong việc giáo dục, thuyết phục, động viên,
tổ chức, tập hợp quần chúng trở thành lực lượng vật chất to lớn, cải tạo tự nhiên,
xã hội vì sự phát triển của con người và xã hội. Lê-nin cho rằng: “Khơng có lý
luận cách mạng thì khơng thể có phong trào cách mạng”. Mac thì nhấn mạnh:
“Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì nó biến thành lực lượng vật chất”.
Vai trị của lý luận ngày càng tăng lên, đặc biệt trong giai đoạn mới của thời đại

ngày nay, thời đại của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay go, phức
tạp, cùng với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học
và cơng nghệ. Ph. Ăng-ghen chỉ ra rằng: “Một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao
khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận.”


12

3.2.3. Lý luận có vai trị quan trọng, mở rộng khả năng nhìn thấy và dự báo
tương lai chỉ ra phương pháp tiến hành hoạt động thực tiễn
Lý luận được vận dụng làm phương pháp cho hoạt động thực tiễn, mang lại lợi
ích cho con người càng kích thích con người tích cực bám sát thực tiễn để khái
quát lý luận. Lý luận làm rõ vị trí, vai trị, lợi ích của chủ thể. Q trình diễn ra
khơng ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ
và phong phú, sâu sắc hơn. Từ đó, lý luận khơng chỉ là sự giải thích thế giới
ngày một rõ hơn mà còn giúp con người hiểu thêm về ý nghĩa của thế giới đem
lại mà không ngừng cải tạo thế giới. Lý luận không chỉ mở rộng khả năng nhìn
thấy trước, dự báo tương lai, mà lý luận khoa học còn bao hàm cả ý nghĩa tự
giác hình thành cái tương lai đó.
Lý luận được tóm tắt trong các phương pháp. Từ một hệ thống lý luận rút ra các
nguyên tắc chỉ đạo và điều chỉnh hoạt động thực tiễn. Lý luận khoa học sẽ cho
phương pháp khoa học có hiệu quả. Xuất phát từ khả năng tư duy ưu việt của
con người mà bản chất, tính quy luật trong sự vận động, phát triển của thực tiễn
được con người nắm bắt. Nắm quy luật thực chất là nắm các mối quan hệ bản
chất, tất yếu, quyết định chiều hướng vận động, phát triển của thực tiễn. Khi
thực tiễn đang vận động, đang phát triển đến giai đoạn nhất định, bằng việc sử
dụng lý luận mà con người có khả năng dự báo trước được sự vận động, phát
triển của thực tiễn trong tương lai. Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và
phát triển của thực tiễn trong tương lai, từ đó chỉ ra phương hướng mới cho sự
phát triển. Con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận

bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo đúng
đắn. Nếu dự báo khơng đúng đắn sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu quả xấu khơng
thể lường trước được trong thực tiễn. Vì thế chức năng dự đoán tương lai là
chức năng quan trọng của lý luận.


13

3.2.4. Lý luận tuy quan trọng nhưng phải biết cân bằng mối quan hệ giữa lý
luận với thực tiễn
Tuy nhiên do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao của sự phản ánh hiện thực nên
lý luận có thể xa rời thực tiễn và trở nên ảo tưởng. Khả năng tiêu cực đó càng
tăng lên nếu lí luận đó bị chi phối bởi những tư tưởng không khoa học, phản
động hoặc lạc hậu. Sự lạc hậu, giáo điều về lý luận dẫn đến sự khủng hoảng về
lý luận của chủ nghĩa xã hội trong thời gian qua là một trong những nguyên
nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội nói chung, cụ thểlà sự sụp
đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ và Đơng Âu trước đây. Vì vậy phải coi trọng lý
luận, nhưng không được cường điệu hóa lý luận, coi thường thực tiễn và tách rời
lý luận với thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động cách
mạng. Như Bác Hồ đã khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận thì
thành thực tiễn mù qng. Lý luận mà khơng liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông”.
II.

Vận dụng thực tiễn

1.
Một số nét sơ lược về quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam

trước thời kỳ đổi mới (năm 1987)
Hợp tác xã hoá ở miền Bắc bắt đầu thực hiện từ năm 1958, đến năm 1960 cơ
bản hồn thành. Khi đó chúng ta cho rằng làm ăn tập thể ưu việt hơn làm ăn cá
thể, kinh tế cá thể tự phát dẫn đến phân hóa giàu nghèo, phân chia giai cấp. Làm
ăn tập thể sẽ tạo ra sức mạnh, sẽ giải quyết được những vấn đề kinh tế xã hội
của cộng đồng nông thôn. Do vậy, hợp tác xã hoá được thực hiện đồng nhất với
tập thể hoá, xoá bỏ sản xuất theo hộ, chỉ cho phép tồn tại dưới hình thức kinh tế
phụ gia đình, mọi tư liệu sản xuất đều thuộc về tập thể, tổ chức lao động tập
trung dưới sự chỉ huy điều hành của ban chủ nhiệm hợp tác xã và ban chỉ huy
đội, phân phối theo ngày công, sau khi trừ chi phí sản xuất, khấu trừ nộp cho
nhà nước và phúc lợi xã hội ở nông thôn, ban chủ nhiệm làm cả chức năng của


14

chính quyền cơ sở. Nhờ lao động tập thể và sử dụng các nguồn lực nên đã xây
dựng được những cơng trình thuỷ lợi, kiến thiết đồng ruộng, đường giao thơng,
trường học... bộ mặt miền Bắc cũng có những thay đổi đáng kể.
Song tổ chức hợp tác xã ấy vốn chứa đựng những khuyết điểm:
- Chế

độ cơng hữu dưới hình thức tập thể dường như khơng có ai là chủ đích thực

dẫn đến tư liệu sản xuất khơng được sử dụng có hiệu quả và bị huỷ hoại.
- Quản lý lao động, sản xuất tập trung làm cho người lao động phụ thuộc, bị động,
thiếu chủ động, sáng tạo.
- Của cải làm ra dùng để bao cấp cho phúc lợi xã hội nơng thơn, chi dùng phung phí,
phân chia cho người lao động q ít, khơng khuyến kích người lao động hăng
say sản xuất.
- Các hợp tác xã lại tồn tại tương đối biệt lập với nhau, trao đổi sản phẩm lại gắn

liền với hệ thống quốc doanh mang tính giao nộp cấp phát, phi thị trường.

Những khuyết điểm trên của hợp tác xã nông nghiệp đã phát sinh những tiêu cực
ngay từ giai đoạn đầu. Nhưng chúng ta lại cho rằng những tiêu cực ấy là do chế
độ sở hữu tiên tiến, chỉ cần hoàn thiện chế độ quản lý thì sẽ phát huy tính ưu việt
của hợp tác xã, thậm chí có ý kiến cho rằng chúng ra đã có quan hệ sản xuất tiên
tiến cần phải kéo lực lượng sản xuất lên cho nó phù hợp. Điều này trái với quy
luật lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất của chủ nghĩa Mác.
Năm 1975, miền Nam được hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất, cả dân
tộc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh và
cấm vận kinh tế, điều kiện thực tiễn đã thay đổi, mơ hình kinh tế đó dần dần bộc
lộ những mâu thuẫn, nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng ngày càng trầm
trọng. Thực tiễn đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đổi mới đường lối phát triển
kinh tế – xã hội. Tuy nhiên do chưa nhận thức đúng thực tiễn, Đảng và Nhà
nước ta vẫn vận hành nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp, đã mắc
phải những khuyết điểm như:


15

- Q

nóng vội trong tiến trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần gọi là

phi xã hội chủ nghĩa tại các tỉnh, thành phố phía Nam. Đối với các địa phương
phía Bắc, việc nóng vội đưa hàng loạt hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao chẳng
những đã khơng đạt được mục đích đẩy quan hệ sản xuất đi trước để thúc đẩy
lực lượng sản xuất lên theo mà ngược lại đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
- Không thừa nhận địa vị pháp lý của một lực lượng sản xuất to lớn trong xã hội

thuộc các loại hình sở hữu gọi là phi xã hội chủ nghĩa, lực lượng này bao gồm
các hộ nông dân chưa vào hợp tác xã, những người làm ăn cá thể trong các
ngành nghề tiểu thủ công, những người kinh doanh cá thể trong các ngành
thương mại dịch vụ.
- Phát triển nền kinh tế theo phương thức tự cung tự cấp, phương thức đổi hàng
trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế, chấp nhận cấm vận và bao vây
kinh tế của các thế lực thù địch. Một nền kinh tế khép kín và bị khép kín như
vậy đã làm mất đi những khả năng tiềm tàng, những khả năng trong tầm tay của
việc sử dụng và phát triển những lực lượng sản xuất từ hợp tác quốc tế đem lại.
Trong giai đoạn 1976-1985, mặc dù đã xây dựng được 1307 xí nghiệp nhà nước
nhưng đó chỉ là những xí nghiệp 100% vốn nhà nước, khơng có đầu tư trực tiếp
hoặc gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Nhược điểm của những xí nghiệp
quốc doanh này là đã đầu tư sử dụng trang thiết bị, công nghệ lạc hậu vài ba
chục năm so với các nước trong khu vực, do vậy đã để lại những hậu quả rất khó
khăn về mặt hiệu quả đầu tư, sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
Năm 1979 là năm kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam và sau đó là kết thúc
chiến tranh biên giới phía bắc, Đảng và Nhà nước tập trung hơn vào mặt trận
kinh tế. Trong thời gian đó, nền kinh tế đang gặp rất nhiều khó khăn, việc triển
khai Nghị quyết Đại hội IV đang vấp váp và tổn thất trên các mặt. Sản xuất bị
đình trệ, đời sống nhân dân bị giảm sút nhanh và ngày càng gặp nhiều khó khăn.
Điều đó buộc Đảng, Nhà nước và nhân dân phải tìm cách tháo gỡ. Nghị quyết


16

Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IV ra đời nhằm
đáp ứng yêu cầu tháo gỡ cho sản xuất và đời sống.
Trên thực tế nghị quyết này vẫn giữ quan điểm lâu dài là chế độ cơng hữu và cơ
chế kế hoạch hố tập trung. Nhưng dù sao sự chấp nhận đó có thể coi là nấc
thang mới, hơn nữa là bước đột phá trong tư duy, vì sự thay đổi nhận thức đã bắt

đầu vượt qua hai điều tối kị trong mơ hình kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan
điểm chính thống lúc đó: kinh tế tư nhân và quan hệ thị trường tự do. Bước đột
phá đó đã bước đầu chấp nhận cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Trước thực trạng hợp tác xã ngày càng rệu rã, mặt trận giá – lương - tiền, phân
phối lưu thông cực kỳ rối loạn nóng bỏng, đã diễn ra cuộc tranh luận kéo dài và
rất gay gắt về lý luận và chính sách kinh tế trên tất cả các vấn đề. Cuộc tranh
luận ấy có hai xu hướng trái ngược nhau: Xu hướng chấp nhận kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần như là chiến lược lâu dài và xu hướng chấp nhận như bước lùi
sách lược tạm thời, gắn với những nhận thức khác nhau về mơ hình xã hội chủ
nghĩa và con đường xây dựng nền kinh tế.
2.

Việt Nam thời kỳ đổi mới (1987 đến nay)

2.1. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
2.1.1. Kinh tế
Nhận thức về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong đổi mới ngành Kinh
tế:
Đổi mới về mối quan hệ giữa củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất với phát
triển lực lượng sản xuất – một trong những căn cứ quan trọng cho sự đổi mới tư
duy về cấu trúc nền kinh tế (cấu trúc sở hữu và các thành phần kinh tế).
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất của phương thức
sản xuất, trong đó, mỗi mặt có vị trí và tác động khơng giống nhau. Lực lượng
sản xuất là mặt động nhất, cách mạng nhất và giữ vị trí quyết định đối với quan
hệ sản xuất. Mối quan sản xuất được thiết lập thích ứng với trạng thái, trình độ


17

phát triển của lực lượng sản xuất sẽ giữ vai trò mở đường tạo điều kiện thúc đẩy

sự phát triển của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất quyết định tính chất
của quan hệ sản xuất, quyết định sự phát triển của quan hệ sản xuất, do đó,
khơng thể nóng với thiết lập quan hệ sản xuất mới khi chưa tạo ra được lực
lượng sản xuất mới và cũng khơng thể tuỳ tiện xố bỏ quan hệ sản xuất hiện có
khi nó cịn tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường:
Việc đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là một đột phá lí luận rất sáng tạo của Đảng ta. Từ đại hội VI, chúng ta đã dứt
khoát từ bỏ mơ hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị trường,mơ hình kinh tế tập
trung quan liêu, bao cấp , chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội; trong đó q trình
sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thơng qua thị
trường. Vì thế kinh tế thị trường không chỉ là “công nghệ”, là “phương tiện” để
phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó khơng
chỉ gồm lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy
rõ ràng là khơng thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, trừu tượng tách
rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một
nước.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo quy
luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối của các nhân tố định hướng xã
hội chủ nghĩa. Vì thế kinh tế thị trường ở nước ta vừa có những đặc trưng
chung, phổ biến của mọi nền kinh tế thị trường, vừa có những đặc trưng mang
tính đặc thù – định hướng xã hội chủ nghĩa: phát triển kinh tế nhiều hình thức sở
hữu nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục...


18


Về tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới (19861991) tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm. Nhưng khi
quá trình đổi mới diễn ra rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ tăng trưởng
GDP ln đạt mức cao và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo
chủ quan và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Năm 2009, dù kinh tế thế giới đang suy thối và khủng hoảng tài chính nhưng
đến nay cam kết đầu tư nước ngoài đã đạt 18 tỷ USD, dự kiến có thể đạt 20 tỷ
USD. Mặc dù kinh tế thế giới suy thoái nhưng Việt Nam vẫn là một trong những
nước đạt tăng trưởng dương (khoảng 5,2% năm 2009). Kết quả này cũng nhờ
vào chính sách mở cửa, thu hút đầu tư, tăng trưởng xuất khẩu. Năm 2009, chúng
ta khơng bị rơi vào tình trạng suy thoái kinh tế nặng nề như một số nước.
Do tốc độ tăng GDP cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên đáng kể, từ 289
USD (năm 1995) lên 1024 USD (năm 2008), cho thấy Việt Nam đang từng bước
vượt qua ranh giới của quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp và đang vươn
lên nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng
của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế
nhà nước được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh
tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực,
chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, giải
quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; kinh tế hợp tác và hợp tác xã
phát triển khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9%GDP, là cầu nối quan trọng
với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế.
Thành tựu đổi mới trong nước kết hợp với thực hiện chính sách mở cửa,tích vực
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho
nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới. Từ một


19


quốc gia bị phong tỏa, cấm vận, từ một nền kinh tế kém phát triển và “đóng
cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới. Đến nay
Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ; mở rộng
quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngồi ra, Việt
Nam cịn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực,
và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức
thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
2.1.2. Xã hội
Từ năm 1986 đến nay, thực hiện công cuộc đổi mới, lĩnh vực xã hội có những
thành tựu quan trọng.
Hệ thống chính sách xã hội ngày càng hồn thiện
Nhà nước đã ban hành Bộ luật Lao động và hàng loạt các chính sách về giải
quyết việc làm, dạy nghề, xuất khẩu lao động, phát triển nguồn nhân lực, phát
huy nội lực sức lao động, phát triển thị trường lao động theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, cải cách tiền lương, đổi mới chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao
động... góp phần thúc đẩy cơng cuộc đổi mới.
Giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân

Sau ngày đất nước thống nhất, công tác lao động, xã hội được mở rộng, trong đó
tập trung giải quyết các vấn đề lao động ở miền Nam. Đảng, Nhà nước đã ban
hành nhiều chính sách để giải quyết, sắp xếp việc làm cho người lao động thất
nghiệp; ổn định đời sống cho cán bộ tập kết từ miền Bắc trở về; sắp xếp việc
làm cho bộ đội, thanh niên xung phong xuất ngũ; thực hiện chủ trương phân bổ
lại lực lượng lao động và dân cư, hàng triệu đồng bào Đồng bằng sông Hồng đã
hăng hái đi khai hoang, xây dựng các vùng kinh tế mới ở Tây Nguyên, Đông
Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long.


20


Trong những năm gần đây, nhiều giải pháp tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho
người lao động được thực hiện. Nhờ đó, tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động
trong độ tuổi ở thành thị có xu hướng giảm dần từ mức 4,5% năm 2010 xuống
còn 3% năm 2020. Từ 2006-2011, đã giải quyết được việc làm cho trên 8 triệu
lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm cịn dưới 4,5%.
Cơng tác dạy nghề cũng đạt được những kết quả quan trọng, số người được đào
tạo nghề liên tục tăng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo được cải thiện đáng kể từ 40%
năm 2010 lên 65% năm 2020.
Ngày 14/10/2021, do ảnh hưởng của Đại dịch COVID - 19, Phó thủ tướng Lê
Minh Khái ký ban hành Nghị quyết 126/NQ-CP về việc sửa đổi, bổ sung Nghị
quyết 68/NQ-CP ngày 1/7/2021 của Chính phủ về hỗ trợ người lao động và
người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch: Chính sách hỗ trợ tiền mặt
cho lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương được
sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng đối tượng hưởng chính sách là “người lao
động làm việc theo hợp đồng lao động, đang tham gia BHXH bắt buộc”.
Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả ấn tượng
Xóa đói, giảm nghèo là một điểm sáng trong phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam. Trong 3 thập kỷ qua, hàng loạt các chính sách giảm nghèo được triển khai
đồng bộ ở tất cả các cấp với nguồn kinh phí huy động từ Chính phủ, cộng đồng
và các tổ chức xã hội quốc tế. Qua đó, đã cải thiện đáng kể diện mạo nghèo đói
ở tất cả các vùng miền trong cả nước. Tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm liên tục từ
30% năm 1992 xuống còn 8,3% năm 2004. Đến năm 2000, cơ bản xóa xong
tình trạng đói kinh niên.
Giai đoạn 2010-2020, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam giảm nhanh, từ 14,2% năm
2010 xuống còn 7% năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015) và giảm
từ 9,2% năm 2016 xuống dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều). Việt
Nam đã trở thành một trong số những nước đi đầu ở khu vực châu Á-Thái Bình


21


Dương trong áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa chiều để giảm nghèo ở
tất cả các chiều cạnh.
2.2. Quá trình phát triển giáo dục ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
Giáo dục đào tạo đóng vai trị quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia
khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Vậy
tại sao giáo dục đào tạo lại có tầm quan trọng đến chiến lược phát triển đất nước
như vây? Hiểu được điều này, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia rất
coi trọng sự phát triển của nền giáo dục, đã và đang củng cố xây dựng nền giáo
dục thực sự vững mạnh và có chất lượng. Vì vậy mà trong suốt những năm qua
Đảng và nhà nước đã luôn quan tâm và tập trung đầu tư rất nhiều cho nền giáo
dục Việt Nam.
Hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cơ bản được
hồn thiện
Bộ GD-ĐT đã rà sốt, trình Chính phủ, Quốc hội ban hành và ban hành theo
thẩm quyền các cơ chế, chính sách khắc phục những hạn chế, bất cập tồn tại từ
nhiều năm trước. Lần đầu tiên trong 2 năm liên tiếp, Bộ đã tham mưu Chính phủ
trình Quốc hội thơng qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục
đại học năm 2018 và Luật Giáo dục (sửa đổi, ban hành mới) năm 2019, giải
quyết những “nút thắt” và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục, đào tạo.
Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non; duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập
giáo dục tiểu học và trung học cơ sở
Chỉ tiêu về đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trên toàn quốc cho trẻ 5 tuổi đã
hoàn thành ngay từ đầu năm 2017 với tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đạt
99,98%.


22


Ban hành và tích cực triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới.
Cuối năm 2019, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã phê duyệt 5 bộ sách giáo khoa lớp 1,
với tổng số 46 quyển của 9 môn học và hoạt động giáo dục cho phép sử dụng
trong năm học 2020 - 2021. Việc lựa chọn sách giáo khoa được các địa phương
thực hiện cơ bản nghiêm túc, công khai, minh bạch. Đây là lần đầu tiên trong
lịch sử ngành giáo dục nước ta thực hiện chủ trương này và đã có kết quả bước
đầu đáng khích lệ.
Cơng tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục ngày càng thực
chất, hiệu quả hơn
Đổi mới thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng đối với giáo dục tiểu học, trung học
cơ sở và trung học phổ thông được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết
hợp kết quả quá trình với kết quả cuối năm học.
Các bậc học sau phổ thông đã chuyển việc tổ chức đào tạo theo niên chế sang
tích lũy mơ đun hoặc tín chỉ. Việc kiểm tra, đánh giá trình độ đào tạo thạc sĩ và
tiến sĩ được thực hiện chặt chẽ hơn; chất lượng các luận văn, luận án từng bước
theo tiêu chuẩn quốc tế.
Chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn đều được nâng lên,
được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao
Theo báo cáo năm 2020 của Ngân hàng Thế giới về Vốn nhân lực, thành phần
kết quả giáo dục của Việt Nam đứng thứ 15, tương đương với các nước như Hà
Lan, New Zealand, Thụy Điển.
Nhiều chỉ số về Giáo dục của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như tỷ
lệ học sinh đi học và hồn thành Chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%,
đứng ở tốp đầu của khối ASEAN.
Kết quả thi Olympic của học sinh Việt Nam những năm vừa qua có bước tiến bộ
vượt bậc với 49 huy chương Vàng trong giai đoạn 2016 - 2020 so với 27 huy
chương Vàng trong giai đoạn 2011 – 2015, nhiều học sinh Việt Nam đạt điểm số
cao nhất ở các nội dung thi.



23

2.3. Quá trình phát triển ngoại giao ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
Việt Nam đến nay đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia
thành viên Liên hợp quốc; thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với 30
đối tác chiến lược và toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam cùng các
nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì hịa bình, hợp tác và phát
triển ở khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã thiết lập quan hệ bình thường với
tất cả nước lớn, các Uỷ viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Việt Nam đã giải quyết ổn thỏa nhiều tranh chấp biên giới, lãnh thổ, biển đảo,
giữ vững mơi trường hịa bình; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
tranh thủ nhiều ODA, FDI, mở rộng thị trường ngoài nước; tăng cường ngoại
giao đa phương. Các sự kiện lớn của ngoại giao Việt Nam trong những năm gần
đây là: Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao VII tổ chức Pháp ngữ
(1997), Hội nghị cấp cao ASEAN VII (1998), Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp
tác Á - Âu lần V (2004), Hội nghị thượng đỉnh APEC 14 (2006). Hoa Kỳ dành
cho Việt Nam quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (11/2006). Vào ngày
16/10/2007, Việt Nam đã được bầu làm 1 trong các thành viên không thường
trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009. Ngày
7/6/2019, tại New York (Mỹ), Việt Nam lần thứ 2 được bầu chọn là ủy viên
không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021.
Năm 2010, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đối ngoại nổi bật: Việt Nam
đảm nhận thành công vai trò Chủ tịch ASEAN với chủ đề Hướng tới Cộng đồng
ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động, chủ trì thành công Diễn đàn Kinh tế thế
giới (WEF) Đông Á, tổ chức thành công Hội thảo quốc tế Việt Nam – châu Phi
lần thứ II. Năm 2012, Việt Nam tổ chức thành công Diễn đàn Việt Nam – Mỹ
Latin về Thương mại và Đầu tư. Trong năm 2020, trước những diễn biến phức
tạp của tình hình thế giới và khu vực, đặc biệt là Dịch Covid – 19, với vai trò
Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã chủ trì và tổ chức thành công các Hội nghị Cấp

cao đặc biệt ASEAN và ASEAN+3 về Ứng phó dịch bệnh COVID - 19.


24

Khi đối mặt với diễn biến dịch ngày một phức tạp, Việt Nam đã thành công kêu
gọi viện trợ các nước từ khắp nơi trên thế giới cung cấp hàng triệu liều vắc-xin,
giúp đỡ nước ta sớm đẩy lùi dịch bệnh.
Tổng số vắc xin Covid-19 Mỹ trao tặng cho Việt Nam là 9,5 triệu liều.
Ý đã bàn giao tổng cộng hơn 2,8 triệu liều vắc xin nhằm hỗ trợ chiến dịch tiêm
chủng của Việt Nam.
Chiều 15.10, Bộ Y tế cũng tiếp nhận gần 2 triệu liều vắc xin COVID-19
AstraZeneca do Ba Lan, Hàn Quốc viện trợ cho Việt Nam….
2.4. Quá trình phát triển chính trị ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986), Đảng Cộng sản Việt Nam
chủ trương đổi mới toàn diện và triệt để tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
đặc biệt Đảng đã xác định đúng trọng tâm, trọng điểm và bước đi trong q trình
đổi mới chính trị. Đảng ta đã khẳng định có những vấn đề thuộc về ngun tắc,
khơng đổi mới mà cần được củng cố, đó là: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; kiên
trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và thực hiện chế độ
chính trị nhất nguyên, một đảng lãnh đạo.
Trong đổi mới chính trị, Đảng ta tập trung đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị, các khâu khác được tiến hành thận trọng từng bước,
bởi lẽ, chính trị có thể tác động đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy
cảm trong xã hội. Đảng nhấn mạnh: “Việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất
thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, khơng cho phép gây
mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn”. Có thể nói, đây là một chủ trương
đúng và trúng, bảo đảm không gây nên những đảo lộn làm mất cân bằng trong
đời sống xã hội; đồng thời, giữ vững được sự ổn định chính trị - một tiền đề tiên

quyết cho sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội.
Biểu hiện cụ thể trong đổi mới hệ thống chính trị nước ta hiện nay là:


25

- Thứ

nhất, Đảng chủ trương nâng cao tầm trí tuệ của Đảng. Để nâng cao tầm trí tuệ,

tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Đảng đã ra Nghị
quyết số 26-NQ/TW về Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Trong đó
nhấn mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng. Trong thực tiễn đổi mới,
bên cạnh những thành tựu to lớn, Đảng ta cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém,
có những hạn chế đang trở thành nguy cơ khơng thể xem thường. Vì vậy, địi hỏi
Đảng Cộng sản Việt Nam phải thường xuyên tự chỉnh đốn, thực hiện xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, đồng thời tập trung đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Thứ hai, tập trung đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước, xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân. Tự giác đổi mới bộ máy nhà nước từ cơ chế hành chính, tập trung quan
liêu sang bộ máy quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Theo đó, đổi
mới theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả các hoạt động lập hiến, lập pháp, giám
sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; đối với cơ quan hành
pháp, tập trung cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên
nghiệp, hiện đại, chuyển sang Chính phủ kiến tạo, phục vụ, hạn chế và tiến tới
xóa bỏ cơ chế xin - cho; đối với cơ quan tư pháp, đổi mới theo hướng xét xử
đúng người, đúng tội trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc tố tụng.

- Thứ ba, tăng cường vai trò phản biện xã hội, tính độc lập tương đối của các tổ chức
chính trị - xã hội. Vai trị phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội đã
được Đảng coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng để góp phần xây dựng
và thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến
nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp với thực tiễn.
Thực tiễn đổi mới đồng bộ và toàn diện hiện nay đang đặt ra một số vấn đề về
đổi mới chính trị:


×