Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tải Top 7 bài phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà siêu hay - HoaTieu.vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.79 KB, 14 trang )

1. Dàn ý vẻ đẹp hung bạo con Sông Đà
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Dẫn dắt vấn đề
2. Thân bài
- Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dịng sơng đầy cá tính “Chúng thủy giai
đơng ...”.
- Bờ sơng dựng vách thành: lịng sơng hẹp, “bờ sơng dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có
mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”
- Ở mặt ghềnh Hát Lng: “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió” một cách hỗn độn, lúc nào
cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu
như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô ...mượn cạp ngoài bờ
vực”,
- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”,
âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”,
“chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu ... cháy bùng bùng” (lấy
lửa tả nước).
Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có
những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh
khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “địn tỉa”
Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vịng, vịng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả
ngạn), vịng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vịng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa),
gơi hình ảnh con sơng Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.
- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”,
thứ kẻ thù số một của con người
3. Kết bài
- Khái quát lại vấn đề
2. Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sơng Đà chi tiết
Ơi những dịng sơng bắt nước từ đây


Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát
Những dịng sơng u thương của q hương, đất nước Việt Nam tự bao giờ đã trở thành
nguồn cảm hứng dạt dào cho các văn nghệ sĩ. Dường như mỗi nhà văn, nhà thơ lại có một
dịng sơng để thương, để nhớ của riêng mình. Ngũn Hồng Cầm tha thiết với sơng Đuống
thân thương; Hồng Phủ Ngọc Tường đắm đuối sơng Hương thơ mộng, kiều diễm thì
Ngũn Tn say đắm vẻ đẹp hung bạo, trữ tình. Với niềm say mê đắm đuối cùng vốn trí
thức tài hoa, Nguyễn Tuân đã tạo nên trang văn độc đáo “Người lái đị sơng Đà”.
Là cây đại thụ của rừng đầu nguồn văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân luôn say mê những cái
phi thường, tuyệt đỉnh, tuyệt đối, thích cảm xúc mạnh. Ưa khám phá sự vật, hiện tượng đến
tận chân tơ kẽ tóc, trang văn của Ngũn Tn phơ diễn kiến thức hết sức uyên bác: lịch sử,
địa lí, âm nhạc, văn chương, thể thao, quân sự.


Ngay từ lời đề từ của tác phẩm, Nguyễn Tuân đã đóng đinh vào lịng người đọc ấn tượng về
sự ngang ngạnh bướng bỉnh, lạ thường:
Mọi dịng sơng đều chảy về hướng Đơng
Duy chỉ có sơng Đà là ngược dịng chảy theo hướng Bắc
Ngay sau lời đề từ, Nguyễn Tuân đã tỉ mỉ liệt kê tên của 73 con thác độc dữ của sông Đà.
Nhưng hùng vĩ của sông Đà khơng chỉ có thác mà cịn ở cảnh đá bờ sông. Cái sừng sững của
vách đá, cái lạnh lẽo tối om và thắt hẹp lại của quãng sông hiện lên rõ mồn một trước mắt
người đọc bởi hàng loạt hình ảnh, sự kiện, phép so sánh mới lạ của Nguyễn Tuân. Đá hay bờ
sông dựng đứng, cao ngút trời, mặt sơng chỉ lúc đứng ngọn mới có mặt trời. Qng sơng rất
hẹp đến mức con hở, con nai cũng có thể vọt qua được. Đi giữa vách đá cao vòi vọi, đen đúa
giữa mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh người và tối om. Như đứng ở hè một cái ngõ ngóng vọng
lên một khung cửa sở trên cái tầng thứ mấy của tòa nhà vừa tắt phụt đèn điện.
Đâu chỉ hung bạo hùng vĩ, sơng Đà cịn vơ cùng hung bạo, dữ dằn. Ở quãng mặt ghềnh Hát
Loóng dài hàng ngàn cây số, nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn gùn ghè suốt
năm như lúc nào cũng muốn lấy mạng những người lái đò qua đây. Với những điệp từ, câu
văn như dậy sóng, dậy gió. Diện mạo của sơng Đà thật gớm ghiếc hung dữ chằng khác nào
tên lưu manh, cơn đị, giang hồ chuyên nghề đâm, thuê, chém, mướn.

Những cái hút nước sông Đà còn đáng sợ hơn và thực sự trở nên hiểm ác trong trang văn của
Nguyễn Tuân. Với tham vọng đem đến cho người đọc cảm giác chân thực, sống động nhất về
sự hung dữ của cá thác nước, Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân hùng hậu: văn chương,
điện ảnh, thể thao,... Chỉ riêng trong đoạn văn đã có nhiều so sánh, liên tưởng độc đáo. Người
đọc dễ hình dung về cái hút nước khủng khiếp trên sơng Đà. Nước xốy tít đáy, sâu hun hút
như cái giếng bê tơng thả xuống làm móng cầu. Từ đáy cái hút nước lên đến mặt chênh nhau
vài sải tay. Nước thở và kêu như cái cống bị sặc, có lúc ặc ặc nghe như vùa rót dầu sơi vào.
Thuyền bè vô ý qua đây, không vững tay chèo liền bị lơi tuột xuống, trồng cây chuối ngược,
đi ngầm dưới lịng sông, mươi phút sau mới tan tác ở quãng sông dưới. Chưa dừng lại ở đó,
Ngũn Tn cịn muốn người đọc nảy ra ý tưởng điện ảnh táo bạo. Nhà văn nghĩ đến chuyện
một anh quay phim ngồi vào thuyền rồi cho cả mình, cả máy quay để thu ảnh, truyền đến cho
người đọc cả khối nước sắp ụp vào mình. Thiết nghĩ khơng cần đến sự phiêu lưu mạo hiểm
của người quay phim ấy nữa bởi chỉ cần đọc văn Nguyễn Tuân, ta đã cảm thấy như được xem
một bộ phim 3D sống động
Nói đến hung bạo của sơng Đà tât phải nói đến cái dứ dằn của con thác. Còn nhớ trong Tây
Tiến, Quang Dũng từng miêu tả:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Vẻ hung dữ của con thác trong trang thơ của Quang Dũng chưa thấm gì với trang văn của
Nguyễn Tuân. Ông đã chỉ điểm ra vài giọng điệu của con thác nghe đã thấy rợn người.
“Tiếng thác nước nghe như oán trách, rồi nghe như là van xin, rồi lại như khiêu khích, khi
giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi, nó bất thần rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng giữa
rừng vầu, rừng tre nứa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng. Dưới ngòi bút của Ngũn Tn, những con thác sơng Đà có khác nào con quái
vật hung hãn trong cơn bứt phá, tức tối và tuyệt vọng. Cái lạ là Nguyễn Tuân đã dùng tử để tả
nước, lấy rừng tả thác. Đó quả là cách chơi ngông trong văn chương của Nguyễn Tn.
Hết uy hiếp người lái đị bằng thác dữ, sơng Đà lại dàn bày thạch trận với dã tâm tiêu diệt
mọi con thuyền. Sông Đà tung ra một lực lượng hết sức hùng hậu, thiện chiến, với đủ tướng
dữ, quân tợn, đứa nào trông cũng ngỗ ngược, dữ dằn. Bọn giặc đá cịn mưu mơ, bí mật mai
phục để bẫy con thuyền. Thoạt nhìn, thấy mặt sơng trắng xóa cả một chân trời đá. Những
hịn, những tảng tưởng như nó đứng, nó ngồi, nằm tùy theo sở thích. Nhưng hồn tồn khơng



phải vậy, chúng âm mưu bày binh bố trận hòng hại chết con thuyền đối phương. Chúng giàn
ba vòng vây cực hiểm ác. Mỗi vòng vây, chúng mở rất nhiều cửa tử, chỉ duy nhất một cửa
sinh. Cửa sinh lại bố trí lắt léo, lúc bên phải, lúc bên trái, khi ở giữa. Vịng đầu, nó làm ra vẻ
sơ hở để dụ con thuyền đối phương vào sâu rồi sau đó tung ra cú đánh khuýp quật vu hồi. Khi
con thuyền xa vào trận đại, đá thác và sông nước nhất tề sông lên, hợp đồng tác chiến, đánh
hội đồng. Chúng đánh dồn dập, tới tấp với những miếng đòn hiểm độc. Chúng âm mưu đánh
tan tất cả thuyền trưởng và thủy thủ ngay ở chân thác. Qua ngòi bút tài hoa, trí tưởng tượng
phong phú của Ngũn Tn, sơng Đà hiện ngun hình là con qi vật khởng lồ nham hiểm,
xảo quyệt, đủ mưu ma, chước quỷ, đầy dã tâm thâm độc.. Cứ thế, sự dữ dằn, hung bạo, hiểm
ác của sông Đà – kẻ thù số một của con người Tây Bắc cứ nhân lên trùng trùng trong liên
tưởng, tưởng tượng của người đọc. Đọc trang văn mà ta như lạc vào trận địa đủ thiên la địa
võng
Khám phá vẻ đẹp hung bạo của sông Đà, Nguyễn Tuân khơng dừng lại ở việc tạc khắc vào
tâm trí người đọc tính cách bạo dạn, có một khơng hai của con sơng Tây Bắc mà cịn bộc lộ
khát vọng lớn của mình - khát vọng của một cơng dân đầy tâm huyết với công cuộc xây dựng
cuộc sống mới. Khi khám phá sự dữ dằn của sông Đà, Nguyễn Tuân đã liên tưởng tới cái
tuyếc-bin thủy điện to lớn của sơng Đà. Sơng Đà trở thành dịng sơng của ánh sáng, đã dâng
tặng cho đất nước nguồn năng lượng dồi dào, ánh sáng của sông Đà đã đi khắp đất nước làm
giàu cho bao hồn quê.
Cái đẹp vốn tiềm tàng trong đời sống, vũ trụ nhưng phát hiện được cái đẹp và truyền đến
người đọc tình yêu và niềm say mê với cái đẹp lại là chuyện không dễ dàng. Ghi nhớ điều
này, chúng ta thêm trân trọng Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ bằng niềm say mê thiên nhiên và
bằng tay phù thủy ngôn ngữ, đã giúp người đọc chiêm ngưỡng đắm say trước vẻ đẹp của sông
Đà của thiên nhiên Tây Bắc hung bạo mà hùng vĩ. Chính trang văn của Nguyễn Tuân đã bồi
đắp thêm tình yêu quê hương, đất nước cho chúng ta.
3. Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 1
Trong tập tùy bút Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa được nhiều bức tranh thiên nhiên sinh
động, hấp dẫn của vùng núi rừng vừa hùng vĩ, hiểm trở, vừa tuyệt vời thơ mộng ở phía Tây

Bắc của Tở quốc. Dưới ngịi bút của nhà văn, miền đất này hiện lên thật tươi đẹp với những
núi xa, núi gần miên man như trùng vi thạch trận, với những thung lũng vàng một màu lúa
chín, với bao nhiêu loài hoa tỏa hương sắc...Nhưng tiêu biểu nhất, được nhà văn tập trung bút
lực mô tả công phu nhất, phải kể đến hình ảnh con sơng Đà hùng vĩ vừa hung bạo vừa nên
thơ trong tùy bút Người lái đị sơng Đà.
Sơng Đà được nhà văn xây dựng thành một “nhân vật” có mặt suốt từ đầu đến cuối thiên tùy
bút, tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm này. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Ngũn
Tn, sơng Đà khơng cịn là một con sông vô tri, vô giác, mà là một “nhân vật” có cá tính, có
tâm trạng, có hoạt động thật phong phú và phức tạp. Tác giả đã nhận xét khái qt: đây chính
là con sơng Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà
văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.
Cái hung bạo của sông Đà không chỉ ở những con thác, mà còn ở quang cảnh hùng vĩ với vẻ
huyền bí, hoang sơ của dịng sơng chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc. Như một nhà quay
phim lão luyện, vừa cho người xem thấy bao quát khung cảnh sông Đà, thỉnh thoảng tác giả
lại dừng lại, cho khán giả những pha “cận cảnh” thật tiêu biểu về sự hung dữ của con sông
này.
Đấy là những cảnh thật hiếm thấy như cảnh đá bờ sông dựng vách thành, chỉ khi nào đến
giữa trưa, mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới có ánh nắng. Cách so sánh trên tạo được ấn
tượng khá đậm nét về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút khơn cùng. Có chỗ vách đá
thành chẹt lịng sơng Đà như một cái yết hầu. Vì thế, dịng chảy của con sơng bị thu lại rất


hẹp: hẹp đến mức đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách; hẹp đến mức có
qng con nai con hở đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ấn tượng về độ cao và thẳng của
vách đá bờ sơng và dịng chảy nhỏ hẹp càng được tô đậm thêm qua một chi tiết tiêu biểu và
lối liên tưởng bất ngờ, thiên nhiên hoang sơ gần với đời sống hiện đại của con người: Ngồi
trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở
hè một cái ngõ mà... ngóng vọng lên một khung cửa sở nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa
tắt phụt đèn điện. Nhà văn chẳng những sử dụng thị giác, mà còn kết hợp sử dụng các giác
quan khác với những so sánh thật mới mẻ và táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi lên sự hiểm

trở, hùng vĩ, lòng sông hẹp lại gián tiếp gợi được sức chảy ghê gớm, dữ dằn của thác lũ.
Tính chất hung bạo cịn thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông với sự hợp sức của gió, của
sóng và của đá. Dường như chúng phối hợp với nhau một cách chặt chẽ để tăng thêm sức
mạnh uy hiếp, đe dọa con người: quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số, nước xơ đá,
đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng địi nợ xt
bất cứ người lái đị sơng Đà nào tóm được qua đấy. Ở đây, một phần câu vãn như bị chặt đứt
ra thành nhiều khúc ngắn, gọn, diễn đạt bỗng điệp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo nhịp điệu
khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển động của gió to và sóng lớn.
Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp: trên sông bỗng có những cái hút nước
giống như cái giếng bê tơng thả xuống sơng để chuẩn bị làm móng cầu. Vì nước bị hút quá
mạnh nên phát ra những âm thanh được nhân cách hóa như nước thở và kêu như cửa cống cái
bị sặc do nước bên trong và ngoài cống chênh nhau quá nhiều, phát ra tiếng kêu ọc ọc ghê sợ.
Để tô đậm thêm sự nguy hiểm của cái hút nước, nhà văn đã phối hợp giữa “tả” và “kể”, ở
đây, yếu tố tự sự góp phần quan trọng kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Nếu câu văn
nêu trên thiên về tả thì hai câu dưới đây thiên về kể: Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vơ
ý... ở khuỷnh sơng dưới.
Sơng Đà cịn hung bạo ở những thác nước. Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn sàng
chặn đánh, tiêu diệt người lái đò, lái mang, đặc biệt đối với những ai xi dịng, ở những nơi
này, sơng Đà được mơ tả như có cả một bầy thuỷ quái vừa hung hăng, bạo ngược, vừa nham
hiểm, xảo quyệt. Lúc thì thác nước khiêu khích, chế nhạo; khi thì hị la, gầm thét, như tiếng
một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng
lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Thác nước càng được nhân thêm
sức mạnh, sức công phá, nhân thêm mối nguy hiểm đối với nhà đị vì sự góp mặt của hàng
ngàn tảng đá to, nhỏ. Mỗi hòn đá được khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì
mai phục ở nơi đây để bày thạch trận trong lịng sơng.
Mỗi lần thấy một con thuyền nào nhỏ vào đường ngoặt sóng là chúng lập tức nhổm cả dậy để
vồ lấy thuyền. Tác giả đã dựng dậy và thởi sự sống vào cho những hịn đá vơ tri giác, khiến
người đọc hình dung chúng cũng táo tợn, hung bạo như một lũ giặc điên cuồng. Dưới ngịi
bút của người nghệ sĩ ngơn từ, vẻ đẹp man dại, sức mạnh huyền bí của sơng Đà đã hiện ra ở
nhiều góc độ khác nhau. Đấy chính là tiềm năng to lớn của Đà giang khi nó được con người

chinh phục. Đấy là “vàng trắng” quý báu của đất nước chúng ta. Chính vì vậy, Ngũn Tn
nghĩ tới hình ảnh của những tuốc bin thủy điện. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai
trị, vị trí của sơng Đà trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa đất nước.
Tóm lại, bằng một tình u thiên nhiên đất nước thiết tha, bằng tài năng của một nghệ sĩ ngơn
từ đích thực, đến Ngũn Tn, có lẽ lần đầu tiên con sông Đà của Tổ quốc đã bước vào văn
học với vẻ dữ dội, hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng chứa chan thơ mộng, trữ tình của nó. Thì ra,
với tác giả Người lái đị sơng Đà, thiên nhiên cũng chính là một sản phẩm nghệ thuật vơ giá,
thiên nhiên luôn làm cho con người bị hấp dẫn, mê say.
4. Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 2


Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn ưa cảm giác mạnh. Với Nguyễn, đã là đẹp phải
đẹp tuyệt mĩ, đã là dữ dội phải dữ dội đến khác thường, đến tột đỉnh. Ơng khơng thích những
gì tầm thường. Con sông Đà đáp ứng được hai xúc cảm của Ngũn Tn vì con sơng Đà
mang trong mình hai tính cách trái ngược nhưng thống nhất với nhau. Ở phần thượng lưu,
con sông vô cùng hung bạo, dữ dội.
Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong thiên tùy
bút này. Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”
(Ca dao)
Sự hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai đơng
tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, một dịng chảy riêng, khơng khn mình vào lẽ thường. Như đã
nói ở trên, sơng Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, xin nhập quốc tịch Việt Nam. Nó phải trải qua
rất nhiều triền núi đá. Vì vậy, ở phần thượng lưu của sơng Đà có rất nhiều thác dữ, nhiều
luồng chết, nhiều vực xoáy… Từ đó, Ngũn đã tìm thấy những tính cách hung bạo khác
thường của dịng sơng. Nhưng khi xi về phần hạ lưu, lịng sơng như được mở rộng ra, con
thác khơng cịn nữa, dịng nước trơi êm đềm, hiền hịa qua đôi bờ cỏ cây tươi tốt và sông Đà
lại hiện lên vơ cùng lãng mạn, thơ mộng, trữ tình. Ngồi ra, Ngũn nhìn thấy sự hung bạo
của con sơng Đà không chỉ tập trung ở thác dữ, ở luồng chết, ở vực xốy. Ơng cịn nhìn thấy

sự hung bạo ấy ở những qng sơng huyền bí, hoang vu đặt giữa điệp trùng của núi rừng Tây
Bắc.
Cái hùng vĩ, sừng sững của sông Đà được thể hiện ngay ở cảnh đá bờ sông: “đá bờ sông,
dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt
lịng Sơng Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách.
Có qng con nai con hở đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua
quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà
ngóng vọng lên một khung cửa sở nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Cảnh đá bờ sông được miêu tả dựng vách thành, sự so sánh và liên tưởng khá độc đáo khiến
con sông Đà hiện ngay ra trước mắt người đọc như thành quách sừng sững, đứng án ngữ ngay
trước mặt những du khách khi đặt chân đến đây. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn
Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dịng sơng, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng nước
vốn nhanh bây giờ lại xiết hơn nữa. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe
ấy thì tiến khơng được, lùi cũng khơng xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà
thôi.
Nguyễn Tuân cho người đọc cảm nhận bằng trực cảm như chính mình được lái đị qua qng
sơng hẹp với những vách đá dựng đứng hai bên. Cái lạnh rợn người được so sánh như ta đang
đứng giữa mùa hè mà ngột ngạt bởi cái chật hẹp, tối đến bất ngờ và sâu thăm thẳm như đứng
ở dưới một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào
vừa tắt phụt đèn điện. Một câu văn tràn dòng với những liên tưởng của liên tưởng cho thấy sự
tài hoa và uyên thâm trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn.
Cũng như đá bờ sơng, thì“qng mặt ghềnh Hát Lng, dài hàng cây số nước xơ đá, đá xơ
sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất
cứ người lái đò Sơng Đà nào tóm được qua qng ấy”. Bằng kết cấu trùng điệp: nước xơ đá,
đá xơ sóng, sóng xơ gió” tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con sơng hung dữ, sẵn sàng lấy
đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất. Khơng có từ nào trực tiếp tả ghềnh đá nhưng người
đọc hình dung rõ diện mạo con sông. Quãng dài ghềnh đá nổi trên mặt sơng, nước mạnh xơ
ghềnh tạo sóng dữ, sóng cuộn trào sinh ra gió thởi rít lên gùn ghè, gùn ghè quanh năm suốt



tháng. Con sông đến đây đã trở thành một kẻ thù nguy hiểm của con người. Với nghệ thuật
nhân hóa, con sơng như một kẻ thù tính khí thất thường, địi nợ vơ dun cớ khơng bỏ sót
một ai. Ấy mới thấy hết cái hung bạo của sông Đà. Sự kết hợp ngẫu nhiên hay có lựa chọn
giữa tên địa danh với đặc điểm của sông Đà ở quãng sông này? Chỉ biết khi Nguyễn tả luồng
gió gùn ghè nơi mặt ghềnh lại nằm đúng vị trí Hát Lng. Đọc tên địa danh mà phải nén hơi,
uốn lưỡi như chính như chính mình vừa phải đi qua chỗ nước giữ, với sóng, với đá, với ghềnh
thác của sơng Đà.
Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. “Nước ở
đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xốy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ
những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua
cũng trèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một
quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái
giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sơi vào. Có những thuyền đã
bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm
dưới lịng sơng đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Những cái bẫy ghê
sợ, chết người! Vẫn là nghệ thuật so sánh liên tưởng độc đáo kèm theo biện pháp nhân hóa
nước biết thở và kêu nghe đã đủ cho người đọc rùng mình nhưng Ngũn Tn khơng dừng
lại ở đó mà tiếp tục thử độ lì trong giác quan của người đọc khi so sánh và liên tưởng với cái
cửa cống cái bị sặc nước. Khi dịng chảy siết, nó thở và kêu, nhưng kêu như thế nào thì nhà
văn lại tiếp tục tả những cái hút nước ở độ sâu: cái hút xốy tít đáy, như cái giếng sâu cho
thấy độ mạnh của dòng nước; với bề rộng: quay lừ lừ như những cánh quạ đàn; rồi âm thanh:
những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sơi vào, cuối cùng là độ nguy hiểm: Có
những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi,
bị dìm và đi ngầm dưới lịng sơng đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sơng dưới.
Hình ảnh sơng Đà qua ngịi bút của Ngũn, có lẽ khơng chỉ làm những người lái đị qua đây
cảm thấy rùng rợn mà chính người đọc cũng như vừa tự mình chèo thuyền qua quãng sông
này mà thử cảm giác. Thế nên khi chèo thuyền men qua những vực nước sông Đà cần phải
chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng
đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Cảm giác lạnh người và rợn tóc gáy vì câu văn tác động
mạnh mẽ vào trực cảm của người đọc.

Cho cảm giác thật đến từng mi-li-mét nhà văn sử dụng trường liên tưởng trùng điệp. Khi
nhập vào vai một anh thợ quay phim táo tợn muốn truyền cho người đọc cảm giác lạ đã dũng
cảm ngồi vào một chiếc thuyền thúng rồi thả mình và thuyền văng xuống cái hút nước sơng
Đà. Nhìn từ đáy cái hút nước ấy nhìn lên vách thành hút chênh nhau đến vài sải tay. Người
xoay theo thuyền cả thuyền, người, máy ảnh quay tít. Nhìn lên nước sông Đà trong cái hút ấy
làm bằng một màu xanh ngọc bích của một khối pha lê đúc dày như sắp vỡ tan ụp vào cả
người quay lẫn người xem, khiến ai cũng như đang khiếp hãi để ngồi ghì lấy cái mép lá rừng
vừa bị cho vào cái cốc pha lê mà quay tít như vừa rút ra cái gậy đánh phèn. Liên tưởng của
liên tưởng để người đọc có thể cảm nhận rõ nhất. Phải có sự am hiểu về kiến thức trong lĩnh
vực điện ảnh thì Nguyễn mới có thể viết được những câu văn như thế. Câu chữ như đang nở
hoa trên dịng sơng Đà và trên trang văn của Nguyễn.
Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như
là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những
liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm
tận độ. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có
sức hủy diệt rất lớn lại ln tương khắc với nhau, có nước thì khơng có lửa, ngược lại, có lửa
thì khơng có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó như một nghệ sĩ bậc thầy!


Trước mắt người đọc là cả một rừng vầu, tre nứa hàng ngàn cây đang bị đốt cháy và phát ra
tiếng nổ nhưng chưa hết, trong khu rừng vầu, rừng tre đang cháy ấy lại được thả vào đó hàng
ngàn con trâu mộng to khỏe, nên khi da của chúng bị đốt cháy và nóng thì chúng sẽ lồng lộn
mà phá tan rồi tìm đường thốt thân. Khi chạy, nó va đập mạnh vào những cây tre, cây nứa
tạo nên những tiếng nở lớn, liên hồn như âm thanh vang la não bạt, kinh thiên động địa.
Hình ảnh của Nguyễn tác động mạnh mẽ lên hệ thần kinh người đọc để mang đến cảm giác
chân thực và sống động nhất. Con sông ấy như một kẻ lắm mưu, nhiều kế để khiêu khích
người lái đị. Nó biết: ốn trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Bộ mặt và tâm
địa của một người xấu xa, lắm mưu, nhiều kế – kẻ thù số một của con người.

Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá.
Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sơng. Mặt hịn đá nào trơng cũng ngỗ
ngược, hịn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sơng Đà đã giao
việc cho mỗi hịn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm. Khi miêu tả thạch trận
đá tác giả đã vận dụng rất nhiều kiến thức trong lĩnh vực quân sự, thể thao để làm rõ đối
tượng miêu tả.
Trùng vi thứ nhất: Sơng Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm
lập lờ phía tả ngạn sơng. Hàng tiền vệ, có hai hịn canh một cửa đá trơng như là sơ hở, thực
chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước
đóng vai trị chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn cơng chiếc thuyền
tới tấp: “Mặt nước hị la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh
tay mình. Sóng nước như thể qn liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và
hơng thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng
ơng đị địi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đã đánh đến
miếng địn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vơ sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái
đị”. Trận chiến đầu, sóng nước là tuệ binh mà con sơng tung ra để thử thách người lái đị.
Nhưng bằng sự mưu trí, dũng cảm, ơng lái đã vượt qua dễ dàng.
Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vi thứ hai: “Tăng thêm
nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn.
Dịng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sơng đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”.
Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ơng lái đị. Khi chiếc thuyền
đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn khơng ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng
đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Bọn đá, sóng nước dở những
món địn hiểm độc và tinh vi nhất!
Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở
chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và
pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu
bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút,
vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía khung thành và cuối

cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa”.
Con Sơng Đà như một lồi thủy qi, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận
hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm
địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy
với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đị Sơng Đà”. Chẳng thế
mà sơng Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sơng hãy
cịn dài – Năm năm báo ốn đời đời đánh ghen.
Viết về Đà giang, ngòi bút của Ngũn Tn vơ cùng phóng túng, thoải mái bởi “Người Lái
Đị Sơng Đà” được viết bằng thể loại tùy bút. Ông chẳng khác nào một nhà quay phim lão


luyện. Có khi ống kính của nhà văn tiếp cận con sơng Đà từ phía viễn cảnh. Có đơi lúc, ống
kính của nhà văn lia vào để quay cận cảnh từng quãng sông hẹp, cắt từng đoạn sông để mô tả
cái sự hung bạo của những đoạn sơng với hình ảnh “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông
chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” Thậm chí có những đoạn “vách đá thành chẹt lịng
Sơng Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hịn đá qua bên kia vách. Có
qng con nai con hở đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.”
Viết về con sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất ngắn, huy động chủ yếu
kiến thức võ thuật và quân sự để miêu tả sự vận động của dịng nước. Ơng cũng cảm nhận
con sơng bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng tượng của độc giả.
Ở đây, ta thấy xuất hiện những câu văn rất ngắn gồm toàn thanh trắc với hơn 300 động từ
mạnh cùng kết cấu điệp trùng miêu tả sự khẩn trương, gấp gáp của nước, của đá, của sóng và
của gió. Thể hiện rõ nhất đó là đoạn mặt ghềnh Hát Lng: “dài hàng cây số nước xơ đá, đá
xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xt
bất cứ người lái đị Sơng Đà nào tóm được qua đấy.” Ta còn thấy Nguyễn Tuân tập trung vào
miêu tả sự hung bạo của Đà giang ở những hút nước với cách liên tưởng vơ cùng táo bạo. Đó
là đoạn Tà Mường Vát ở phía dưới sơng La: “Có những con thuyền đã bị cái hút nó hút
xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lịng sơng
đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.” Thêm vào đó, Ngũn Tn cịn
nhìn thấy sự hung bạo ở mùa lụt của con sông Đà. Mùa lụt của sông Đà vẫn cịn cái ngấn

nước ở cởng châu Quỳnh Nhai. Ngày lụt sơng Đà, xác hươu, xác nai bằng gỗ Chị Vảy, Chị
Hoa trơi lềnh bềnh trên mặt sơng. Ngũn Tn ví lúc này dịng sơng Đà chẳng khác nào “kẻ
thù số một” của người dân Tây Bắc. Khi hung bạo thì cực kì nguy hiểm, tâm địa độc ác đến
tột cùng.
Con sông Đà hung bạo đâu bởi thiên nhiên gây ra với: thác dữ, những luồng chết, vực xoáy
mà Nguyễn Tn cịn thấy đó là do con người. Đó chính là bọn thổ ti lang tạo đã đắp bến chia
ngăn dịng sơng Đà, khiến con sơng trở nên trái tính, trở thành kẻ thù của người dân Tây Bắc.
Đó cịn là bọn thực dân Pháp đóng đồn bốt ở hai bên bờ sông khiến Đà giang trở nên càng
hung bạo. Rõ ràng, con sông Đà mang cốt cách của người dân Tây Bắc. Nhìn rộng ra, ta thấy
những con sơng hầu như đều mang nét đẹp văn hóa vùng miền nơi nó đi qua.
Nếu “sơng Hương” của Hồng Phủ Ngọc Tường mang vẻ đẹp trầm mặc của cố đô và người
dân Huế thì con sơng Đà lại là biểu tượng, lại mang cái văn hóa của người dân Tây Bắc. Như
vậy, có thể khẳng định Đà giang qua ngịi bút của Nguyễn Tuân hiện lên dữ dội đến khác
thường, tột đỉnh, thể hiện rất rõ phong cách rất riêng của Nguyễn Tuân –một phong cách rất
“ngông”.
5. Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 3
Trong tập tùy bút Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa được nhiều bức tranh thiên nhiên sinh
động, hấp dẫn của vùng núi rừng vừa hùng vĩ, hiểm trở, vừa tuyệt vời thơ mộng ở phía Tây
Bắc của Tở quốc. Dưới ngịi bút của nhà văn, miền đất này hiện lên thật tươi đẹp với những
núi xa, núi gần miên man như trùng vi thạch trận, với những thung lũng vàng một màu lúa
chín, với bao nhiêu loài hoa tỏa hương sắc. Nhưng tiêu biểu nhất, được nhà văn tập trung bút
lực mô tả công phu nhất, phải kể đến hình ảnh con sơng Đà hùng vĩ vừa hung bạo vừa nên
thơ trong tùy bút Người lái đị sơng Đà.
Sơng Đà được nhà văn xây dựng thành một “nhân vật” có mặt suốt từ đầu đến cuối thiên tùy
bút, tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm này. Dưới ngòi bút tài hoa và un bác của Ngũn
Tn, sơng Đà khơng cịn là một con sông vô tri, vô giác, mà là một “nhân vật” có cá tính, có
tâm trạng, có hoạt động thật phong phú và phức tạp. Tác giả đã nhận xét khái qt: đây chính
là con sơng Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà
văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.



Cái hung bạo của sông Đà không chỉ ở những con thác, mà còn ở quang cảnh hùng vĩ với vẻ
huyền bí, hoang sơ của dịng sơng chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc. Như một nhà quay
phim lão luyện, vừa cho người xem thấy bao quát khung cảnh sông Đà, thỉnh thoảng tác giả
lại dừng lại, cho khán giả những pha “cận cảnh” thật tiêu biểu về sự hung dữ của con sông
này.
Đấy là những cảnh thật hiếm thấy như cảnh đá bờ sông dựng vách thành, chỉ khi nào đến
giữa trưa, mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới có ánh nắng. Cách so sánh trên tạo được ấn
tượng khá dậm nét về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút khơn cùng. Có chỗ vách đá
thành chẹt lịng sơng Đà như một cái yết hầu. Vì thế, dịng chảy của con sơng bị thu lại rất
hẹp: hẹp đến mức đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách; hẹp đến mức có
qng con nai con hở đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ấn tượng về độ cao và thẳng của
vách đá bờ sơng và dịng chảy nhỏ hẹp càng được tô đậm thêm qua một chi tiết tiêu biểu và
lối liên tưởng bất ngờ, thiên nhiên hoang sơ gần với đời sống hiện đại của con người: Ngồi
trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở
hè một cái ngõ mà... ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa
tắt phụt đèn điện. Nhà văn chẳng những sử dụng thị giác, mà còn kết hợp sử dụng các giác
quan khác với những so sánh thật mới mẻ và táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi lên sự hiểm
trở, hùng vĩ, lịng sơng hẹp lại gián tiếp gợi được sức chảy ghê gớm, dữ dằn của thác lũ.
Tính chất hung bạo cịn thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sơng với sự hợp sức của gió, của
sóng và của đá. Dường như chúng phối hợp với nhau một cách chặt chẽ để tăng thêm sức
mạnh uy hiếp, đe dọa con người: quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số, nước xơ đá,
đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng địi nợ xt
bất cứ người lái đị sơng Đà nào tóm được qua đấy. Ở đây, một phần câu vãn như bị chặt đứt
ra thành nhiều khúc ngắn, gọn, diễn đạt bỗng điệp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo nhịp điệu
khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển động của gió to và sóng lớn.
Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp: trên sông bỗng có những cái hút nước
giống như cái giếng bê tơng thả xuống sơng để chuẩn bị làm móng cầu. Vì nước bị hút quá
mạnh nên phát ra những âm thanh được nhân cách hóa như nước thở và kêu như cửa cống cái
bị sặc do nước bên trong và ngoài cống chênh nhau quá nhiều, phát ra tiếng kêu ọc ọc ghê sợ.

Để tô đậm thêm sự nguy hiểm của cái hút nước, nhà văn đã phối hợp giữa “tả” và “kể”, ở
đây, yếu tố tự sự góp phần quan trọng kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Nếu câu văn
nêu trên thiên về tả thì hai câu dưới đây thiên về kể: Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vơ
ý... ở khuỷnh sơng dưới.
Sơng Đà cịn hung bạo ở những thác nước. Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn sàng
chặn đánh, tiêu diệt người lái đị, lái mang, đặc biệt đối với những ai xi dịng, ở những nơi
này, sơng Đà được mơ tả như có cả một bầy thuỷ quái vừa hung hăng, bạo ngược, vừa nham
hiểm, xảo quyệt. Lúc thì thác nước khiêu khích, chế nhạo; khi thì hị la, gầm thét, như tiếng
một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng
lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Thác nước càng được nhân thêm
sức mạnh, sức công phá, nhân thêm mối nguy hiểm đối với nhà đò vì sự góp mặt của hàng
ngàn tảng đá to, nhỏ. Mỗi hòn đá được khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì
mai phục ở nơi đây để bày thạch trận trong lịng sơng.
Mỗi lần thấy một con thuyền nào nhỏ vào đường ngoặt sóng là chúng lập tức nhổm cả dậy để
vồ lấy thuyền. Tác giả đã dựng dậy và thổi sự sống vào cho những hịn đá vơ tri giác, khiến
người đọc hình dung chúng cũng táo tợn, hung bạo như một lũ giặc điên cuồng. Dưới ngịi
bút của người nghệ sĩ ngơn từ, vẻ đẹp man dại, sức mạnh huyền bí của sơng Đà đã hiện ra ở
nhiều góc độ khác nhau. Đấy chính là tiềm năng to lớn của Đà giang khi nó được con người
chinh phục. Đấy là “vàng trắng” quý báu của đất nước chúng ta. Chính vì vậy, Ngũn Tn


nghĩ tới hình ảnh của những tuốc bin thủy điện. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai
trị, vị trí của sơng Đà trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa đất nước.
Tóm lại, bằng một tình u thiên nhiên đất nước thiết tha, bằng tài năng của một nghệ sĩ ngơn
từ đích thực, đến Ngũn Tn, có lẽ lần đầu tiên con sông Đà của Tổ quốc đã bước vào văn
học với vẻ dữ dội, hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng chứa chan thơ mộng, trữ tình của nó. Thì ra,
với tác giả Người lái đị sơng Đà, thiên nhiên cũng chính là một sản phẩm nghệ thuật vô giá,
thiên nhiên luôn làm cho con người bị hấp dẫn, mê say.
6. Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 4
Trong lịch sử nhân loại, mỗi dịng sơng lớn đều bồi đắp nên một nền văn minh. Trong địa hạt

văn học Việt Nam, mỗi dịng sơng đều gắn với một phong cách nghệ thuật. Ta đã được chiêm
ngưỡng một dịng sơng mênh mơng, hoang vắng, buồn man mác, thấm đẫm nỗi nhớ nhà
trong “Tràng giang” của Huy Cận; hay một khung cảnh đìu hiu, cách biệt của thiên nhiên
sông nước Kinh Bắc trong “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm. Nếu những bài thơ trên
chỉ là điều kiện, là khách thể để các nhà thơ bày tỏ lòng mình thì đến với Người lái đị sơng
Đà, người đọc mới cảm nhận được rõ nét về một tác phẩm viết về một dịng sơng thực sự.
Dưới ngịi bút tài hoa của Ngũn Tn, hình ảnh dịng sơng “độc bắc lưu” hiện lên với
những vẻ đẹp độc đáo. Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ ấy, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật
lên vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong những người lao động bình thường mà ơng ln gọi là “chất
vàng mười đã qua thử lửa” bấy lâu mình vẫn khao khát, kiếm tìm.
“Người lái đị sơng Đà” được sáng tác vào năm 1958 và được in vào tập “Sông Đà” năm
1960. Trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn không chỉ
thỏa mãn khát khao xê dịch mà chủ yếu là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và thứ
vàng mười đã qua thử lửa nơi tâm hồn con người
Mở đầu bài là lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Khẳng định nét
độc đáo của dịng sơng Đà: Mọi con sơng đều chảy về hướng Đơng, chỉ có sơng Đà chảy theo
hướng Bắc khẳng định cá tính độc đáo của Nguyễn Tuân trong dịng sơng văn chương: Một
nhà văn có ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân, về bản ngã, về cá tính riêng trong sáng tạo nghệ
thuật.
Ngũn Tn khơng khỏi làm ta ngỡ ngàng trước sự hùng vĩ, dữ dội của con Sông Đà. Cảnh
đá bờ sông dựng vách thành. Những vách đá cao vút, dựng đứng “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc
đúng ngọ mới có mặt trời”. Lịng sơng nhỏ hẹp, lưu tốc dịng chảy lớn “Có vách đá thành
chẹt lịng Sơng Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia
vách. Có qng con nai con hở đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. “Ngồi trong khoang đò
qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái
ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sở nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn
điện”. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm, bí ẩn của
dịng sơng. Một nơi lịng sơng nhỏ hẹp, lưu tốc dịng chảy lớn với những vách đá cao vút,
vững chãi giờ đây đang trở nên nguy hiểm vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà
kẹt vào cái khe ấy thì tiến khơng được, lùi cũng khơng xong, chỉ chờ sóng nước và đá đập

cho tan xác mà thôi.
Quần thể thiên nhiên: nước, sóng, gió và đá sơng Đà “Lại như qng mặt ghềnh Hát Lng
dài hàng cây số nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
năm…”. Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió” như mơ phỏng
hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang, vút lên cao theo
chiều dọc rồi đổ ập xuống, cuồn cuộn ghê rợn trên mặt ghềnh.
Từ trên nhìn xuống mặt sơng: những cái hút nước “như những cái giếng bê tông thả xuống
sông để chuẩn bị làm móng cầu”, “những cái hút xốy tít đáy”. Từ dưới lịng sơng nhìn


ngược lên: “thành giếng xây bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối
pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào”.
Những âm thanh ghê rợn “Nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “những cái giếng sâu
nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào” khủng bố tinh thần con người: “thở và kêu như cửa
cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sơi vào”, sẵn sàng nhấn chìm bất kì con
thuyền nào khơng kịp chèo nhanh hay tay lái khơng vững, hoặc bất kì bè gỗ nào vô ý khi đi
qua chúng. “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng trèo
nhanh để lướt quãng sông”, “chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu”,
“nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lơi tuột xuống”, “có
những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi,
bị dìm và đi ngầm dưới lịng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
Ám ảnh, đe dọa con người, những âm thanh man rợ của sông Đà gợi liên tưởng đến một lồi
động vật hung dữ, đang cuồng loạn tìm lối thoát thân. Hùng vĩ, choáng ngợp bởi một chân
trời đá với những bọt nước trắng xóa mờ đi trên mặt sóng“. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sơng
lượn, sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”.
Tác giả đã dùng kiến thức về quân sự, võ thuật, thể thao, thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, thậm
xưng để làm nởi bật cái nham hiểm, xảo quyệt của sông Đà. Dưới ngịi bút của Ngũn Tn,
con sơng Đà hung bạo, tàn ác khơng khác gì “kẻ thù số một” của con người. Chẳng thế mà
sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh: “Núi cao sông hãy cịn
dài/ Năm năm báo ốn đời đời đánh ghen”.

7. Cảm nhận vẻ hung bạo của con sông Đà
Nguyễn Tuân – “Định nghĩa đầy đủ nhất về một người nghệ sĩ”. Khát khao cống hiến cho
nghệ thuật, khát khao đi tìm và thể hiện những cảm giác mạnh mẽ dữ dội, cộng với chất nghệ
sĩ phóng túng, tự do đã thúc đẩy Nguyễn Tuân tìm đến tận cùng của cái đẹp. Những dịng văn
của ơng ln mang đến cho người đọc cảm giác được khám phá những hình tượng đặc biệt.
Đến với “Người lái đị sơng Đà”, bằng “nghệ thuật bậc thầy của ngơn từ”, ơng đã sáng tạo
nên hình tượng con sông Đà - một trong những kiệt tác của nghệ thuật văn xi. Hình tượng
đặc sắc này đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Tiếp xúc với văn chương của Nguyễn Tuân, ta bắt gặp ẩn tàng trong những trang văn là “cảm
xúc mạnh, là hơi thở nồng” (Nguyễn Đăng Mạnh) của cái tôi trữ tình nghệ sĩ mang khát vọng
cuồng nhiệt, muốn biến những trang văn thành những trang hoa lộng lẫy, yêu kiều, vừa mê
hoặc, vừa thách đố người đọc. Được biết tới trong nền văn học Việt Nam với hình ảnh của
một người nghệ sĩ ngông nghênh, kiêu bạc, dùng cả cuộc đời của mình để theo đ̉i chủ
nghĩa xê dịch, đi một lối đi riêng biệt trong văn chương, Nguyễn Tuân in dấu đậm nét bản
ngã của mình trong từng tác phẩm, từng hình tượng. Sơng Đà là một hình tượng điển hình
như vậy. Tuỳ bút “Người lái đị Sơng Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm
15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc
sau kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với
nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây
dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo và cho ra
đời thiên tùy bút để lại ấn tượng với đọc giả.
Việc xây dựng hình tượng trong những trang viết của mình đối với mỗi tác giả là việc đặc
biệt quan trọng. “Một mình đi một lối”, Nguyễn Tuân thể hiện cái ngông nghênh kiêu bạc của
mình khi vẽ ra rất nhiều hình tượng đặc biệt. Một Huấn Cao tung hoành ngang dọc với giấc
mơ lớn giữa một thời đại mục ruỗng, chịu cảnh tù đày nhưng vẫn trong tư thế khoan thai,
đậm tô từng nét chữ rất vuông, rất đẹp trong “Chữ người tử tù”. Một Bát Lê được nhìn ở góc
độ tuyệt kỹ trong nghề nghiệp đao phủ của mình với “Bữa rượu máu” hay một người “ăn



mày” cổ quái với tài uống trà trong “Những chiếc ấm” cũng đạt tới độ tuyệt mỹ khi lão có
riêng một bộ ấm chén uống trà vẫn cất trong bị ăn mày. Vào nhà phú hộ ăn mày, lão không
xin cơm, xin gạo, chỉ xin “được uống nguyên một ấm trà mới”. Vừa đưa chén trà lên miệng,
lão đã kịp phát hiện trà của phú hộ có lẫn mùi trấu, nên uống vào khơng thấy “khối hoạt”.
Vậy mới thấy, những hình tượng được xây dựng trong các tác phẩm của Ngũn Tn đều
bao chứa những tính cách đặc biệt. Sơng Đà cũng là một hình tượng như vậy. Trải suốt từ
trang đầu đến trang cuối tác phẩm là hình ảnh dịng sơng Đà được chụp lại ở nhiều chiều,
nhiều góc độ khác nhau, cụ thể mang trong mình hai tính cách đặc biệt đó là hung bạo và trữ
tình. Qua việc tìm hiểu dịng sơng, người đọc được hiểu thêm về một con người, một nghệ sĩ
“suốt đời đi tìm cái thật và cái đẹp” - nhà văn Nguyễn Tuân, bởi vì hình tượng con sơng vĩ
đại của vùng đất Tây Bắc xa xôi là sự thể hiện khá đầy đủ phong cách hay cái nhìn cuộc sơng
của nhà văn, ở đó, bạn đọc đã thấy một con người ưa sự độc đáo trong sự tài hoa - uyên bác;
một cá tính mạnh mẽ ln săn tìm những gì dữ dội. mãnh liệt; một thầy phù thủy ngơn từ,
hình ảnh...
Viết về sông Đà trong những năm tháng cách mạng đã thành công, người nghệ sĩ này cởi mở
hơn với cuộc đời và đó cũng là thời điểm Nguyễn Tuân xoay ngịi bút của mình hướng về
những vẻ đẹp đời thực. Hay nói cách khác là cách người nghệ sĩ này đang đi tìm chất vàng
mười trong chính vẻ đẹp đất nước và tâm hồn nhân dân Việt Nam. Dịng sơng Đà trong tác
phẩm của Nguyễn Tuân bên cạnh vẻ dữ dội, hung bạo như “kẻ thù số một” của con người,
cũng có lúc hiện lên rất bay bởng mơ màng, có nét trữ tình của một con người nồng nàn xúc
cảm. Bằng cảm hứng ngợi ca, tự hào, hình tượng sơng Đà được nhấn mạnh bởi đặc điểm
riêng có: “Chúng thủy giai đơng tẩu/ Đà giang độc bắc lưu” có nghĩa là mọi dịng sơng đều
đở theo hướng Đơng, duy chỉ có sơng Đà chảy theo hướng Bắc. Sự độc đáo của hình tượng
này rất giống với bản ngã của Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ đã từng tuyên bố và thể hiện rất
chính xác, chân thực tun bố đó: “Lòng kiêu hãnh đã xui khiến ta chỉ chơi một lối độc tấu
trong văn chương.”
Tình u cuộc sống, lịng ham hiểu biết về con sông, cây cầu của non sông đất nước cũng
như ý thích đi lại hoạt động…đã tạo cho mỗi trang viết của Nguyễn Tuân ngồn ngộn kiến
thức, thể hiện một sự hiểu biết tường tận từng chi tiết được nói tới trong văn mình. Dịng
sơng Đà có thể được tái hiện rất trữ tình, thơ mộng nhưng cũng có lúc khúc Đà giang vĩ đại

hiện lên chính xác trong từng con số. Nguyễn Tuân thoắt trở thành nhà địa lý khi đưa ta về
với thượng nguồn sông Đà ở Cảnh Đơng tỉnh Vân Nam sau đó chan hịa vào sơng Hồng, chảy
trên đất Việt 500 cây số trong tởng chiều dài 883 nghìn thước mét, khi kể ra rất chính xác, cụ
thể về “những cái thác, những cái ga nước trên sông Đà từ Vạn Yên về xuôi”. Sông Đà hiện
lên trong những trang văn của Nguyễn Tuân trước hết là ở vẻ đẹp hung bạo. Cảnh đá bờ sơng
dựng vách thành khiến người đọc có những liên tưởng thú vị, cũng để họ có thể hình dung ra
được hành trình thuyền trơi trên sơng Đà đáng sợ đến nhường nào. Đá ở đây “dựng vách
thành”, “chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt trời”. Lịng sơng hẹp có qng con nai, con hở có thể
nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia. Đá còn chẹt lịng sơng như một cái yết hầu. Có thể
thấy, sự nguy hiểm của đá bờ sông tạo lũy thành đã khiến người đọc liên tưởng ra cảm giác
lạnh lẽo, lo sợ. Đó cũng là lý do Nguyễn Tuân viết rằng: “Ngồi trong khoang đò qua quãng
ấy đang mùa hè mà cũng thấy lạnh” rồi bất ngờ đưa ra một liên tưởng thú vị: “cảm thấy mình
như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sở nào trên cái tầng nhà thứ
mây nào vừa tắt phụt đèn điện”. Còn phép so sánh nào độc đáo và hiệu quả hơn thế! Cảm
giác đem đến cho người đọc rất bất ngờ. Họ hồi hộp, nín thở khi đi ngang qua những quãng
sông hẹp như vậy. Nếu không khéo léo chèo lái, con thuyền rất có thể sẽ bị kẹt lại ngay.
Sự hung bạo của dịng sơng Đà cịn được thể hiện qua quãng mặt ghềnh Hát Loóng “dài hàng
ngàn cây số, nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như
lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đị sơng Đà nào tóm được ngang qua đấy.” Sơng Đà


bấy giờ mang dáng vẻ của một loài thủy quái, hợp lực bởi sóng, gió, đá xơ nhau tạo ra một
mặt ghềnh hò la mang dội, cốt là để đe dọa con thuyền nào tới đây. Sự dữ dằn của dịng sơng
Đà được đặc tả với một câu văn dài, sử dụng biện pháp tu từ so sánh giúp người đọc dễ dàng
trong việc hình dung, liên tưởng hơn. Dùng những hình ảnh cụ thể, gần gũi để nói về những
hình ảnh khó tưởng tượng, làm được điều này, khơng ai khác ngồi “thầy phù thủy ngơn từ”
Ngũn Tn.
Chưa dừng lại ở đó, những cái hút nước trên sơng Đà và thác nước ở đây cũng là nỗi đe dọa
thường trực với bất cứ con thuyền nào đi ngang qua. Hình ảnh này khiến người đọc có những
cảm giác rất chân thực về sự hung bạo của dịng sơng này. Những cái hút nước ở quãng Tà

Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. "Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái
bị sặc. Trên mặt cái hút xốy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không
thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt
quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra
ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng
sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sơi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống,
thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lịng sơng đến
mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Thật là những cái bẫy ghê sợ, chết
người! Từ hình ảnh đến âm thanh, tất cả đều khiến người đọc dễ dàng hình dung ra một lồi
thủy qi với tâm địa độc ác. Nguyễn Tuân sử dụng nhiều từ ngữ đặc tả, sử dụng hình ảnh so
sánh thú vị để thể hiện cảm giác mà chính bản thân mình trải nghiệm sau những lần thực tế
trôi thuyền trên sông Đà. Chưa dừng lại ở đó, để người đọc có thể trực tiếp trải nghiệm cảm
giác đáng sợ của những cái hút nước chết người, Nguyễn đưa ra một hình ảnh so sánh liên
tưởng táo bạo. Cho một anh quay phim táo tợn ngồi vào chiếc thuyền thúng mang theo máy
quay của mình để lao vào cái hút nước. Sau đó lia máy quay lên để thu hình cột nước cao vài
sải. Đọc những dòng văn của người nghệ sĩ này, người đọc đang trong bất cứ tư thế nào cũng
thường tìm tới một điểm để bấu víu. Họ sợ độ rung, độ xốy tít, âm thanh dữ tợn mà những
cái hút nước tạo ra.
Sự hung bạo của dịng sơng này chưa dừng lại. Tiếng thác réo được Nguyễn Tuân đặc tả nghe
càng ghê sợ hơn! “Như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng
gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng
vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da
cháy bùng bùng”. Âm thanh có hồn, giống như cách mà Nguyễn Tn thởi hồn cho dịng
sơng. Biến sơng Đà thành một sinh thể có linh hồn, có sự sống, có tính cách. Bằng nghệ thuật
so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh
tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng
lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại ln tương khắc với nhau, có
nước thì khơng có lửa, ngược lại, có lửa thì khơng có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm
được điều đó. Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy!
Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá.

Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lịng sơng. Mặt hịn đá nào trơng cũng ngỗ
ngược, hịn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sơng Đà đã giao
việc cho mỗi hịn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm.
Ở trùng vi thứ nhất, sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm
lập lờ phía tả ngạn sơng. Hàng tiền vệ, có hai hịn canh một cửa đá trơng như là sơ hở, thực
chất chúng đóng vai trị dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước
đóng vai trị chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn cơng chiếc thuyền
tới tấp: "Mặt nước hị la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh
tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và
hơng thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng


ơng đị địi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến
miếng địn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vơ sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái
đị”.
Vượt qua trùng vi thứ nhất, ơng lái đị phải đương đầu với trùng vi thứ hai: "Tăng thêm nhiều
cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dịng
thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền". Tại trận
chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đị. Khi chiếc thuyền đã vượt
qua, bọn sóng nước cửa tử "vẫn khơng ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng
chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!
Đến trùng vi thứ ba, có vẻ ít cửa hơn nhưng lại nguy hiểm hơn, bên phải bên trái đều là luồng
chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây
những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta
liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng,
chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên
tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía
khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với
"tay lái ra hoa".
Những dịng văn của Ngũn Tn đã giúp ta hình dung ra được sự hung bạo của con Sơng

Đà. Nó giống như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận
hòng tiêu diệt thuyền bè trên dịng nước của nó, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với "diện mạo
và tâm địa một thứ kẻ thù số một". Con sông mà "hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình
làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đị Sơng Đà".
Chẳng thế mà sơng Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao
sơng hãy cịn dài – Năm năm báo ốn đời đời đánh ghen”.
Một Sông Đà, một Nguyễn Tuân - một thiên nhiên dữ dội, một người nghệ sĩ tài hoa. Tùy bút
của Nguyễn Tuân chân thực mà hấp dẫn là vậy. Đọc từng dịng văn, ta như được tự mình trải
nghiệm trong không gian Tây Bắc, được gặp và chiêm ngưỡng cái tài hoa của những con
người nơi đây. “Người lái đị Sơng Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất
nước thiết tha, say đắm của một người nghệ sĩ muốn dùng văn chương để khắc họa vẻ đẹp kì
vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng. Sự đầu tư nghiêm túc, công phu và tâm huyết cho nghệ
thuật của Nguyễn Tuân thật khiến ta khâm phục. Phải chăng đó chính là cái độc đáo tài hoa
của Nguyễn Tuân - cái điều mà ông vẫn quan niệm “đã viết văn thì phải viết cho hay, cho
đúng cái tạng riêng của mình. Văn chương cần sự độc đáo hơn bất kì một lĩnh vực nào
khác....”.



×