Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

ĐỜI SỐNG, SINH HOẠT VÀ TÍNH CÁCH CƯ DÂN VÙNG TÂY NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.97 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MƠN LỊCH SỬ- ĐỊA LÍ VÀ DU LỊCH

BÀI BÁO CÁO

ĐỜI SỐNG – SINH HOẠT VÀ TÍNH CÁCH NGƯỜI VIỆT
VÙNG TÂY NAM BỘ

Tên học phần: Kỹ năng thuyết trình Du lịch – XH558
Cố vấn: Ts. Trương Thị Kim Thủy
Lớp: Việt Nam Học_18W8A1
Thực hiện: Nhóm 3
Hình thức báo cáo: Thuyết trình

CẦN THƠ - THÁNG 11 NĂM 2020


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3
STT Họ và Tên

Mã số sinh viên

1

Lâm Trương Anh Thư

B1811064

2



Nguyễn Thị Huyền Trân

B1811077

3

Nguyễn Vũ Duy

B1810989

4

Trần Thị Thu Ngân

B1811026

5

Nguyễn Thị Cẩm Nhung

B1800184


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .......................................................................................... 1
A. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT TÂY NAM BỘ .......................................... 2
B. ĐỜI SỐNG - SINH HOẠT CỦA NGƯỜI VIỆT VÙNG TÂY NAM BỘ ........ 2
I. Đời sống sinh hoạt thường nhật ................................................................................2
1. Ăn uống.................................................................................................................2

2.Mặc ........................................................................................................................3
3. Nhà ở .....................................................................................................................4
II. Đời sống sinh hoạt tâm linh – tín ngưỡn .................................................................5
2.1. Tín ngưỡng thờ trời............................................................................................5
2.2. Tín ngưỡng thờ ơng bà: .....................................................................................7
2.3. Tín ngưỡng thờ Ơng Địa (Thổ Địa) ...................................................................9
2.4. Tín ngưỡng thờ động vật .................................................................................10
2.4.1 Thờ Hổ........................................................................................................10
2.4.2 Thờ cúng Cá Ơng .......................................................................................13
III. Đời sống sinh hoạt văn hóa - văn nghệ ................................................................13
C. TÍNH CÁCH NGƯỜI VIỆT VÙNG TÂY NAM BỘ................................. 16
I. Tính Mở thống ......................................................................................................16
1.1 Cơ sở hình thành ...............................................................................................16
1.2 Những biểu hiện................................................................................................16
II. Tính Sơng nước .....................................................................................................18
2.1 Cơ sở hình thành ..............................................................................................18
2.2. Những biểu hiện...............................................................................................18
III. Tính Trọng nghĩa..................................................................................................20
3.1. Cơ sở hình thành ..............................................................................................20
3.2. Những biểu hiện...............................................................................................20
D. KẾT LUẬN ........................................................................................ 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 22


LỜI NÓI ĐẦU
“Đất phương Nam - Vùng đất nặng phù sa từ chín nhánh sơng Cửu Long bồi đắp nên
một vùng đồng bằng xanh tươi trù phú. Đất phương Nam - Nơi thấm đẫm huyền thoại
300 năm khẩn hoang mở đất, nơi sản sinh ra những vị anh hùng đánh giặc giữ nước khí
phách hiên ngang cùng những người dân hồn hậu chất phát trọng nghĩa khinh tài làm
nên một truyền thống văn hóa văn minh sơng nước mang đậm hương sắc đất và người

phương Nam”.
Thích ăn mắm, nghe Đờn Ca Tài Tử, hào sản, chất, phát trọng nghĩa khinh tài là những
gì đặc trưng nhất về lối sống và tính cách của cư dân vùng Tây Nam Bộ. Tìm hiểu lịch
sử của một dân tộc không chỉ đơn thuần là những cột mốc vàng son, quá trình dựng
nước và giữ nước hào hùng mà bên cạnh đó cần biết thêm về lối sống và tính cách của
họ. Đó là những điều rất chi đơn giản gần gũi, không đao to búa lớn nhưng nó khắc họa
phần nhiều lịch sử của một dân tộc. Đầu đề “Đời sống - sinh hoạt và tính cách của người
Việt vùng Tây Nam Bộ” một chủ đề quá rộng lớn cần phải có nhiều thời gian và hết sức
kỳ công để diễn tả được đầy đủ ý nghĩa của nó. Nhưng do nhóm cịn nhiều hạn chế về
năng lực thời gian và cũng như chun mơn trình độ. Nên dám mong cơ và anh chị/ các
bạn xem đây là một bài báo cáo tổng quát và sơ lược nhất mà mỗi thành viên của nhóm
đã gom nhặt kiến thức từ các vị tiền bối để tổng hợp lại và dĩ nhiên là có nhiều sơ sót
trong nội dung cũng trình bày rất mong cơ và anh chị/các bạn nhận xét, góp ý để nhóm
được hồn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
Thực hiện Nhóm 3

-1-


A. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT TÂY NAM BỘ
Đồng bằng sông Cửu Long là đồng bằng rộng lớn nhất nước ta (gồm bộ phận châu
thổ chính và những đồng bằng phụ cận từ sông Đồng Nai đến mũi Cà Mau có diện tích
39.950 km vng, được tạo thành do phù sa mới của sông Cửu Long và sông Đồng Nai
bồi đắp (chủ yếu là phù sa của sông Cửu Long). Ngồi ra có những cồn cát ven biển cao
đến 5m độ cao trung bình của đồng bằng châu thổ là từ 1m đến 2m trên mực nước biển,
hơi cao ở phía biên giới Việt - Campuchia và thấp phần dần về phía biển Đơng.
Đồng bằng sơng Cửu Long có nguồn tài nguyên chính là lúa gạo. Tại đây trên một
diện tích tự nhiên khoảng ngồi 4 triệu hecta, đất nơng nghiệp trên 2,5 triệu hecta, đại
bộ phận là đất trồng lúa có độ màu mỡ cao thu hoạch trung bình hàng năm trên 3,5 triệu
tấn. Ngoài lúa gạo, hải sản cũng chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế đồng bằng

châu thổ: sản lượng cá tôm ở bờ biển miền Tây Nam Bộ ước tính khoảng 490.000 tấn
mỗi năm. Đồng bằng sông Cửu Long được phủ lên một mạng lưới sông rạch kênh đào
dài đặc chằng chịt, rất phong phú và phức tạp về mặt thủy tính.
B. ĐỜI SỐNG - SINH HOẠT CỦA NGƯỜI VIỆT VÙNG TÂY NAM BỘ
I. Đời sống sinh hoạt thường nhật
1. Ăn uống
Việt Nam là vùng xứ nóng, nhưng Tây Nam Bộ gần xích đạo hơn cả cái nóng thuộc
phần dữ dội nhất. Rất may theo quy luật bù trừ, mùa nắng nóng cũng chính là mùa mưa,
thêm vào đó Nam bộ lại ở gần biển nên được hưởng trực tiếp gió mát thổi vào, nhờ thế
khí hậu cũng dễ chịu hơn rất nhiều.
Để thích nghi với thời tiết nắng nóng, bữa ăn của người Nam Bộ rất ưa chuộng các món
nước(là âm). Với các món ăn như hủ tiếu, Canh rau, cháo... Hay người dân còn tận dùng
các vị chua, đắng để tạo ra các món ă tránh nóng như canh chua, khổ qua, rau đắng...
+ Đồ ăn tránh nóng phổ biến, và khơng thể thiếu trong các bữa ăn đó là món canh: “Ăn
cơm có canh như tu hành có bạn”; “Ăn cơm có cá có canh/ Ăn dơ mát bụng như anh gặp
nàng”. Hủ tiếu, lẩu, cháo đều có đặc điểm chung là nhiều nước (Âm). Thực vật lại âm
so với động vật nên loại canh đực ưa chuộng nhất là canh rau. Canh nấu với các loại rau
đặc sản Tây Nam Bộ trở thành biểu tượng cho quê nhà: “ anh đi anh nhớ tháp mười/ nhớ
-2-


canh bơng súng, nhớ nụ cười Mỹ An”, món canh rau dân dã cịn gắn bó với người Tây
Nam Bộ đến mức có câu ca dao đã nói quá lên rằng người mẹ Tây Nam Bộ nhắm gã
con về vườn cốt là để ăn canh rau: “ Mẹ mong gã thiếp về vườn/ Ăn bơng bí luộc dưa
hường nấu canh”. Hay cịn các món có vị chua cũng được xem là món tránh rât hiệu
quả, bởi món ăn được kết hợp tinh tế từ các yếu tố “nước- thực vật- thủy sản- vị chua”
rất được ưa chuộng là món canh chua nấu cá. Chất chua vô cùng phong phú từ các loại
lá như lá me, lá me đất, đọt xoài, đọt choại,cho đén các loại trái như khế, bần, trái me,
chùm ruột.
+ Thức uống tránh nóng cũng đa dạng khơng kém. Thức uống mát nổi tiếng nhất là nước

dừa, mà nhân gian Tây Nam Bộ có câu “Uống nước dừa xiêm, hơn tiêm thuốc bổ”. Nước
dừa ngọt mát có thể giúp cơ thể chống lại cái nóng nực của phương nam một cách rất
hiệu quả. Ngồi nước dừa thì nước rau má hay ép dưa hấu cũng có tác dụng tránh nóng.
Rượu: rượu đế làm nên một nền văn hóa Tây Nam Bộ, chưng cất hoàn toàn bằng gạo.
Nổi tiếng: rượu Xuân Thạnh, rượu chuối hột, rượu Gò Đen….
+ Ăn vặt Tây Nam Bộ: Bánh trái Tây Nam Bộ đã làm nên cả một miền ẩm thực mát
lòng mát dạ khách phương xa, trong Bánh dân gian Nam Bộ (tác giả Nhâm Hùng) và
Sản vật miền Nam (Tác giả Mai Khơi) liệt kê hàng chục món bánh trái của người Miền
Tây được tạo ra từ bàn tay người phụ nữ Miền Tây và các thứ cây trái, con vật nuôi
trồng quanh nhà.
2.Mặc
Cái mặc của người Nam Bộ khơng cầu kì. Vào thời kì đầu giai đoạn hình thành vă
hóa, trang phục của cư dân Tây Nam Bộ khơng khác gì so với người miền trung.Đến thế
kỉ XVIII thì có sự đổi khác : “ đàn ông chỉ mặc quần đùi, áo cánh hoặc vải bâu, cổ ngắn,
nhuộm màu nâu đen bằng vỏ cây đà. Đàn bà cũng mặc áo bâu cổ ngắn, quần dài cổ có
mang yếm vải. Phụ nữ buộc vào lưng một ruột ngựa để mang trầu cau, thuốc xiết. Cả
nam và nữ đều đi chân đất.
Đến thế kỉ 19 bộ đồ bà ba dùng cho nữa sau đó dùng chung cho cả nam lẫn nữa
được hình thành cùng với chiếc khăn rằn, đã trở thành trang phục ổn định, gắn liền với
sinh hoạt hàng ngày và trở thành biểu tượng nhận diên của người Việt ở Tây Nam Bộ

-3-


3. Nhà ở
Nhà đất xuất hiện sớm nhất, từ giai đoạn văn hóa khẩn hoang. Ở những nơi thuộc
tiểu vùng Giồng duyên hải và tiểu vùng Phù sa ngọt (miệt giồng, mệt vườn, miệt cù lao)
thì nhà đất thường khơng phải đắp nền cao do ở nơ đây có thế đất cao ráo khơng bị ngập
nước. Cịn ở vùng trũng thì phải làm trên nền đất lấp. Nhà sàn là hình thức cư trú khá
phổ biến ở Tây Nam Bộ nhất là vùng ngập nước thuộc tiểu vùng Ngập kín (Đồng Tháp

Mười) và tiểu vùng Ngập hở (Tứ giác Long Xuyên). Hệ thống cột của nhà sàn được
thiết kế liền nhau bằng những thanh đà để tăng khả năng chống lại sức nước.
- Việc định cư của người Tây Nam Bộ cũng mang một nét đặc thù riêng không
giống với nơi nào, nhà của họ thường không được làm kiên cố. Bởi dị một số yếu tố đặc
thù như:
+ Tây Nam Bộ là vùng đất trù phú, kiếm ăn rất dễ nên người dân khơng cần phải tích
trữ của cải, phần lớn nhà chỉ làm chức năng che mưa che nắng, khơng có chức năng bảo
vệ tài sản bởi dị rất đơn sơ. Đêm ngủ khơng cần đóng cửa, đi vắng khơng cần đóng cổng.
+ Đây là vùng có khí hậu thời tiết thuận hịa, khơng có bảo tố. Vì vậy nhà cửa cũng
không làm kiên cố
+Việc định cư của người Tây Nam Bộ chỉ là Tương đối. Cuộc sống nơi đây đơn giản, ở
đâu sống cũng được, con người lại khơng bị ràng buộc bởi tính cộng đồng làng xã cho
nên dễ di chuyển, có thể nay đây mai đó. Vì vậy có thêm một lí do để khơng cần phải
cất nhà kiên cố.
- Như đã nói ở trên nhà của người Tây Nam Bộ thường chọn nơi cao ráo, hoặc đáp
đất để tránh ngập nước và kiến trúc thường không kiên cố nhưng kĩ thuật dựng nhà phù
hợp với thiên nhiên ít bão, đối phó được khí hậu khơ nóng.
+ Về hướng nhà: Ở vùng Tây Nam Bộ không bắt buộc theo một hướng nào nhất định.
Bất kể ở hướng nào trong bốn hướng cứ có sơng có lộ là nhà quay ra phía đó: “Nhà em
quay mặt ra sông/ Sau lưng vườn ổi mẹ trồng khi xưa/ Mẹ em tần tảo sớm trưa/ Mẹ
mong con lớn ổi vừa chín cây/ Nhà anh ở phía hướng Tây/ Cha anh làm ruộng từ thời
đất hoang/Thương em trong cảnh cơ hàn/Ngày qua tháng lại tình thêm nặng tình. Ngoiaf
ra ngườ dân nới đây còn hay chọn nơi ở theo ” Nhất cận thị, nhì cận giang”,”bên dướ có

-4-


sơng, bên trên có chợ” giúp thuận tiện đi lại, làm ăn, lại vừa có thiên nhiên trong lành,
khơng khí mát mẻ.
+ Để tránh nắng nóng nhà của người dân vùng Tây Nam Bộ còn được xây dụng theo

“kiến trúc mở”. Dựa vào cấu trúc ngôi nhà của người dân Tây Nam Bộ được chia thành
bốn kiểu: nhà chữ đinh, nhà sắp đọi, nhà thảo bạt và nhà bát dần. Dựa vào kết cấu bộ
khung thì chia thành hai kiểu: nhà cột giữa và nhà đâm trính. Ngơi nhà của người dân
Tây Nam Bộ thoáng mát, vách xung quanh bằng tre nứa đón gió mát quanh năm. Nhà
thường có rất ít vách ngăn và nếu có thường là vách lửng (cao 2-3m) để tạo sự thống
khí. Điểm thay đổi quan trọng nhất là hàng hiên được làm rất rộng, nó đực gọi là hàng
ba. Hàng ba không cần kiên cố nhưng phải đủ rộng để giúp ngôi nhà khỏi bị mưa tạt vào
mùa mưa. Có thể nói hàng ba là nơi tránh nắng, tránh mữa và có đủ mọi hướng gió thổi
vào. Hàng ba trở thành cáu gạch nối giữa khơng gian kín trong nhà với thiên nhiên bên
ngồi góp phần tạo nên kiến trúc mở cho ngơi nhà.
Văn hóa chống nóng trong nhà ở Tây Nam Bộ: Sử dụng lá chầm trong lợp nhà:
Kết lá dừa thành từng tàu, còn dựng lá dừa nước làm vách.
 Nhà lá trở thành văn hóa và biểu tượng của miền Tây
 Bẹo lá bán ghe trong văn hóa chợ nổi.
Sau này các vật liệu hiện đại du nhập, nhà ở Tây Nam Bộ cịn có thêm các kiểu nhà mới
xây kiên cố.
II. Đời sống sinh hoạt tâm linh – tín ngưỡn
2.1. Tín ngưỡng thờ trời
Một vùng châu thổ rộng lớn do phù sa hai sông Mê Kông và Đồng Nai bồi đắp tạo thành
một màu xanh bạt ngàn, gần như ba mặt trông ra đại dương bao la bát ngát, đất phương
nam quả là “rừng vàng biển bạc”, một món q vơ giá mà thiên nhiên ưu đãi cho lưu
dân người Việt mặc sức khai khẩn. Lợi dụng thực vật đa loại sẵn có như tre, mây, cây
lá…Ơng cha ta chỉ dựng lều trại đơn sơ để giải quyết cho việc tạm cư, tạm canh trong
buổi đầu lập nghiệp.
Khi “Đến nơi xứ sở lạ lùng, chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê” này, họ cảm thấy
mình q cơ đơn nhỏ bé trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, chỉ còn biết đặt hết niềm tin
vào đấng thiêng liêng tối cao, đó là ÔNG TRỜI. Phải, chỉ có ÔNG TRỜI là đấng quyền
-5-



năng tuyệt đối ở rất xa mà cũng rất gần loài người, ngửa mặt là thấy trời, cúi đầu là thấy
đất (Ngưỡng diện kiến thiên, đê đầu thị địa). Trời là niềm tin, đất là hi vọng...
Nhưng thờ ÔNG TRỜI bằng cơ ngơi nào cho phải lẽ? Thơi thì trong thời kỳ tạm cư, tạm
canh âu cũng phải “tạm thờ” miễn thể hiện được câu “Hữu thành tắc linh”.
Thế là cái BÀN THIÊN được…Chào đời từ đó.
Với vật thể này có người gọi là BÀN ƠNG THIÊN, nghĩa là bàn thờ ƠNG TRỜI; cũng
có người gọi là BÀN THƠNG THIÊN với ý nghĩa thông thiên triệt địa, là llời cầu
nguyện của người thông đến trời, thấu cả đất. Nhưng đa số người dân Nam Bộ từ miền
Đông tới miền Tây gọi gọn lại là BÀN THIÊN, ý nghĩa cũng như nhau.
Người xưa quan niệm “Trời trịn đất vng”, Trời cao rộng vơ biên, cao khong
nóc, rộng khơng vách, nên việc thực hiện một BÀN THIÊN rất đơn giản; một cây cột
trịn dài cỡ ngang đấu người, một tấm ván hình vng mỗi cạnh khoảng 4-5 tấc, giữa
tấm ván đóng dính chắc vào đầu cột, thêm vài cây chỏi xéo ngắn cho tấm ván khơng lúc
lắc, đầu cột cịn lại vạt hơi nhọn, cắm xuống đất. Thế là xong BÀN THIÊN. Cịn vị trí
cắm ở đâu, chúng ta cần làm cho rõ ý nghĩa.
Vật cúng cũng đạm bạc đơn sơ như cơ ngơi của nó: gạo và muối. Ơng cha ta rất
quý trọng gạo muối, coi đó là “hạt ngọc của trời, hạt châu của biển” vì nó là thành quả
của q trình lao động gian khổ. Đến ngày Sóc Vọng (mùng 1 và ngày Rằm âm lịch) lễ
phẩm có khá hơn: nhang đèn, bông trái, nước sạch và gạo muối mà gọi theo người xưa
là hương đăng, hoa quả, bạch thủy, mễ diêm. Đến khuya ba mươi tết cúng giao thừa,
BÀN THIÊN cũng là nơi thiết lễ tống cựu nghinh tân các ơng Hành binh Hành khiển,
vật cúng có khá hơn nhưng cũng khơng ngồi sản phẩm nơng nghiệp.
Ngày nay trong tiến trình đơ thị hóa, cái BÀN THIÊN đã dần dần vắng mặt trên
những đường phố đất hẹp người đông. Tuy nhiên, ở nông thôn, nhất là miền Tây nam
bộ dấu ấn này vẫn còn rất đậm nét. Ngay cả những thành phố lớn là nơi đất đai được coi
là tấc đất tấc vàng- theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen- ta được thấy một số nơi vẫn còn
lưu giữ cái bàn thiên trên bao lơn của những tầng lầu 3, 4…Chứng cứ đó đã khẳng định
rằng, ngồi lịng sùng kính thiêng liêng theo tín ngưỡng truyền thống, vật thể này biểu
hiện rõ nét đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của người dân Nam Bộ ngày nay.


-6-


2.2. Tín ngưỡng thờ ơng bà:
Từ ngàn xưa, ơng bà ta đã nhắc nhở cháu con:
“Thờ cha mẹ ở hết lòng
Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường”
Hiếu đạo là truyền thống lâu đời và tốt đẹp của người Việt. Hiếu thảo chính là một “tiêu
chí” thước đo phẩm giá của con người. Con cháu có hiếu với ơng bà, cha mẹ là điều vô
cùng quý báu, đáng trân trọng. Khi cha mẹ, ơng bà đã qua đời thì việc thờ cúng, giỗ
chạp cũng thể hiện tấm lòng của những “con thảo, cháu hiền”.
Như một vườn hoa đầy hương sắc, mỗi vùng miền trên đất nước Việt Nam lại có cách
thờ phượng, giỗ chạp đối với ông bà tổ tiên khác nhau. Hơn 3 thế kỷ vùng đất Nam bộ
được khai hoang mở cõi và phát triển, một trong những biểu hiện sinh động trong đạo
Hiếu là tục thờ cúng tổ tiên của người Nam bộ.
Ở mỗi gia đình, bàn thờ gia tiên ln là nơi thiêng liêng, tơn kính nhất. Bàn thờ được
đặt ở chánh diện của ngôi nhà, ở gian nhà lớn hay nhà trước, hướng ra cửa cái. Người
xưa quan niệm, khách bước vào nhà sẽ đánh giá được phần nào tâm tính của gia chủ qua
bàn thờ gia tiên. Việc bài trí các vật dụng trên bàn thờ cũng được sắp đặt theo một khuôn
mẫu nhất định. Ngày xưa, trên mỗi bàn thờ của người dân Nam bộ thường có đầy đủ
“ngũ sự” gồm:
-

Lư hương

-

Hai chân đèn,

-


Lục bình cắm hoa

Một ống bằng gỗ hoặc đồng dùng đựng nhang.
Lư dùng đốt (xông) trầm hương mà bà con quen gọi là lư hương, phần lớn được đúc
bằng đồng, số ít được chạm khắc bằng đá hay gỗ quý, được đặt ngay trung tâm của bàn
thờ.
Hai bên lư hương là hai chân đèn mà theo nhà văn Sơn Nam là tượng trưng cho âm –
dương cân xứng, giao hòa. Người xưa rất chú trọng đến khoảng cách giữa hai chân đèn
và lư hương phải thật đều nhau.
-7-


Một bên phía trong chân đèn là cái bình dùng cắm hoa tươi. Một bên bàn thờ là một ống
cây, thường là ống tre dùng để đựng nhang. Có một vật ngoài “ngũ sự” nhưng lại rất
quan trọng trên mỗi bàn thờ đó chính là cây đèn dầu hột vịt (ống khói chắn gió có hình
quả trứng vịt), vặn lửa nhỏ “liu riu” (còn gọi là chong đèn), vừa để tiện đốt nhang và
cũng để giữ lửa.
Trên bàn thờ thường có dĩa trái cây, người Nam bộ quan niệm dĩa trái cây này không
cần đắt tiền, hoa mỹ mà chỉ là cây nhà lá vườn, “sản vật” của gia đình dâng lên ơng bà.
Bàn thờ ln được trang hồng, lau chùi dọn dẹp thường xun.
“Đơng bình Tây quả”
Phía trong cùng bàn thờ, bà con thường treo tranh thờ là một bức tranh khổ lớn, thường
thấy nhất là tranh cảnh sơn thủy hay hình ảnh một gốc tre già và những mụt măng lơ
nhơ phía dưới để làm nền cho những chữ Hán khổ lớn, thường là các chữ: “Từ đường”,
“Cửu huyền thất tổ”..., trên cùng thường thấy nhất là ba chữ “Đức – Lưu – Phương”
(Hương thơm công đức của tổ tiên còn ngào ngạt đến thế hệ cháu con).
Hai bên tranh thờ cịn có những cặp đối, liễn, phổ biến nhất là:
“Tổ tông công đức thiên niên thạnh
Tử hiếu tôn hiền vạn đại vinh”

(Đại khái là: Công đức của ông bà lớn lao, bền vững làm cho con cháu được thơm hưởng
nhờ).
Bàn thờ trong mỗi nhà vừa thể hiện sự tơn nghiêm, kính cẩn lại thể hiện “đẳng cấp” của
gia chủ. Người giàu có thì bàn thờ được đóng bằng gỗ quý, cẩn ốc xà cừ hình long, lân,
qui, phụng hoặc sơn son thếp vàng. Người trung lưu và người khơng được khá giả thì
bàn thờ đơn giản hơn nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu vững chãi, vẻ thanh thốt và tơn
nghiêm. Theo một số cụ cao niên ở Nam bộ thì ngày xưa, con cháu thờ ơng bà tổ tiên
tuyệt đối phải trên bàn thờ chứ không được làm kệ gỗ đơn giản, chơng chênh.
Tuy cùng trong dịng chảy đạo Hiếu của người Việt song việc thờ cúng ông bà của người
Nam bộ lại có nét dị biệt, mang đậm dấu ấn văn hóa của sơng nước miệt vườn. Thờ
cúng, hiếu đạo với ông bà đã trở thành một “đạo”:

-8-


“Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu”
Như đã nói, việc thờ cúng thường là con trai út, cháu nội... Chứ ít khi do con gái, cháu
ngoại đảm trách. Bởi thế mà ông bà ta quan niệm:
“Cá sặt muốn bắt dùng lờ
Mấy đời cháu ngoại mà thờ giỗ ông”
Hay:
“Cồng cộc bắt cá dưới sông
Mấy đời cháu ngoại giỗ ơng bao giờ”
Và:
“Bìm bịp kêu nước lớn bên sơng
Mấy đời cháu ngoại giỗ ơng bao giờ”
2.3. Tín ngưỡng thờ Ông Địa (Thổ Địa)
Bên cạnh việc thờ Trời một cách đặt biệt, người Nam Bộ cịn có tín ngưỡng Thờ Ông
Địa. Ông Địa thường ngồi ở tư thế chân co chân xếp khăn đầu đều một tay cầm quạt

một tay cầm điếu thuốc với con cọp theo hộ tống là tư thế ngồi thoải mái nhất của người
bình dân.
Khăn đầu rìu là cách trang phục điển hình của người nông dân Nam Bộ cây quạt ta phải
thể hiện một phong cách nhàn nhã là vật bất li thân của người dân xứ nóng.
Cái quạt với động tác phe phẩy tưởng tượng cộng thêm ấn tượng với chiếc áo phanh
ngực khơng gài nút đã hình thành một thành ngữ rất là Nam Bộ "Mát trời Ông Địa”.
Điếu thuốc và ly café là dấu hiệu của tính mở thống phương Tây.
Về hình dáng, chất nữ tính với 2 đặc trưng nổi bật là bộ ngực lớn và cái bụng chình ình
của người sắp đẻ cho thấy rõ mối liên hệ giữa ngun lý phồn thực sinh sơi nảy nở và
tính trọng nữ trong văn hóa người Việt ở Tây Nam Bộ. Về vị trí bàn thờ ơng địa lưu đặc
sát mặt đất thể hiện mối liên hệ mật thiết với cội nguồn mẹ đất: Thần đất phải trở về với
-9-


đất đai. Ông Địa ở Nam Bộ thường được thờ cúng chung với Thần Tài, Ông Địa là vị
thần bảo hộ cây trái hoa màu, dấu ấn của nền kinh tế nông nghiệp con thân trai là vị thần
trông coi tiền bạc là sản phẩm của thời kỳ kinh tế thương nghiệp.
2.4. Tín ngưỡng thờ động vật
2.4.1 Thờ Hổ
Nam bộ là vùng đất mới khai phá, nơi các tiền nhân từ buổi đầu không chỉ đối mặt với
rừng rậm hoang vu mà còn đối mặt với nhiều thú dữ. Trong các loại thú dữ ở xứ sở này
thì cọp trên bờ và sấu dưới sông là hai con vật nguy hiểm nhất đã để lại một dấu ấn sâu
sắc trong tâm thức của người dân.
Cà Mau khỉ khọt trên bưng
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.
Ở Nam bộ, vào thế kỷ XVII, XVIII cọp nhiều vô kể. Chúng sống rải rác ở khắp nơi, ở
các cánh rừng ngập mặn tại các cửa của sông Tiền, sông Hậu, kể cả những nơi đã được
khai hoang khá sớm, như Sài Gòn, Mỹ Tho, Bến Tre, Vĩnh Long...
Tác giả sách Gia Định thành thơng chí đã thốt lên rằng: “Xứ này nhiều cá sấu và cọp
dữ”. Cọp không chỉ ở tận rừng sâu mà nó cịn lảng vảng quanh làng làm cho ai cũng

khiếp sợ.
Thức ăn chủ yếu của cọp là heo rừng, nai và các loài ăn cỏ khác. Dần dần các thú mồi
của cọp tìm cách lẩn tránh, tản sang các địa bàn khác sinh sống. Thức ăn của cọp ngày
càng trở nên khan hiếm vì lẽ đó, cọp mị về những nơi có dân cư sinh sống để tìm người
ăn thịt. Ở Nam bộ ngày nay còn lưu truyền nhiều địa danh liên quan đến cọp, như: đìa
Cứt Cọp (Bến Tre), rạch Ông Hổ (Tiền Giang)... Trong Gia Định thành thơng chí, Trịnh
Hồi Đức cho biết thêm: “Vào giữa ngày tết năm 1771, cọp từ rừng Sác kéo về chợ Tân
Kiểng, trên đường về Chợ Lớn, gây kinh hoàng cho dân chúng”.
Chính vì q khiếp sợ nên ai cũng tìm cách diệt cọp. Nhưng khi diệt cọp xong người ta
lại lập miếu thờ. Điều này cho ta thấy sự phức tạp trong tâm lý của các lưu dân và đồng
thời cũng cho ta thấy tín ngưỡng thờ cọp đã có từ buổi đầu khai hoang, lập ấp. Nếu từ
buổi đầu khai hoang, sự tương quan giữa con người và tự nhiên, nói riêng ở đây là giữa
người và cọp, còn chưa nghiêng hẳn về bên nào nên những lưu dân tiên phong một mặt
-10-


sợ cọp và mặt khác, phải diệt cọp để làm chủ vùng đất mới. Sự phức tạp trong tâm thức
của họ do sự mâu thuẫn giữa đòi hỏi tất yếu của lịch sử và việc chưa đủ khả năng thực
tế để thỏa mãn những đòi hỏi ấy. Do sợ cọp mà họ lập miếu thờ sơn quân chi thần, thờ
Chúa xứ sơn lâm, thờ Thần Hổ và bầu cọp làm Hương Cả của thơn làng. Do vậy “mơ
típ “Ơng Cả Cọp” là một mẫu đề dân gian được hình thành từ tâm thức tôn trọng “lề luật
giang hồ”: chúng tôi đến đây khai hoang lập nghiệp, nhưng chúng tôi biết “rừng nào cọp
ấy” nên không dám “xưng hùng xưng bá”. Chúng tôi lập nghiệp ở đây, xin ông cứ làm
cả, làm chủ và chúng tôi chỉ dám là bậc dưới của ông mà thôi”.
“Vào những năm cuối thế kỷ XIX, cơng cuộc khai hoang lập ấp tại làng Hịa Tú, Sóc
Trăng coi như đã hồn tất, người dân nơi đây mới dựng chùa, lập miễu thờ Thành Hoàng
ở giữa làng, hương khói quanh năm với niềm tin thần thánh sẽ phù hộ, độ trì cho dân
làng được an cư lạc nghiệp. Việc cai quản và giữ gìn an ninh trật tự trong làng là trách
nhiệm của Ban hội tề gồm mười hai vị hương chức, đứng đầu là chức Hương Cả. Hồi
ấy, Hương Cả thường là người cao niên, học cao hiểu rộng, có uy tín với bà con trong

làng. Ông Hương Cả đầu tiên của làng chỉ tại chức được vài ba tháng thì trong nhà xảy
ra nhiều tai họa, hết vợ yếu con đau đến họ mạc mâu thuẫn, xích mích với nhau. Cuối
cùng, bản thân ơng lâm bệnh rồi chết. Điều lạ lùng là người kế vị chức Hương Cả cũng
chỉ tại chức trong thời gian ngắn rồi lâm nạn và qua đời. Ông Hương Cả thứ ba được cử
lên thay thế cũng không tránh khỏi số phận vị tiền nhiệm. Cảnh tai ương gây chết chóc
cho các vị Hương Cả khiến cho mọi người lo lắng, bàn tán và nếu có một ai đó được đề
cử giữ chức Hương Cả, họ đều sợ hãi khước từ. Chính vì vậy, Ban hội tề trong làng suốt
ba năm liền khơng có người đứng đầu.
Ngày trước, vùng đất hoang dã này có nhiều cọp sinh sống, khi dân làng đến khai khẩn,
chúng bỏ vào sống trong khu rừng sâu, chỉ còn lại con cọp ba chân sống quanh quẩn ở
bìa rừng, khơng hại người nên người cũng khơng săn đuổi nó. Sau nhiều lần bàn bạc
thảo luận, các vị lão làng quyết định cử... ông cọp ba chân vào chức Hương Cả! Thế là
một ngơi miếu nhỏ trang hồng theo hình thức tơn thờ vị thần nhỏ được dựng lên phía
sau miếu Thành Hồng. Nhân lễ cầu an trong làng, Ban hội tề làm lễ khánh thành ngôi
miếu ông Hổ đồng thời tổ chức lễ “tấn phong” ông Hổ lên chức Hương Cả. Trong nhiều
năm liền, từ ngày ông Hổ về nhận chức Hương cả, mưa thuận gió hịa, cuộc sống của
dân làng ngày càng khấm khá lên khiến cho Ban hội tề và tất cả dân làng đều đặt niềm
tin vào sự linh thiêng của ông Cả Hổ”.
-11-


Một truyền thuyết khác cũng không kém phần hấp dẫn cũng được giữ lại đến ngày nay:
“Ở Bến Tre, từ khi lập làng - theo tục truyền, hễ ai được cử làm Hương Cả đều bị bệnh
chết. Do đó, suốt nhiều năm, không ai dám nhận chức ấy. Một năm nọ, có người can
đảm nhận chức Cả thì liền bị cọp vồ suýt mất mạng. Từ đó, hương chức trong làng bàn
nhau, cử cọp làm Hương Cả. Hàng năm, làng đều phải làm lễ cử “Cả Cọp”, cúng một
đầu heo quay và viết một tờ cử, cuộn tròn, để trong một ống tre đặt ở hốc đá, nơi cọp đã
vồ ông Cả. Đúng lệ, năm nào, cọp cũng về ăn đầu heo và đổi tờ cử cũ lấy tờ cử mới. Về
sau, sáu bảy năm liền, cọp khơng về, có một người tên Non mới dám nhận chức Hương
Cả trở lại”.

Phải chăng vì thế ở Nam bộ, khơng ai gọi con đầu lịng là anh Cả, mà thay vào đó gọi là
anh Hai, vì sợ đụng chạm đến ơng “Cả Cọp”.
Khi xưa, người dân có tục gọi cọp là “ơng” và để tránh danh “cọp”, người ta gọi là “ông
Ba Mươi”. Dân gian có tục lệ là vào ngày mồng ba Tết Nguyên đán, sau khi cúng xong,
người ta thường dán trước cửa nhà một mảnh giấy hồng điều có vẽ hình cọp với dịng
chữ Hán “Sơn Lâm đại tướng qn” với lịng mong muốn là “ơng Ba Mươi” sẽ trấn giữ
khơng cho những thứ nhiễm độc vào nhà. Ơng già, bà cả cịn bảo nếu trẻ con khóc đêm
thì người mẹ phải lén ăn trộm hình vẽ chúa sơn lâm để trong gối ngủ của đứa bé thì đứa
bé sẽ hết khóc.
Các đình làng ở Nam bộ phần lớn đều có miễu thờ thần hổ, ở về phía trái sân đình, với
tước “Sơn Lâm chúa tể”. Tuy cọp được tôn sùng như thế, nhưng người dân vẫn săn bắt,
đánh giết cọp, vì chúng đe dọa mạng sống của con người và để mở rộng địa bàn khẩn
hoang.
Ở Nam bộ, còn rất nhiều câu chuyện về những người giỏi võ nghệ giết sấu, đánh cọp,
trị rắn... Có thể kể: đó là Bảy Giao, Chín Quỳ, ơng Yến, ơng Tăng Chủ... đó là những
người bình thường nhưng giàu nghị lực và có lịng quả cảm quyết hy sinh thân mình để
bảo vệ sự an toàn cho cộng đồng.
Người Việt dù ở miền Bắc hay miền Trung khi vào Nam bộ khai phá đều mang theo
những tín ngưỡng thờ thần, thờ tổ tiên... truyền thống. Khi đặt chân đến vùng đất mới,
trước những lạ lẫm của cảnh sắc, trước những ghê sợ của thú rừng những lưu dân không
thể không tôn sùng những lực cản mới, hầu mong tìm sự cân bằng trong đời sống tâm
-12-


linh. Đó là lý do xuất hiện rất nhiều đình miếu thờ cọp, vẽ hình cọp trên tấm bình phong,
đắp tượng hổ để thờ... Đặc biệt, nhiều nơi, trong ngày lễ cúng đình, ngồi việc cúng tế
Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền khai cơ... Người ta còn tổ chức nghi lễ riêng cúng tế ông
Hổ gọi là tế Sơn quân.
2.4.2 Thờ cúng Cá Ơng
Thờ Cá Ơng là một tín ngưỡng dân gian khá phổ biến của ngư dân vùng ven biển và các

đảo. Hầu hết các làng chài đều có lăng miếu thờ cá ơng, hay cá voi, cịn gọi là “Nam hải
đại tướng quân”. Tương truyền khi tàu ghe bị nạn, sắp chìm, cá Ơng thường xuất hiện
nâng đỡ, đưa tàu thuyền và người vào bờ thoát nạn. Truyền thuyết dân gian cũng kể rằng
trên đường bơn tẩu, đồn tùy tùng của Nguyễn Ánh đã nhiều lần được cá Ông, cá sấu và
2 con rái cá cứu thoát nạn nên sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã phong cho cá Ông tước
hiệu Nam Hải đại tướng quân; phong cho đàn cá sấu là “Tân Ngạc ngư long” và hai con
rái cá là “Lang lại nhị tướng quân”. Nghi thức Nghinh Ơng giống như nghi thức cúng
đình thần, cũng long trọng rước linh vị và sắc thần, chỉ khác nhau ở chỗ lễ hội Nghinh
Ông diễn ra trên tàu ghe. Ý nghĩa của lễ hội Nghinh Ông thể hiện lịng tri ân và cầu
mong cho mưa thuận gió hịa, sóng yên biển lặng, xóm làng sung túc, người ra khơi bình
n trở về, đánh bắt được nhiều cá tơm.
III. Đời sống sinh hoạt văn hóa - văn nghệ
Nói đến nghệ thuật ca hát dân ca cổ truyền Nam Bộ chúng ta sẽ nghĩ ngay đến các
loại hình nghệ thuật phổ biến như: đờn ca tài tử, ca ra bộ, các điệu hị và lý... Có được
kho tàng âm nhạc độc đáo như vậy cũng nhờ Nam Bộ có sự đa dạng và hài hòa giữa con
người và thiên nhiên. Để tìm hiều thêm những nét đặc sắc trong các loại hình nghệ thuật
ở Nam Bộ chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu:
Đờn ca tài tử - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào ngày 5/12/2013.
Ở Nam Bộ, kể cả dân gốc gác tại chỗ hoặc những người từ xứ xa đều biết đến bài
Dạ Cổ Hoài Lang được Nhạc sĩ tài hoa Cao Văn Lầu sáng tác tại quê hương Bạc Liêu
(1919) lan nhanh ra ở Nam Bộ và phổ biến khắp cả nước. Nếu nhạc lễ Cung đình biểu
trưng cho nền văn minh, văn hóa Phú Xuân, thi ca nhạc tài tử, cải lương biểu hiện cho
văn minh, văn hóa Nam Bộ.

-13-


Ở nông thôn Nam Bộ, việc biết đờn ca tài tử như là lẽ đương nhiên. Vì đờn ca tài
tử vừa bình dân, vừa cao cấp, vừa gần gũi, vừa thâm sâu, lời ca quyện chặt tiếng đờn
mang theo cả tâm hồn nghệ sĩ, người thưởng thức. Bởi vậy, không chỉ giới cơng, nơng,

binh mà cả giới trí thức gần thế kỷ nay ở Nam Bộ rất yêu thích và tham gia học đời ca
tài tử, cải lương. Các ban đờn ca tài tử thường giúp vui cho các lễ hội, đám cưới, đám
giỗ, buổi tiễn đưa tân binh, bộ đội lên đường đánh giặc...không cần thù lao. Ai biết đờn
thì đờn, biết ca thì ca. Cứ như vậy thành lệ. Không ai bảo ai, hàng ngày làm lụng vất vả
trên đồng ruộng đến chiều phải tranh thủ về để kịp có mặt tham gia hoặc thưởng thức
buổi đờn ca tài tử. Năm này tháng nọ cũng lặp lại những bài bản cũ - lâu lâu mới có lời
ca mới - nhưng người đờn lẫn người nghe vẫn không ai thấy chán, mà trái lại họ như bị
ghiền khơng có khơng được.
Hị vè
Hị Nam Bộ là một trong những thể loại gắn bó thân thiết với sinh hoạt lao động
của người Việt. Hị và Lý tuy có phần giống nhau nhưng Hò lại gắn liền với một động
tác khi làm việc, cịn Lý thì lại khơng có. Hị Đồng Tháp có những đặc trưng riêng mà
khơng có điệu hị nào ở Nam Bộ có được. Đặc trưng nhất đó là hị tâm tình, về tình
dun, số phận và những buồn vui cuộc đời. Cũng có khi bài hị để phê phán những cái
xấu, cái ác trong xã hội. Từ một đứa trẻ lên 5 đến cụ già 80 tuổi đều có thể hát lý, hị.
Nam Bộ cịn có một điệu hò rất cổ là Hò Cấy Lúa, thường được các đơi nam, nữ hị giao
dun với nhau trong lúc cấy lúa. Cho phép người hị tự do sáng tạo, có sức hấp dẫn
người nghe một cách kỳ lạ:
Câu hị tơi đựng một nia
Chị em nào thích tơi chia cho hị...
Cịn ngày nay nhiều nghệ nhân tuổi cao sức yếu không thể hị được nữa mà chỉ có câu:
Câu hị tơi đựng một khạp da bị
Tơi qn đậy nắp nó bị hết trơn.

Lý Nam Bộ: trong nghệ thuật anh sách đã xuất hiện vô số những điệu lý liên quan đến
đời sống sông nước như Lý Cây Bông, Lý Cây Bông Súng, Lý Con Cá, Lý Con Cá Lóc,
Lý Con Cua, Lý Con Sam, Lý Cái Phảng, Lý Bắt Cầu, Lý Qua Cầu, Lý Qua Phà, Lý Đi
Cấy…
-14-



Là một loại dân ca đặc sắc của Việt Nam. Lý có ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam của Việt
Nam,

nhưng



lẽ



phát

triển

mạnh

nhất



Nam

Bộ.

Lý Nam Bộ khơng chỉ phong phú về số lượng mà cả về đề tài, nội dung bài Lý thường
đề cập đến sinh hoạt, công việc và tâm trạng của người dân, các lồi vật, các loại cây,
nói về tình u nam nữ, tình nghĩa vợ chồng.
Mỗi điệu lý nói về những kinh nghiệm sản xuất (như Lý đất giồng)

Trên đất giồng mình trồng khoai lang...
Trên đất giồng mình trồng dưa gang...
Sớm mai em gánh nước bên đàng...
Khéo tay mà chăm bón....
Cho mầm cho mầm đậu lên
Tang tình tang tính tình tang
Tang tình tang tính tình tang.
...
Trên đất giồng mình chờ đợi ai
Nghe tiếng hị mà lịng trộm thương
Hỡi cơ gánh nước bên đàng
Còn bao là bao gánh nữa
Để qua là qua gánh dùm
Tang tình tang tính tình tang
Tang tính tình là tình tính tang
Bài lý Con chuột dùng để châm biếm, mỉa mai bọn lý rưởng cường hào:
Chuột chê, chuột chê tình bằng lụa lẹp, lúa lép lụa lẹp
Lụa lẹp ta thấy nó hổng ăn
Chuột chê, chuột chê tình bằng nhà dột,ư ứ nhà dột
Chuột chê, chuột chê nhà nghèo mà dột ta thấy nó ra nằm
Tre là bụi tre, tre, là bụi tre
Lý Nam bộ thực sự là một thể loại phản ánh cuộc sống, cách suy nghĩ và tính cách của
người Nam Bộ.

-15-


C. TÍNH CÁCH NGƯỜI VIỆT VÙNG TÂY NAM BỘ
I. Tính Mở thống
1.1 Cơ sở hình thành

Những lớp cư dân đầu tiên đi vào Nam khai khẩn họ luôn là những người có thân
phận đặc biệt họ hoặc là những người thuộc tầng lớp giàu có muốn tìm nơi để mở rộng
cơ nghiệp của mình hoặc là những người nhân sĩ trí thức chán ghét cảnh sống gị bó
hoặc là những người cùng đinh nghèo khó. chỉ những người có thừa bản lĩnh và tính mở
thống mới có đủ sức vứt áo ra đi để đến địch thành công giống như GS. Trần Ngọc
Thêm đã nói: “họ là những người dương tính nhất trong số những người Việt Nam âm
tính”. Đến với Nam Bộ nói chung và Tây Nam Bộ nói riêng khơng chỉ có người Việt ta.
Ngồi ra cịn có cư dân bản địa đó là người Khmer và các lưu dân khác như người Hoa,
Chà Và, Mã Lai, Xiêm La và cả những thương nhân người phương Tây ở tập trung buôn
bán chủ yếu ở những hải cảng sầm uất và những thế kỷ 16 17 như Hội An, Bến Nghé Gia Định. Có thể nói vùng đất Nam Bộ có mật độ dân Tứ xứ cao nhất cả nước và trong
bối cảnh hội tụ đó con người cần phải có tính mở thống cao khơng thì khơng tồn tại
được đây.
Thêm nữa về điều kiện tự nhiên và thiên nhiên vùng đất Tây Nam Bộ hào phóng
và phì nhiêu nhưng không kém phần khắc nghiệt. Điểm đặc biệt là có nhiều sơng rạch
chằng chịt đã tạo ra khơng gian lưu trú thống đãng, khơng phụ thuộc vào lũy tre cổng
làng. “Chính trong cái khơng gian cư trú mở thống như thế, con người tất yếu phải có
tư duy và hành động mở thoáng”.
1.2 Những biểu hiện
Nét đặc trưng nhất về tính mở thống phải đề cập đến đầu tiên đó là làng xã, khác
hẳn với làng xã Bắc và Trung Bộ có lũy tre, cổng làng bao quanh. Thì làng xã Tây Nam
Bộ lại liên thông với nhau, kết nối bằng kênh rạch hoăc các đường lộ, người từ các làng
có thể tự do di chuyển qua lại cư trú thoải mái và tất nhiên sẽ khơng có chuyện phân biệt
dân chính cư và dân ngụ cư.
Chính vì tính mở thống nên việc bn bán của người dân nơi đây có phần thoải
mái và được xem trọng hơn- “bn có bạn bán có phường”, trong khi xã hội Việt Nam
truyền thống dựa vào nền kinh tế tiểu nông, tự túc tự cấp là chủ yếu, coi nhẹ hoạt động
-16-


kinh doanh- “bn gánh bán bưng”, có lẽ chính ngun nhân ấy vùng này đã từ lâu

xuất hiện mầm mống cuả nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế mở thống ấy lại tình cờ
thu hút được đơng đảo thương buôn từ khắp nơi đến để trao đổi mua bán và cả định cư
lại. Do khơng có lớp “áo giáp lũy tre – cổng làng” nên người Việt vùng Tây Nam Bộ dễ
dàng tiếp thu những văn hóa của họ trong quá trình cộng cư và dần hồi biến đổi nó cho
phù hợp với mình. Thí dụ về ẩm thực họ dễ dàng tiếp thu cái mới như lẩu, mì, hủ tiếu…
Của người Hoa, cà-ri của người Ấn Độ. Và ăn cả mắn Bồ Hốc của người Khmer trong
tô bún nước lèo lại đi kèm với heo quay của người Hoa. Đây cịn là nơi có phong trào
Âu hóa y phục sớm nhất cả nước với bộ Veston, cà vạt, mặc áo dài đi giày tây đội nón
cối tay cầm cây ba-toon. Đi cùng đó là tiếp biến cả về lời ăn tiếng nói, đã xuất hiện các
từ gốc Pháp trong lời nói thường ngày và nói đã dẫn quen thuộc như Gát-măng-ghê là
cái tủ chén, Ba-ga là yên sau xe đạp, La-dô tức là cái radio…Cho đến lễ hội của các dân
tộc khác thì người Việt cũng vẫn tham gia một cách bình thường và có phần cịn hang
say hơn cả, tỷ dụ như Okombok của người Khmer, Tết Nguyên Tiêu của người Hoa hay
thậm chỉ là lễ Giáng Sinh của phương Tây.
Tính mở thống cao nên khả năng dễ thay đổi, dễ thích nghi và phong khống
châm chước đã trở thành một tính cách độc đáo của vùng này. Cư dân Tây Nam Bộ dễ
thay đổi chỗ ở nêu khơng muốn nói là thích thay đổi chỗ ở, hễ cục đất ấy làm ăn khơng
thuận lợi thì họ sẽ sẵng sàng ra đi để tìm nơi “đất lành” để “an cư lạc nghiệp” hình ảnh
lũy tre dày đặc gói chặt số phận con người trong khn viên làng xã như ở Bắc bộ đã
khơng cịn nữa. Một làng có thể hình thành nhanh như khi nó tan rã. “Ra đi gặp vịt cũng
lùa, gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu”.Đến vùng đất mới đầy khắc nghiệt thì buộc
họ phải cố kết với nhau để tồn tại “Tối lửa tắt đèn có nhau”, nên người ta có xu hướng
xem trọng xóm giềng hơn, mọi chuyện hỷ sự, hữu sự thì chỉ có xóm giềng là người hay
trước nhất và có thẻ hết mình san sẻ giúp đỡ “Bán bà con xa mua làng giềng gần”. Do
chịu sự hân hóa từ tính mở thống nên đa phần tính cách của cư dân Tây Nam bộ phần
nhiều thoải mái và rất hiếu khách, điều này thường biểu hiện qua việc
Lớp lưu dân đến đây đa số là người thành niên, ý thức hệ của họ đã được định hình
từ lâu khó mà thay đổi ngày một ngày hai, nhưng đến với vùng đất này để tồn tại thì họ
phải thay đổi dần, chuyện ăn ở chưa rành rọt sức đâu câu nệ những tục lệ cũ xưa. Việc
thay đổi phong tục, thói quen là điều tất yếu, mà ta hay gọi là “chế”. Lấy ví dụ cho việc

này, về quan niệm hôn nhân “Thuyền theo lái, gái theo chồng”, “xuất giá tịng phu”. Thì
-17-


tại nơi đây việc về làm dâu hay bắt rể là chuyện bình thường. Trên mâm cơm khơng câu
nệ về trật tự hình thức nếu như Bắc bộ đàn ơng ăn mâm trên, đàn bà mâm dưới thì tại
Tây Nam bộ mâm cơm lại thoải mái ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắc cả thảy đều ngồi
chung ăn uống thoải mái.
Người Việt vùng Tây Nam bộ thường dùng từ “kệ” không phải là bỏ mặc, mặc kệ
mà là “kệ đi, vậy cũng được rồi”. Họ thường không bắt lỗi nhau về hình thức mà xem
trọng nhau ở tấm lịng. Người Việt nơi nào cũng coi trọng mâm cúng ông bà. Song chỉ
có vùng Tây Nam bộ mới có hiện tượng mâm cúng khi dọn lên mà có đứa bé địi ăn, thì
nó được toại nguyện, bởi ta quan niệm “Kệ nó! Con nít mà, ơng bà đâu có trách” hay là
ông bà thường hay nhường con cháu ăn trước…
II. Tính Sơng nước
2.1 Cơ sở hình thành
Tây Nam bộ (Đồng Bằng Sông Cửu Long) tên gọi bắt nguồn một phần từ sơng
nước đủ để cho thấy tính sơng nước ở đây ản hưởng như thế nào đến con người.
Nơi đây là vùng sơng ngịi kênh rạch chằng chịt điển hình, nhiều hơn cả Bắc bộ và
Trung bộ. “Hình ảnh sơng nước đi vào khắp mọi mặt đời sống văn hóa vật chất tinh thần
của con người”. Con người sống nương nhờ vào sơng nước hịa hợp với nó chứ khơng
chống chọi lại với dịng sơng. Nước sơng vùng này khơng dữ dội mà hiền hịa như chính
con người nơi đây, bởi lẽ do một phần được sự chia nước vào Biền Hồ trên Campuchia
và khi đổ ra biển sông lại chia thành “chín cửa” nên lưu lượng nước ổn định hơn. Cho
nên vùng Tây Nam bộ khơng có đê như Bắc bộ và lũ về thì dân gọi là “nước nổi” …
2.2. Những biểu hiện
Nhà cửa cất bám theo kênh rạch bờ sông mặt tiền hướng ra sông, đào mươn nhỏ
đến sát nhà để đưa xuồng vào trong. Mọi sinh hoạt tắm, rửa, giặt giũ đều ở mươn sau
nhà, làm cái cầu nhỏ có bậc lên xuống gọi là sàn nước để tắm gội. Khơng chỉ có nhà
cửa, mà tất cả các đô thị ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long đều có vị trí ở ven sơng,

ven biển như Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh, Long Xuyên, Hà Tiên, Rạch Giá… Đủ để
thấy “Nhị cận giang”, tính quan trọng của sông nước trong cách sống của cư dân Tây
Nam bộ.

-18-


Do vùng này bị chia cắt mạnh bởi kênh rạch, sơng ngịi phần đường xá trên bộ
khơng mấy phát triển nên đã từ lâu việc đi lại của người dân chủ yếu là đường thuỷ, có
thể đi vùng Tây Nam bộ lan ra Đông Nam bộ chỉ bằng thuyền. “Sắm chiếc xuồng để
làm chân”- đám tiệc, đi xóm,rước bà mụ,làm ăn buôn bán, thậm chỉ đi ăn trộm cũng đều
dùng xuồng mà di chuyển. Làm đám cưới, đám giỗ cũng ấn định theo con nước. Người
đi thuyền nước xi có thể đi nhanh hơn người chạy bộ trên bờ. Ghe xuồng hết sức gắn
bó với cuộc sống của con người, đặc biệt trong buổi đầu khẩn hoang, khi đường bộ chưa
hình thành.
Việc bn bán trên sơng cũng hình thành từ đây dân cư tụ họp tại các ngã ba, ngã
năm, ngã bảy trên sông để buôn bán trao đổi hàng hóa dần hồi thì xuất hiện cái gọi là “
Chợ Nổi” từ chợ nổi mới xuất hiện them nghề mới chỉ có ở vùng sơng nước Tây Nam
bộ gọi là Thương Hồ và cũng xuất hiện theo đó bộ phận dân cư được gọi là “dân thương
hồ”. Đây là cái độc đáo nhất chỉ có ở vùng sơng nước Tây Nam bộ. Ngoài ra đa phần
mức sống của người dân Tây Nam bộ nhờ vào sông để đánh bắt cá, chài lưới, nuôi trồng
thủy sản…Thu lại được nguồn huê lợi lớn từ đây. Mùa nước lũ về như đã đề cập lũ hiền
hịa mang nguồn lợi vơ tận cho cư dân nên họ ln trơng chờ lũ…Tận dụng thích nghi
địa hình nơi đây người Việt vùng Tây Nam Bộ đã phát triển nghề ni vịt với quy mơ
lớn, chỉ có ở Tây Nam Bộ mới có sáng kiến độc đáo nuôi vịt chạy đồng- tận dụng lợi
thế của vùng sông nước nhất là sản xuất lúa tập trung.
Không chỉ về kinh tế mà cả về mặt quân sự ta thấy là cuộc đại phá quân Xiêm trên
sông tiền ở trận Rạch Gầm – Xoài Mút vào đầu năm 1785, hay việc Thoại Ngọc Hầu
được phái đào kênh Vĩnh Tế ở miền biên giới phía tây. Và khi đến thời cai trị của thực
dân Pháp chúng lại ráo riếc cho đào hàng hoạt các kênh với quy mô lớn như Bảo Định,

Xà No… với một mục đích là tận khai thác tài ngun nơi đây.
Tính sơng nước hiển hiện cả vào lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân. Nghe
hai người nói chuyện với nhau đi đâu đó thì có thể nghe được họ dùng từ “lội” thay vì
đi “lội bộ ra chợ…”, hay một phương tiện độc nhất vô nhị chỉ có Nam bộ ta mới bắt gặp
được là “chiếc xe đò”,hay việc đi nhờ một đoạn đường nào đó thay vì nói cho tơi đi nhờ
thì người Nam Bộ lại nói là “cho có (quá) giang”. Việc để chỉ thủy triều lên xuống thì
vùng này có hàng tá từ để diễn tả như nước ròng, nước rong, nước ương, nước giựt,
nước kém, nước sát, nước lớn, nước đứng… Hay riêng việc từ ngữ dùng chỉ các sự vật,
-19-


hiện tượng liên quan đến nước thì có: kinh, lạch, rạch, xẻo, láng,xáng, lung, bung, bưng,
bàu, đìa, vũng, vàm, hóc…
III. Tính Trọng nghĩa
3.1. Cơ sở hình thành
Tính nghĩa theo GS. Trần Ngọc Thêm đây không phải là một đặc sản của riêng
quốc gia nào. Nhưng tính Nghĩa lại biểu hiện khá cao ở các nước có sự ảnh hưởng của
Đạo Giáo, Nho giáo (Nhân - Lễ - Nghiã – Trí – Tín).
“Nghĩa” như một sản phẩm biểu hiện “tính người” thì có ở mọi nền văn hóa. Song
nó khơng phải là đặc trưng văn hóa truyền thống của Việt Nam. Chỉ khi người Việt Nam
đến Nam Bộ thì “chất nghĩa” mới trở nên nổi trội. Ở vùng đất Tây Nam Bộ, “nghĩa” và
tính trọng nghĩa trở thành một trong những phẩm chất quan trọng nhất, thành một đặc
trưng trong tính cách của người dân nơi đây.
Vào Nam Bộ là vùng đất mới của dân tứ xứ, con người không quen biết nhau,
nhưng là vì đất mới nên con người cần phải thương u đùm bọc nhau, từ đó ý địan kết
công đồng được nảy xin trong cộng đồng.
3.2. Những biểu hiện
Tính trọng nghĩa người Tây Nam Bộ thể qua cách cư xử và hành động thường
ngày: cốt là coi nhẹ tiền tài; cơng bằng lẽ phải và chí tốt thủy chung.
Trong ca dao dân ca Tây Nam Bộ ta thường thấy: “Ai chèo ghe bí qua sơng – Đạo

nghĩa vợ chồng nặng lắm ai ơi, đấy là trong đạo nghĩa về vợ chồng. Còn đối với xã hội
người Tây Nam Bộ đối xứ hết sức đặc trưng về tính trọng nghĩ, họ coi nhẹ tiền tài xem
trọng tính cảm với nhau tiền tài là vật ngoài tay, “Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã/Lâm
nguy bất cứ mạc anh hung” giúp đỡ nhau không mong sau này được đền đáp, hoặc như
Lục Vân Tiên trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyễn Đình Chiểu,
“Vân Tiên tả đột hữu xơng – Khác nào Triệu Tử phá vịng Đương Dang”- một mình

phá tang vịng vay của bọn ác ơn để cứu Kiều Nguyệt Nga mà khơng màng nguy hiểm,
cũng khơng phải vì cơ này là tiểu thư đài cát, giàu có gì…Mà chính là cái tính Nghĩa có
sẵn trong con người Tây Nam Bộ.

-20-


Trong chuyện mua bán người Tây Nam Bộ họ khá thoải mái ít kỳ kèo với nhau
một vài đồng bạc lẻ, mà đơi khi họ cịn cho thêm. Trong Đất Rừng Phương Nam của
Đồn Giỏi có cảnh “Ơng già lần lượt vát cả hai gỏi rắn to tướng lên bên, đặt xuống một
gốc cây bã đậu. Những người mua đã trực sẵn xung quanh. Ai trỏ con rắn nào,ơng già
thị tay vào giỏ bắt con rắn ấy. Nói bao nhiêu tiền, họ trả bấy nhiêu,không kỳ kèo ngã
giá như người các chợ tỉnh” .
D. KẾT LUẬN
300 năm lịch sử là 300 năm đấu tranh liên tục để tồn tại, từ khi đặt chân vào miền
đất mớ đầy cam go nguy hiểm. Ông cha ta phải cố gắng mỗi ngày để bám trụ, phải đánh
đổi bằng mồ hôi nước mắt và cả xương máu để cho mảnh đất này tươi đẹp như ngày
hơm nay. Văn hóa văn minh ấy cũng đi từ con số 0 mà nên, nó tưởng chừng là đơn giản,
nhưng phía sau ấy là ba thế kỷ máu lửa. Cái văn hóa Nam bộ nói chung và Tây Nam Bộ
nói riêng cũng có lúc thăng trầm, xung đột với các nền văn hóa hỗ tạp mới mẻ, để rồi
chúng hòa hợp với nhau thành một thể thống nhất và cùng nhau phát triển. Lớp người
cũ dần mất đi cùng với các văn hóa cũ khơng hợp thời thay vào đó là lớp người mới với
nền văn hóa mới tiến bộ hơn tiếp tục được phát huy bảo tồn và làm phong phú hơn bản

sắc người Tây Nam Bộ.

-21-


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Ngọc Thêm, Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ.
NXB Văn hóa – Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
/>2. Huỳnh Lứa, Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ
NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh
3. Sơn Nam, Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa Văn minh miệt vườn.
Nhà xuất bản Trẻ
4. Nguyễn Phương Thảo, Mãnh hổ giữa đồng hoang.
NXB Văn hóa dân tộc - 1993.
5. Huỳnh Ngọc Trảng, Truyện kể về cọp ở Nam bộ.
Kiến thức ngày nay số ra ngày 01.01.1998.
6. Đào Duy Hịa, Hương cả... hổ.
Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số xuân Mậu Dần 1998.
7. Nguyễn Phúc Nghiệp, Cọp ở Nam bộ.
Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số ra ngày 15.06. 1992.
8. Đài truyền hình Vĩnh Long (THVL), Phóng sự tài liệu Nam Bộ Xưa và Nay.
/>
-22-


×