Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Quảng bá hình ảnh văn hóa việt nam qua lễ hội giỗ tổ hùng vương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.2 KB, 23 trang )

MỤC LỤ

MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
1.

Lí do chọn đề tài:...................................................................................1

2.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:.........................................................2

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:......................................................3

4.

Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu..........................................3

CHƯƠNG 1:....................................................................................................3
1.1, Nhận thức về nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của
Việt Nam........................................................................................................3
1.2, Nét đậm đà bản sắc dân tộc trong văn hóa Việt Nam....................7
CHƯƠNG 2:....................................................................................................8
2.1, Sự hình thành và ý nghĩa của lễ hội truyền thống.............................9
2.2, Lịch sử và ý nghĩa ngày giỗ tổ Hùng Vương.....................................10
2.2.1. Lịch sử hình thành........................................................................11
2.2.2. Thành tựu......................................................................................13
2.3. Trình tự lễ hội đền Hùng- giỗ tổ Hùng Vương.................................14
CHƯƠNG 3:..................................................................................................18
3.1. Bảo vệ và phát huy văn hóa trong thời kì hội nhập........................18


3.2. Sinh viên cần phải làm gì để củng cố và phát triển tính chất tiên
tiến và đậm đà bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam...........................19
KẾT LUẬN....................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................22

1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong q trình phát triển, mỗi tộc người đều sáng tạo cho mình một
nền văn hóa. Trải qua thời gian, những thành tố văn hóa của tộc người khơng
ngừng được bổ sung, đồng thời những thành tố khơng cịn phù hợp có thể mất
đi, hoặc thay đổi trong môi trường mới. Người Việt hàng ngàn năm nay, một
mặt, vừa chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, với các kẻ thù xâm lược,
mặt khác, đã sáng tạo cho mình những giá trị văn hóa, đồng thời, lại tiếp thu
có chọn lọc những giá trị văn hóa ngoại sinh, làm phong phú văn hóa Việt và
văn hóa Việt Nam. Tất cả những giá trị văn hóa đó đã tạo nên bản sắc và sức
mạnh để Việt Nam tiếp bước trên con đường phát triển, để thực hiện được
mục tiêu cao quý: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà Việt Nam đang trên con đường hội nhập thì
việc nghiên cứu văn hóa người Việt và văn hóa Việt Nam khơng chỉ giúp cho
người đọc thấy được sự kế thừa và sáng tạo trong chiều dài lịch sử, mà cịn
thấy được những giá trị đích thực tạo nên sức mạnh cho sự phát triển hơm
nay. Khi nói đến giá trị văn hóa truyền thống là nói đến những chuẩn mực
văn hóa được mọi người tin tưởng, chúng xác định những cái mà con người
mơ ước để hướng tới. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con
người. Qua hang ngàn năm lịch sử, cùng với sự thay đổi của các phương thức
sản xuất, nền văn hóa nước ta cũng có những bước chuyển đổi khá mạnh mẽ
dựa vào nền tảng có sẵn là bản sắc dân tộc. Mặc cho bao thăng trầm biến đổi,

từ chiến tranh cho tới đơ hộ, nền văn hóa Việt Nam vẫn giữ được sắc thái
riêng cho mình. Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển để hịa nhập
cùng thế giới, vấn đề phát triển văn hóa Việt Nam đang là vấn đề cấp bách, rất
được Đảng và tồn dân quan tâm.
Với mong muốn tìm hiểu sâu thêm về các giá trị văn hóa Việt, tìm ra
hướng phát huy những truyền thống tốt đẹp ấy, em đã chọn đề tài “ Quảng bá
2


hình ảnh văn hóa Việt Nam qua lễ hội giỗ tổ Hùng Vương” cho bộ môn
thông tin đối ngoại. Qua đó giới thiệu cho bạn bè quốc tế về truyền thống văn
hóa tốt đẹp này của dân tộc.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
Bài tiểu luận nhằm khẳng định một nét đẹp văn hóa tốt đẹp của đất
nước Việt Nam, tiêu biểu cho truyền thống lâu đời của người dân đất Việt về
sự biết ơn cội nguồn. Đồng thời giới thiệu cho bạn bè thế giới hiểu rõ và có
cái nhìn sắc nét hơn về tổng quan văn hóa về một đất nước có bề dày lịch sử
văn hóa lâu đời.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Tập chung nghiên cứu lịch sử, ý nghĩa truyền thống và các hoạt động
của lễ hội giỗ tổ Hùng Vương ( Phú Thọ)

4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
+, Cơ sở lí luận: Dựa trên lịch sử hình thành và ý nghĩa to lớn của
truyền thống “uống nước nhớ nguồn”.
+, Phương pháp nghiên cứu: Tổng hợp, phân tích những giá trị văn hóa
đặc sắc trong lễ hội, đồng thời vẫn đặt trong mối quan hệ nền văn hóa từ xưa
đến nay của dân tộc để thấy rằng: đã có sự kế thừa và phát huy trong truyền

thống giữu gìn bản sắc phong tục tập quán. Huy động tối đa những hiểu biết
đã tích lũy được của bản than và tham khỏa các tài liệu có lien quan như: Văn
hóa học, báo Văn hóa, Thể thao và Du lịch,...

3


CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1, Nhận thức về nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của Việt
Nam
Bản sắc văn hóa Việt Nam là tố chất được hợp luyện cùng chiều với
lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên,
bản sắc đó khơng phải là một hằng số, là những giá trị bất biến, mà có những
giá trị mới được hình thành, bồi tụ trong từng giai đoạn kế tiếp nhau.
Trong giai đoạn này, Đảng và nhà nước ta đang tiến tới xây dựng một
nền kinh tế mới, hội nhập với thế giới. Chúng ta đang sống trông một thế giới
hiện đạibiến chuyển nhanh chóng, đang diễn ra q trình tồn cầu hóa, sự hội
nhập khu vực và thế giới với một tốc độ rất nhanh, từ đó nảy sinh nhu cầu mở
rộng giao lưu giữa các nền văn hóa. Trong khi chú trọng giữu gìn , phát huy
các truyền thống văn hố tinh thần tốt đẹp của dân tộc, văn hóa Việt Nam cần
từng bước mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới
và thời đại. Nền văn hóa của chúng ta sẽ đa dạng hơn, phong phú hơn, tiên
tiến hơn nhờ hấp thụ được những yếu tố lành mạnh của văn hóa thế giới.
Tuy nhiên, một mặt tồn cầu hóa một mặt tạo cho các quốc gia học tập
lẫn nhau, vận dụng các tiến bộ của khoa học, công nghệ để thúc đẩy kinh tế,
mặt khác q trình tồn cầu hóa có thể làm triệt tiêu sự khác biệt về văn hóa
các dân tộc, đơng nhất các giá trị truyền thống của mỗi quốc gia, làm xói mịn
ý thức dân tộc, dẫn đến nguy cơ đồng hóa. Bởi vậy việc đặt ra những định
hướng trong hội nhập, tiếp thu những tinh hoa trong văn hóa của các nước

một cách có chọn lọc là điều hết sức cần thiết. Trong đó, bản sắc dân tộc giữ
4


vai trị khơng nhỏ trong việc hội nhập và thế giới. Mỗi quốc gia đều có những
truyền thống, những bản sắc riêng của mình, chũng ta cần giữu gìn và phát
huy bản sắc dân tộc, một mặt để đem những tinh hoa của mình để giao lưu với
các nước, một mặt giúp chúng ta “hịa nhập chứ khơng hịa tan”. Vì lẽ đó, vấn
đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc có ý nghĩa hết sức to lớn
không chỉ đối với Đảng và Nhà nước mà nó là nhiệm vụ của tồn dân tộc Việt
Nam.
Để làm rõ vấn đề này, ta sẽ đi trả lời một số câu hỏi:
+, Văn hóa là gì?
Từ xưa, nền “văn hiến” ( văn hóa) lâu đời của dân tộc đã có trong niềm
tự hào của cha ơng ta khi khẳng định về độc lập, chủ quyền của đất nước
trước kẻ thù xâm lược. Văn hóa là một di sản cực kỳ quý báu được kế thừa từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày hơm nay, văn hóa giao tiếp, văn hóa kinh
doanh, văn hóa tranh luận, phê bình… văn hóa là hành trang của đất nước trên
con đường hội nhập quốc tế.
Để có một quan niệm đầy đủ, tồn diện về văn hóa quả khơng phải là
điều đơn giản. Có rất nhiều quan niệm đã được đưa ra vì mỗi cá nhân, mỗi tác
giả lại đứng trên một góc độ khác nhau để nhìn nhận về văn hóa. Có người
cho rằng, văn hóa gồm văn hóa vật chất và văn háo tinh thần; văn hóa là tổng
thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định
tinh thần của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Cũng có
người cho rằng, văn hóa theo nghĩa rộng là, tồn bộ đời sống tinh thần của xã
hội gồm tám lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, lối sống, giáo dục đào tạo, khoa học
công nghệ, văn học nghệ thuật, giao lưu văn hóa, thơng tin đại chúng, thể chất
văn hóa, đời sống văn hóa. Nghĩa hẹp gồm nếp sống, lối sống, văn học nghệ
thuật, thơng tin đại chúng, xuất bản báo chí, phong tục tập quán, đạo đức xã

hội và chuyên ngành nghiệp vụ văn hóa,
Văn hóa được hiểu theo những góc độ tiếp cận khác nhau. Chủ tịch Hồ
Chí Minh, danh nhân văn hóa thế giới, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta đã nói: “
5


Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và
phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn ở và
phương thức sử dụng. Tồn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa”.
Như vậy, lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm của văn hóa. Để trở thành
văn hóa đích thực thì những sáng tạo đó phải hướng về các giá trị nhân văn,
hoàn thiện nhận thức, nhân cách con người. Các giá trị quý báu đó góp phần
làm nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, dân tộc.
+, Bản sắc dân tộc là gì?
Cốt lõi của văn hóa là bản sắc dân tộc. Từ xưa đến nay, bản sắc văn hóa
dân tộc làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng người Việt Nam vượt qua
biết bao song gió, thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua để không
ngừng phát triển và lớn mạnh. Đó là điểm tựa vững chăc để chúng ta đến với
thế giới.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam gồm những giá trị bền vững, những
tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp trong lịch sử hang ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữu nước, hình thành qua nhiều thế hệ, tầng nấc
thang biến đổi, phát triển. Vì thế, nó kết tinh những gì đặc sắc nhất, đẹp đẽ
nhất, độc đáo nhất của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nó có giá trị bền vững,
trường tồn cùng thời gian, nó như chất keo kết nối cộng đồng người gắn bó
với nhau, để cùng tồn tại và phát triển. Biểu hiện cụ thể của nó là: lịng u
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân- gia đình-làng xã- Tổ quốc, lịng nhân ái, khoan dung, trọng
nghĩa đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử,

tính giản dị trong lối sống… Bản sắc dân tộc cịn đậm nét cả trong các hình
thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:
cách tư duy, cách sống, cách dựng nước, giữ nước, cách sáng tạo trong văn
hóa, khoa học, văn học, nghệ thuật,… nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là
6


trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của một nền văn hóa. Nó là cơ sở tinh
thần cho sự ổn định xã hội và sự vững vàng của chế độ. Trong sự tiến bộ và
phát triển của xã hội, các giá trị này thường không biến mất mà hóa than vào
các giá trị của thời sau, theo quy định kế thừa và tái tạo.
Con người không thể sống tách khỏi cộng đồng cũng như mỗi dân tộc
không thể sống biệt lập với thế giới. Trong lịch sử, các quốc gia ln có sự
tiếp xúc giao lưu với nhau qua các cuộc di cư lớn, chiến tranh xâm lược, trao
đổi kinh tế, vật phẩm, quan hệ hôn nhân, ngoại giao… Và như thế bản sắc văn
hóa dân tộc khơng chỉ được hình thành nên bằng những yếu tố bản than vốn
có mà cịn có sự tiếp nhận, biến đổi văn hóa nước ngồi sao cho phù hợp, để
nâng lên thành cái riêng đặc sắc của từng dân tộc. Với những ý nghĩa và giá
trị của mình, bản sắc văn hóa của dân tộc có sức sống trường tồn
Qua giao lưu hội nhập, nền văn hóa nước ngồi song song tồn tại cùng
văn hóa các dân tộc Việt Nam. Bản sắc dân tộc không đồng nghĩa với quá
khứ, nó vẫn khơng ngừng tiếp thu những cái mới để làm phong phú cho mình,
tuy nhiên cái bản chất, tinh hoa thì khơng bao giờ được thay đổi, mà phải
được giữu gìn, vun đắp. Đó là phí khách, tâm hồn, bản lĩnh dân tộc, là cơ sở
để dân tộc ta hịa nhập với tiến trình giao lưu quốc tế mà khơng tự đánh mất
mình.
1.2, Nét đậm đà bản sắc dân tộc trong văn hóa Việt Nam
Nước ta có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có những sắc thái, địa bàn
riêng, chúng bổ sung cho nhau làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng

cố sự thống nhất dân tộc. Điều đó cho chũng ta thấy nền văn hóa nước ta là
nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc. Vốn văn hóa
truyền thống của dân tộc được gìn giữ và phát huy qua nhiều hoạt động văn
hóa.
Bản sắc văn hóa dân tộc là một chính thể đồ sộ, phong phú nằm trong
tất cả các lĩnh vực, ví dụ như: tri thức, triết học tư tưởng, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục, tập qn, ngơn ngữ… nó vừa là “ trầm
7


tích” của tình cảm và ý thức dân tộc trong quá khứ, vừa là kết tinh của tinh
thần thời đại và định hướng giá trị dân tộc.
Việt Nam là đất nước của lễ hội quanh năm, nhất là vào mùa xn, nơng
nhàn. Các Tết chính là tết Ngun đán, tết Rằm tháng Giêng, tết Hàn Thực,
tết Đoan Ngọ, tết Rằm tháng Bảy, tết Trung Thu, tết Ông táo… Mỗi vùng
thường có lễ hội riêng, quan trọng nhất là các lễ hội nông nghiệp( cầu mưa,
xuống đồng, cơm mới…) các lễ hội nghề nghiệp ( đúc đồng, rèn, pháo, …).
Người Việt tự nhận là thuộc về họ Hồng Bàng, giống Tiên Rồng( Hồng
Bàng là tên một loài chim nước lớn, Tiên là sự trừu tượng hóa một giống
chim đẻ trứng, Rồng sự trừu tượng hóa từ rắn, cá sấu). Rồng sinh ra từ nước
bay lên trời là biểu trưng độc đáo đầy ý nghĩa của dân tộc Việt Nam.
Trong tín ngưỡng sung bái con người, phổ biến nhất là tục thờ cúng tổ
tiên, gần như trở thành một thứ tôn giáo của người Việt. Việt nam trọng ngày
mất là dịp cúng giỗ hơn ngày sinh. Nhà nào cũng thờ Thổ công là vị thần
trơng coi gia cư, giữ gìn họa phúc cho cả nhà. Làng nào cũng thờ Thành
Hoàng Làng- vị thần cai quản che chở cho cả làng.
Về lĩnh vực văn học, văn học Việt Nam xuất hiện khá sớm, có hai thành
phần là văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian chiếm vị trí quan
trọng ở Việt Nam, có cơng lớn gìn giữu phát triển ngôn ngữ dân tộc, nuôi
dưỡng tâm hồn nhân dân. Sáng tác dân gian gồm thần thoại, sử thi, truyền

thuyết, cổ tích, truyện cười, câu đố, tục ngữ, ca dao,… với nhiều màu sắc các
dân tộc ở Việt Nam.
Bản sắc dân tộc Việt Nam, với một lịch sử có từ hang nghìn năm của
người Việt Nam cùng với những hội tụ về sau của các dân tộc khác, từ văn
hóa bản địa của người Việt cổ từ thời Hồng Bàng đến những ảnh hưởng từ
bên ngồi trong hang nghìn năm nay, với những ảnh hưởng từ xa xưa của
Trung Quốc và Đông Nam Á đến những ảnh hưởng của Pháp tuwg thế kỉ 19,
phương Tây trong thế kỉ 20 và toàn cầu hóa từ thế kỉ 21, Việt Nam đã có
những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những khía cạnh mất
8


đi nhưng cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền văn hóa
Việt Nam hiện đại.

CHƯƠNG 2:
VĂN HÓA VIỆT NAM QUA LỄ HỘI GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG

2.1, Sự hình thành và ý nghĩa của lễ hội truyền thống.
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hố, sản phẩm tinh thần
của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Người
Việt Nam từ hàng ngàn đời nay có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Lễ
hội là sự kiện thể hiện truyền thống q báu đó của cộng đồng, tơn vinh
những hình tượng thiêng, được định danh là những vị “Thần” - những người
có thật trong lịch sử dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các vị thần linh đã
hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng chống
giặc ngoại xâm; những người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp;
những người chống chọi với thiên tai, trừ ác thú; những người chữa bệnh cứu
người; những nhân vật truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp
con người hướng thiện, giữ gìn cuộc sống hạnh phúc... Lễ hội là sự kiện

tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân tộc.
Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay
nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người.

9


(hanoimoi.com.vn – 500x333)
Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn
là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đồn kết để vượt
qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá
vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, chuyển
giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị ðạo
ðức truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố
tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí...

Lễ hội là dịp con người được giải toả, dãi bày phiền muộn, lo âu với
thần linh, mong được thần giúp đỡ, chở che đặng vượt qua những thử thách
đến với ngày mai tươi sáng hơn.
2.2, Lịch sử và ý nghĩa ngày giỗ tổ Hùng Vương
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
10


Câu ca dao đậm đà tình nghĩa đã đi vào lòng mỗi người dân Việt Nam
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hàng ngàn năm nay, Đền Hùng - nơi cội

nguồn của dân tộc, của đất nước luôn là biểu tượng tơn kính, linh nghiêm quy
tụ và gắn bó với dân tộc Việt Nam.
Theo truyền thuyết thì Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem như là
Thủy Tổ người Việt, cha mẹ của các Vua Hùng. Lễ hội Đền Hùng còn được
gọi là ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch
hàng năm tại Đền Hùng, Việt Trì, Phú Thọ. Trước đó hàng tuần, lễ hội đã diễn
ra với nhiều hoạt động văn hoá dân gian và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm
lịch với Lễ rước kiệu và dâng hương tại Đền Thượng.

(hanoimoi.com.vn – 600x350)

2.2.1. Lịch sử hình thành
Từ xa xưa Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã có vị thế đặc biệt trong tâm
thức của người Việt. Bản ngọc phả viết thời Trần, năm 1470 đời vua Lê Thánh
Tơng và đời vua Lê Kính Tơng năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền
Hùng, nói rằng: “...Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến
triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngơi đền
11


ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc
cúng tế vẫn không thay đổi...”.
Như vậy, có thể hiểu từ thời Hậu Lê trở về trước các triều đại đều quản
lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng
bái, làm Giỗ Tổ ngày 10 tháng 3 âm lịch. Bù lại họ được miễn nộp thuế 500
mẫu ruộng, miễn đóng sưu, miễn đi phu đi lính.
Đến đời nhà Nguyễn vào năm Khải Định thứ 2 (1917), Tuần phủ Phú
Thọ Lê Trung Ngọc đã trình bộ Lễ định ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm
làm ngày Quốc tế (Quốc lễ, Quốc giỗ). Điều này được tấm bia Hùng Vương

từ khảo do Tham tri Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo
Đại thứ 15 (1940) cũng đang đặt ở Đền Thượng trên núi Hùng, xác nhận:
“Trước đây, ngày Quốc tế lấy vào mùa thu làm định kỳ. Đến năm Khải Định
thứ hai (dương lịch là năm 1917), Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc có
cơng văn xin bộ Lễ ấn định ngày mồng Mười tháng Ba hằng năm làm ngày
Quốc tế, tức trước ngày giỗ tổ Hùng Vương đời thứ 18 một ngày. Còn ngày
giỗ (11 tháng Ba) do dân sở tại làm lễ”. Kể từ đây, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương
ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm được chính thức hóa bằng luật pháp.
Sau cách mạng tháng Tám (1945) Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm tới
Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước
đều đã về thăm viếng tại đây. Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất
là đạo đức “uống nước nhớ nguồn”, ngay sau cách mạng thành cơng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh của Chủ Tịch nước số 22/SL - CTN ngày 18
tháng 2 năm 1946 cho công chức nghỉ ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm để
tham gia tổ chức các hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương - hướng về cội nguồn
dân tộc.
Trong ngày Giỗ Tổ năm Bính Tuất (1946) - năm đầu tiên của Chính
phủ mới được thành lập, cụ Huỳnh Thúc Kháng - Quyền Chủ tịch nước đã
dâng một tấm bản đồ Tổ quốc Việt Nam và một thanh gươm quý nhằm cáo
với Tổ tiên về đất nước bị xâm lăng và cầu mong Tổ tiên phù hộ cho quốc
12


thái dân an, thiên hạ thái bình cùng nhau đồn kết, đánh tan giặc xâm lược,
bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã có hai lần về thăm Đền Hùng
(19/9/1954 và 19/8/1962). Tại đây Người đã có câu nói bất hủ: “Các Vua
Hùng đã có cơng dựng nước - Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Người còn nhắc: “Phải chú ý bảo vệ, trồng thêm hoa, thêm cây cối để Đền
Hùng ngày càng trang nghiêm và đẹp đẽ, thành công viên lịch sử cho con

cháu sau này đến tham quan”.

2.2.2. Thành tựu
Năm 1995, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã được Ban Bí thư ghi trong
thơng báo là ngày lễ lớn trong năm. Ngành Văn hóa thơng tin - thể thao phối
hợp với các ngành chức năng đã tổ chức lễ hội trong thời gian 10 ngày (từ 1/3
đến 10/3 âm lịch).
Tại Nghị định số 82/2001/NĐ-CP ngày 06/11/2001 về Nghi lễ Nhà
nước, trong đó có nội dung quy định cụ thể về quy mô tổ chức Giỗ Tổ Hùng
Vương, cụ thể như sau:
- “Năm chẵn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “0”; Bộ Văn hố Thơng tin và Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức Lễ hội; mời đại diện
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể dự Lễ dâng hương.
- “Năm trịn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “5”; Ủy ban Nhân dân
tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc
hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể dự Lễ dâng hương.
- “Năm lẻ” là số năm kỷ niệm có các chữ số cuối cùng còn lại. Ủy ban Nhân
dân tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời lãnh đạo Bộ Văn hố - Thơng tin dự lễ
dâng hương và tổ chức các hoạt động trong lễ hội.
13


Ngày 02/4/2007, Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã phê chuẩn sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Luật Lao động cho người lao động
được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (10/3 âm
lịch). Kể từ đây, ngày 10/3 âm lịch hàng năm đã trở thành ngày lễ lớn QUỐC LỄ mang ý nghĩa bản sắc văn hóa dân tộc.
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương hằng năm là ngày hội chung của toàn dân,
ngày mà mọi trái tim dù đang sống và làm việc ở muôn nơi vẫn đập chung
một nhịp, mọi cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng. Trong ngày này, nhân

dân cả nước cịn có điều kiện để tham gia vào các hoạt động văn hóa thể hiện
lịng thành kính tri ân các Vua Hùng đã có cơng dựng nước và các bậc tiền
nhân đã vì dân giữ nước.
Trong hồ sơ đề trình UNESCO cơng nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương” là di sản văn hoá thế giới đã nêu rõ giá trị của di sản là thể hiện lịng
tơn kính đối với tổ tiên, theo tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc
Việt Nam. Theo đánh giá của các chuyên gia UNESCO, “Tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương” đã đáp ứng được tiêu chí quan trọng nhất trong 5 tiêu chí,
đó là, di sản có giá trị nổi bật mang tính tồn cầu, khích lệ ý thức chung của
mọi dân tộc trong việc thúc đẩy giá trị đó. Vì vậy, ngày 6/12/2012, UNESCO
đã chính thức cơng nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ”,
biểu tượng của tinh thần đại đoàn kết, truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ
nguồn” của dân tộc Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại.
Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng còn là dịp để giáo dục truyền
thống “Uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có cơng
dựng nước và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước,
đồng thời còn là dịp quan trọng để chúng ta quảng bá ra thế giới về một Di
sản vô cùng giá trị, độc đáo, đã tồn tại hàng nghìn năm, ăn sâu vào tâm hồn,
tình cảm, trở thành đạo lý truyền thống của đồng bào cả nước, kiều bào ta ở
nước ngoài, là ngày để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng nguyện một
14


lòng mãi mãi khắc ghi lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các Vua
Hùng đã có cơng dựng nước - Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
2.3. Trình tự lễ hội đền Hùng- giỗ tổ Hùng Vương
Cũng như mọi lễ hội khác ở đồng bằng Bắc Bộ, ở lễ hội đền Hùng gồm
có 2 phần: Phần lễ và phần hội.
Phần tế lễ được cử hành rất trọng thể mang tính quốc lễ. Lễ vật dâng cúng là

“lễ tam sinh" (1 lợn, 1 dê và 1 bò), bánh chưng, bánh dày và xơi nhiều màu,
nhạc khí là trống đồng cổ. Sau khi một hồi trống đồng vang lên, các vị chức
sắc vào tế lễ dưới sự điều khiển của chủ lễ. Tiếp theo đến các cụ bô lão của
làng xã sở tại quanh đền Hùng vào tế lễ Giỗ tổ Hùng Vương. Sau cùng là
nhân dân và du khách hành hương vào tế lễ trong các đền thờ, tưởng niệm các
vua Hùng.
Phần hội trong Lễ hội Đền Hùng – Giỗ Tổ Hùng Vương
Sau phần lễ là đến phần hội. Trong lễ Giỗ tổ Hùng Vương năm nào cũng tổ
chức cuộc thi kiệu của các làng xung quanh. Với sự xuất hiện của các đám
rước linh đình mà khơng khí lễ hội trở nên tưng bừng náo nhiệt hơn. Các cỗ
kiệu của các làng phải tập trung trước vài ngày thì mới kịp cuộc thi. Ví dụ nhý
nếu nhý cỗ kiệu nào ðoạt giải nhất của kỳ thi nãm nay 2015, thì đến kỳ hội
sang năm sau được thay mặt các cỗ kiệu còn lại, rước lên đền Thượng để triều
đình cử hành quốc lễ. Vì vậy, cỗ kiệu nào đoạt giải nhất thì đó là niềm tự hào
và vinh dự lớn lao của dân làng ấy. Bởi họ cho rằng, đã được các vua Hùng
cùng các vị thần linh phù hộ cho nhiều may mắn, nhân khang, vật thịnh... Tuy
nhiên, để có được đám rước các cỗ kiệu đẹp lộng lẫy phải chuẩn bị rất công
phu và chu đáo từ trước. Những khó khăn vất vả của dân làng đã thôi thúc họ
vượt qua được để đến với cái linh thiêng cao thượng và hướng về Tổ tiên
giống nịi. Đó là đời sống tâm linh của dân chúng, được biểu hiện rõ nét qua
một hình thức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng dân gian cổ truyền mang tính
cộng cảm với cộng mệnh sâu sắc. Sinh hoạt văn hóa dân gian này đã thành

15


nhu cầu không thể thiếu được đối với các cộng đồng làng xã cư trú quanh đền
Hùng.

Lễ rước kiệu đền Hùng( Phú Thọ)

Mỗi một đám rước kiệu có 3 cỗ kiệu đi liền nhau. Chúng đều được sơn
son thiếp vàng, chạm trổ rất tinh xảo. Sự bày biện trang trí trên cỗ kiệu cũng
rất khéo léo và đẹp mắt. Cỗ kiệu đi đầu trong lễ giỗ Tổ Hùng Vương được bày
hương hoa, đèn nhang, trầu cau, chóe nước và bầu rượu. Cỗ kiệu thứ 2 có đặt
hương án, bài vị của Thánh, có lọng và quạt cho với nhiều sắc màu trang
hồng tơn nghiêm. Cỗ thứ 3 rước bánh chưng và bánh dày, 1 cái thủ lợn luộc
để nguyên, đi sau 3 cỗ kiệu này là các vị quan chức và bơ lão trong làng. Các
vị chức sắc thì mặc áo thụng theo kiểu các bá quan triều đình, cịn các cụ bô
lão cũng mặc áo thụng đỏ, hoặc mặc quần trắng, áo the, đầu đội khăn xếp.
Trong hội Đền Hùng, nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương có tiến hành nghi lễ hát
thờ (tục gọi là hát Xoan). Đây là một lễ thức, một phong tục tập quán rất
quan trọng và độc đáo. Dân gian truyền rằng hát Xoan xưa kia gọi là hát Xuân
và điệu múa hát Xoan có từ thời Hùng Vương và được lưu truyền rộng rãi
trong dân cư của các làng xã quanh vùng. Điệu múa hát Xoan này được nhiều
người ưa thích, đặc biệt là bà Lan Xuân, vợ của vua Lý Thần Tông. Bà đã
16


cảm nhận được âm hưởng dân ca đặc biệt và độc đáo của nó, nên bà đã cho
sưu tầm và cải biên thành điệu hát thờ tại một số đền, đình làng thờ các vua
Hùng.
Mở đầu lễ hội Giỗ tổ Hùng Vương, ông trùm phường Xoan Kim Đức phường nổi tiếng - cùng chủ tế đứng trước hương án hát chúc bằng bài khấn
nguyện. Sau đó là một kép trẻ đeo trống nhỏ trước ngực ra làm trò giáo trống,
giáo pháo. Tiếp theo, bốn cô đào ra hát thơ nhang và dâng hương bằng giọng
hát lề lối. Rồi đến những bài ca ngợi thánh thần kết thúc phần nghi lễ của
Xoan.
Ở đền Hạ có hát ca trù (gọi là hát nhà tơ, hát ả đào) Đây cũng là loại hát
thờ trước cửa đinh, mừng dâng thành trong dịp hội làng, do phường hát Do
Nghĩa trình diễn.
Ngồi sân đền Hạ, ở nơi thống đãng có đu tiên. Mỗi bàn đu có hai cô

tiên (cô gái Mường trẻ mặc đẹp) ngồi. Đu quay được là do các cô luân phiên
lấy chân đạp đất. Đu tiên là trò chơi đẹp mắt, nhịp nhàng của phụ nữ. Xung
quanh khu vực dưới chân núi Hùng là các trò diễn và trò chơi dân gian cổ
truyền, diễn ra rất sôi động, được nhiều người tham dự như trị chơi ném cơn,
chơi đu, đầu vật, chọi gà,... Những trị đánh cờ người và tổ tơm điếm được các
cụ cao niên tâm đắc. Còn các đám trai gái tụm năm, tụm ba trên các đồi đó trổ
tài hát ví, hát trống quân hoặc hát đối đáp giao duyên…Tối đến có tổ chức hát
chèo, hát tuồng ở các bãi rộng ngay cửa đền Hạ hoặc đền Giếng…

17


CHƯƠNG 3:
GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VĂN HĨA TỐT ĐẸP
3.1. Bảo vệ và phát huy văn hóa trong thời kì hội nhập
Thế giới ngày càng vận động đến xu hướng hội nhập. Ảnh hưởng và
giao lưu văn hóa ngày càng mạnh mẽ. Ngày nay chúng ta không thể khơng
tiếp nhận văn hóa thế giới bởi lẽ nếu khơng tiếp nhận văn hóa thế giới thì
tình trạng lạc hậu, chậm phát triển càng thêm trầm trọng và nặng nề. Điện
thoại di động, máy vi tính, ti vi cũng như rất nhiều những sản phẩm điện tử,
công nghệ sinh học, hóa học, lý học đang tràn ngập thế giới và trở thành
những điều không thể thiếu trong đời sống vật chất và tinh thần của con
người Việt Nam. Bên cạnh mặt tốt bởi ích lợi của nó cũng biểu hiện rất nhiều
lo ngại về ảnh hưởng mặt trái của nó. Một số biểu hiện cần phải được quan
tâm suy ngẫm để làm sao những giá trị văn hóa truyền thống mang bản sắc
văn hóa Việt Nam được lưu giữ, bảo tồn và phát huy trong đời sống của con
người Việt Nam.
Bảo tồn cũng phải có sự lựa chọn để bảo tồn, sử dụng những yếu tố
văn hóa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Lễ hội là văn hóa truyền
thống nhưng tình trạng ngày nay tổ chức q nhiều lễ hội vừa tốn kém, vất

vả và nguy cơ bị mê tín dị đoan hóa đấy là chưa kể có những hiện tượng lợi
dụng lễ hội cầu lợi và làm lợi cho cá nhân.
Giữ gìn bản sắc văn hóa là một yêu cầu vừa lâu dài vừa cấp thiết. Cần
phải có kế hoạch và giải pháp đồng bộ về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
Việt Nam. Đây là công việc không phải của một ngành mà phải là của tồn xã
hội. Phải có phương châm giáo dục về văn hóa một cách quy củ, hệ thống.
Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Trần Ngọc Thêm đã viết: “Một mơn học về văn hóa
dân tộc với mấy chục tiết trong nhà trường chỉ là những hạt mưa, trong khi
thơng tin ngồi xã hội hàng ngày là những cơn lũ: Thử điểm xem trên các
phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày có bao nhiêu phim, bài có nội
dung giáo dục về văn hóa dân tộc và có bao nhiêu phim, bài giới thiệu về các
18


loại mốt, về đời tư các người mẫu, siêu sao, về các vụ án đầy tình tiết giật gân
và bạo lực? Các báo đài nên mở (nếu đã mở rồi thì tăng cường) các chun
mục tìm hiểu về văn hóa dân tộc, qua đó thanh niên sẽ biết được nguồn gốc, ý
nghĩa, lí do tồn tại, phạm vi sử dụng…của các phong tục, sản phẩm văn hóa.
Biết được ý nghĩa sâu xa của tục thờ cúng tổ tiên, thanh niên sẽ không phũ
phàng tới mức “nại cớ bận công tác, đợi gần giờ ăn mới đưa vợ đến thắp vội
nén nhang, ngồi ăn dứt điểm cho lẹ rồi lại “bận công tác để chuồn cho nhanh”
(Báo Tuổi trẻ, ngày 2-11-1995). Hiểu được chỗ hay và biết cách thưởng thức,
thanh niên sẽ bớt thờ ơ với các loại hình sân khấu truyền thống của Việt Nam
mà thế giới đang hết lời ca ngợi như chèo, tuồng, múa rối nước, cải lương…
Biết được lí do tồn tại và phạm vi sử dụng của một nhiện tượng văn hóa nước
ngồi, thanh niên sẽ khơng học địi chạy theo đến mức mù qng. Hiểu được
về văn hóa sẽ hạn chế được hàng loạt sai sót đáng tiếc xảy ra khá thường
xuyên trong cuộc sống và trên các báo đài!”
3.2. Sinh viên cần phải làm gì để củng cố và phát triển tính chất tiên tiến
và đậm đà bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam.

Bản sắc văn hóa dân tộc được coi là tấm giấy thông hành để mỗi con
người bước ra với cộng đồng nhân loại mà không bị trộn lẫn. Điều này càng
có ý nghĩa quan trọng khi chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường, giao
lưu và hội nhập với thế giới trong xu thế tồn cầu hóa. Bởi vậy, việc giữ gìn,
củng cố và phát triển tính chất tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là nhiệm vụ
quan trọng xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước
Là một sinh viên, một bộ phận quan trọng của dân tộc, là trụ cột tương
lai của nước nhà, cần phải nhận thức rõ được tầm quan trọng đối với nhiệm
vụ giữu gìn và phát huy bản sắc dân tộc, phải có nhận thức đúng đắn về các
giá trị văn hóa dân tộc từ đó nâng cao trách nhiệm bản thân về bảo vệ và phát
triển văn hóa cội nguồn.
Trước hết, đối với góc độ là một cơng dân Việt Nam, phải luôn tin tưởng
vào đường lối của Đảng, có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì
19


độc lập và chủ nghĩa xã hội, có chí vươn lên đưa đất nước thốt khỏi nghèo
nàn lạc hậu, đồn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; cần có lối sống lành mạnh,
nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương
phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường
sinh thái.
Đối với góc độ là một người sinh viên, phải biết “tơn sư, trọng đạo” giữu
gìn đạo đức, nhân cách của bản thân; có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì
lợi ích chung; thường xun học tập trau dồi kiến thức, nâng cao hiểu biết,
trình độ chun mơn của mình, thường xun tìm hiểu về văn hóa cội nguồn
dân tộc để có cái nhìn đúng đắn về văn hóa dân tộc.
Bên cạnh đó, cần mở rộng giao lưu văn hóa với bạn bè quốc tế. Tiếp
thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngồi. Tích
cực giới thiệu rộng rãi những tinh hoa, bản sắc văn hóa Việt Nam, những

thành tựu to lớn của hai mươi năm đổi mới đất nước và chính sách hội nhập
quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên
trường quốc tế.
Coi trọng kế thừa phát huy truyền thống văn hóa dân tộc là việc làm
cần nhân rộng không chỉ riêng cho bản thân mà còn cần cho tất cả mọi người
xung quanh. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động mọi người xung
quanh tích cực tham gia các hoạt động văn hóa; phát hiện và biểu dương kịp
thời các gương mặt điển hình, các cá nhân, tập thể có những đóng góp tiêu
biểu cho việc xây dựng đời sống văn hóa.

20


KẾT LUẬN
Mấy nghìn năm trơng coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, Đền Hùng
đã trở thành biểu tượng của tinh thần dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh,
niềm tin, chói sáng của một nền văn hóa. Từ trong ý thức tâm linh cả dân tộc
luôn hướng về: 
Nước mở Văn Lang xưa
Dòng vua đầu viết sử
Mười tám đời nối nhau
Ba sông đẹp như vẽ
Một cũ ở lưng đồi
Đền thờ trên sườn núi
Mn dân đến phụng thờ
Khói hương cịn mãi mãi.

Các giá trị tốt đẹp của xã hội và con người Việt Nam là sản phẩm của
lịch sử dựng nước và giữu nước suốt mấy ngàn năm của dân tộc và là bản
chất của quá trình lịch sử ấy. Các thế hệ ông cha ta đã sản sinh ra những giá

trị văn hóa dân tộc; kế thừa, phát huy và phát triển là công việc của con cháu,
của thế hệ sinh viên hơm nay.
Lịch sử như một dịng chảy liên tục. Trải qua mấy nghìn năm, trước
bao biến động thăng trầm, trong tâm thức của cả dân tộc, Giỗ Tổ Hùng Vương
– Lễ hội Đền Hùng vẫn là nơi của bốn phương tụ hội, nơi con cháu phụng thờ
công đức Tổ tiên. Về với Giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng, mỗi người
dân Việt Nam, dù ở vùng núi, đồng bằng hay miền duyên hải đều cùng chung
dịng máu Lạc Hồng lấy đồn kết u thương, đùm bọc làm sức mạnh tinh
thần. Giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng là dịp để khẳng định truyền
thống “Uống nước nhớ nguồn”, thắt chặt tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc,
21


động viên tồn dân tích cực học tập, lao động sản xuất, cống hiến cơng sức, trí
tuệ cho cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cống hiến cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN ngày càng giàu mạnh,
phồn vinh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

22


1. Ngô Văn Lệ (2006), “ về hệ giá trị truyền thống Việt Nam”, Trung tâm
văn hóa lý luận và ứng dụng.
2. Báo điện tử Bộ văn hóa, Thể thao Du lịch- Tổng cục Du lịch:
/>3. Báo điện tử Người Đưa Tin
/>4. VOV5 Đài tiếng nói Việt Nam – Hệ phát thanh đối ngoại quốc gia.
/>
23




×