Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận môn triết học tư tưởng triết học nho giáo và ảnh hưởng của nó đến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.8 KB, 27 trang )

Đề tài: Tư tưởng triết học Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến Việt
Nam
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trung Quốc được coi là một trong bốn cái nơi văn hóa của nhân
loại, trong đó có nhiều tư tưởng triết học được bảo tồn lâu đời và có sức
ảnh hưởng đến tận ngày nay. Tại Việt Nam, trong suốt quá trình Bắc
Thuộc kéo dài cũng đã chịu sự tác động, ảnh hưởng từ những tư tưởng ấy,
trong đó tư tưởng triết học Nho gia được xem là có sự tác động mạnh mẽ
nhất đến thói quen, tập tục, lối sống của nước ta.
Trong quá trình du nhập, tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Nho giáo
đã góp phần to lớn trong việc kiến tạo bộ mặt văn hố Việt Nam. Đặc
biệt, chúng ta khơng thể khơng nói tới con người Việt bởi con người với
các giá trị tinh thần, đạo đức, thẩm mỹ… chính là biểu hiện rõ nhất của
cái gọi là " Văn hoá của một dân tộc". Lịch sử sản xuất, đấu tranh dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt đã hình thành các giá trị đạo đức cho
người Việt nhưng không thể phủ nhận vai trò của Nho giáo. Nếu sản xuất
và đấu tranh giữ nước là thực tiễn hình thành các giá trị đạo đức truyền
thống của người Việt thì Nho giáo chính là hệ thống lý luận làm cho các
giá trị đạo đức đó được khái quát lại, thâu tóm lại một cách sâu sắc, có
tính "tự giác" và trở thành chuẩn mực cho các thế hệ người Việt.
Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập, tư tưởng Nho giáo vẫn còn hiện
hữu và còn nguyên vẹn giá trị. Sau đây, tơi xin đi vào làm rõ về lịch sử
hình thành, phát triển của Nho giáo và ảnh hưởng, tác động của nó đến
Việt Nam trong thời kỳ hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
1


Trong suốt quá trình lịch sử, nhiều tư tưởng triết học ra đời và có
giá trị đến tận ngày nay, tuy nhiên, trước bối cảnh xu hướng lối sống hiện


đại đang lên ngôi, nhiều giá trị tư tưởng dần bị lãng qn, trong đó có tư
tưởng triết học Nho gíao. Tiểu luận này đi nghiên cứu, làm rõ về lịch sử
hình thành, phát triển của Nho giáo và tác động tích cực, tiêu cực của
Nho giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài: “Tư tưởng triết học Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến Việt
Nam” là một đề tài hấp dẫn, có tính thực tế cao. Tuy nhiên, với khả năng
hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân còn nhiều hạn chế, bởi vậy trong
tiểu luận này, tôi xin phép chỉ nêu khái quát quá trình phát triển của Nho
giáo và phân tích sự tác động của Nho giáo đến Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào điều kiện thực tế và nền tảng nguyên lý học thuyết của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chỉ đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, người làm tiểu luận áp dụng chủ yếu những
phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu văn bản
- Phương pháp phân tích tài liệu
- Phương pháp lập luận
5. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận bao gồm 3 phần, 3 chương, 14 tiết và danh mục tài liệu
tham khảo

2


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM, LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN
CỦA TRIẾT HỌC NHO GIÁO
1.1. Khái niệm về Nho giáo
Nho giáo được gọi là đạo Nho hay còn được gọi cách khác là đạo

Khổng. Nho giáo là một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết học giáo
dục và triết học chính trị do Khổng Tử khởi xướng và được các môn đồ
của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội thịnh trị.
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển Nho giáo
Vào thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc (Thế kỷ VII – II trước công
nguyên) xã hội Trung Quốc đang bước vào thời kỳ biến động về chính trị,
xã hội đang chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong
kiến. Bên cạnh đó, đồ sắt xuất hiện, tạo nên cuộc cách mạng về công cụ
lao động, thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngành nơng nghiệp có một bước
tiến phát triển mạnh, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp có nhiều
chuyển biến vượt bậc. Trước sự phát triển đó, mẫu thuẫn xã hội dần trở
nên gay gắt, giai cấp quý tộc mâu thuẫn với giai cấp thương nhân, địa chủ
và giai cấp thống trị mâu thuẫn với nhân dân lao động. Nội tại trong giai
cấp thống trị đã chứa đựng mâu thuẫn khơng thể điều hịa được, vua Chu
chỉ tồn tại trên danh nghĩa, chiến tranh giữa các nước chư hầu sảy ra liên
miên do tranh dành đất đai, bành trướng lãnh thổ. Đạo đức xã hội dần suy
thoái, đảo lộn gây ra tình cảnh nhân dân đói khổ vì chiến tranh. Đứng
trước tình hình đó, giới tri thức đua nhau tìm ra tư tưởng, phương pháp để
lập lại trật tự xã hội, có hàng trăm học thuyết ra đời. Trong đó, Nho gia
được coi là một trong những tư tưởng có sức ảnh hưởng nhất.
Dựa trên những cơ cấu và sự tụ tập Nho giáo đã phổ biến lâu đời
trong xã hội Trung Quốc, chẳng hạn hệ thống gia tộc và sự thờ cúng ông
3


bà tổ tiên, Nho giáo đã trở thành hệ thống tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất
ở Trung Quốc, cùng tồn tại với Phật giáo và Lão giáo qua nhiều thế kỷ.
Nho giáo do Khổng Tử sáng lập và được mở rộng bởi hai học trị của
mình là Mạnh Tử và Tuân Tử vào thế kỷ thứ IV và III trước CN. Vào
năm 221 trước CN, mở đầu thời đại đế quốc, nhà Tần đàn áp những

người theo Đạo Nho khơng chút thương xót, thực hiện chính sách “Đốt
sách trơn Nho”. Nhưng đế chế này chỉ tồn tại 15 năm, triều đại kế tiếp,
nhà Hán lại nâng cao Nho giáo hơn bất kỳ tơng phái nào khác, biến nó trở
thành quốc giáo. Vào triều đại nhà Hán, đạo Nho trở thành cơ sở giáo dục
của Trung Quốc, một vị trí mà nó nắm giữ cho đến đầu thế kỷ 20. Sự sụp
đổ của nhà Hán vào cuối thế kỷ thứ 2 trước CN và thời kỳ hỗn loạn xảy
ra sau đó đem lại sự suy sụp tạm thời vận mệnh của Nho giáo. Nó cũng bị
thử thách trong những thế kỷ tiếp theo sau đó vì Phật giáo và Lão giáo
đem lại khuynh hướng tâm linh đối với đời sống của mọi người mà Nho
giáo không hỗ trợ được. Tuy nhiên, Nho giáo đáp lại bằng cách mở ra
một số phong trào phục hưng ở các triều đại Đường và Tống (thế kỷ VIIXIII CN) với sự thành công vang dội, phong trào này được người Phương
Tây biết đến là “Tân Nho giáo” do Chu Hy diễn giải, được chính quyền
chấp nhận như là một học thuyết chính thống và được tồn tại lâu dài ở các
triều đại nhà Minh và nhà Thanh (thế kỷ XIV–XX). Sau khi thiết lập nền
Cộng Hòa Trung Quốc vào năm 1912, phong trào cộng sản đối nghịch
với Nho giáo nên nó được xem là kẻ thù của sự tiến bộ. Tuy thế, trong
những năm gần đây, chính quyền Trung Quốc trở nên thoải mái hơn, chủ
yếu do bởi mối liên kết mật thiết của Nho giáo với hệ thống gia đình và
nó đặt nặng về kỷ luật và trật tự xã hội. Mặc dù ngày nay chế độ phong
kiến và đế quốc đã bị quét sạch nhưng giáo lý của đạo Nho vẫn còn tác
động vào tâm hồn của người dân Trung Quốc.
Nho giáo về cơ bản được chia ra làm 3 giai đoạn phát triển chính,
đó là Nho giáo ngun thủy, Nho giáo thời Hán và Nho giáo thời Tống.
4


Về Nho giáo nguyên thủy Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu
đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ,
Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc
nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử

mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học
trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào
lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là
Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến
Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép
thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho
giáo ngun thủy, cịn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng
giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm,
Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó cịn
được gọi là Nho học; cịn Nho giáo mang tính tơn giáo. Ở Nho giáo, Văn
Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý
chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Đến đời Hán (Hán Nho), Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ
Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm cơng cụ
thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư
tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai
ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so
với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp
thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
Đến đời Tống (Tống Nho), Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi
Lễ Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ
Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời
kỳ nay được gọi là Tống Nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là
Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ XVI, Nguyễn
Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương
5


Tây gọi Tống Nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt của Tống Nho
với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật

giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo
quan lại và cai trị.
1.3. Các đại biểu tiêu biểu
1.3.1. Khổng Tử
Khổng Tử cịn có tên khác là Khổng Phu Tử (551 – 479 TCN) là
một nhà tư tưởng triết học nổi tiếng Trung Quốc, ông sinh ra trong một
gia đình quý tộc nghèo, sa sút ở nước Lỗ, đã từng được giữ nhiều chức
quan khác nhau. Do không được trọng dụng, ông cùng học trò đi sang các
nước chư hầu khác, truyền bá và muốn áp dụng học thuyết của mình vào
trị nước. Sau 14 năm không thành, ông đành quay về quê viết sách, dạy
học.
Về tác phẩm, ông cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng lớn,
đặc biệt là giá trị về đạo đức. Trong đó có một số tác phẩm tiêu biểu như:
thi, thư, lễ, nhạc, dịch, Xuân Thu, các tác phẩm này được học trị của ơng
tập hợp lại làm thành cuốn Luận ngữ.
Triết học của ông nhấn mạnh vào việc trị quốc bằng đạo đức, theo
ơng chính trị phải là chính đáng, thẳng thắn, phải cai trị ngay thẳng.
Quyền lực nhà nước phải được tập trung vào tay vua, vua phải là người tu
dưỡng bản thân, tuân theo lễ nêu gương sáng để cai trị thiên hạ, sử dụng
đạo đức để trị quốc bình thiên hạ. Gắn liền với tư tưởng trị quốc là học
thuyết về nhân, lễ, chính danh. Tư tưởng của ơng được coi là tư tưởng lớn
trong thời đại Trung Quốc bấy giờ và hiện tại vẫn được lưu trữ tại Học
viện.
1.3.2. Mạnh Tử

6


Mạnh Tử (372–289 trước cơng ngun; có một số tài liệu khác ghi
là: 385– 303/302 TCN) là nhà triết học Trung Quốc và là người tiếp nối

Khổng Tử. Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua
Liệt Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành
phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đơng, Trung Quốc. Ơng mồ cơi cha, chịu sự
ni dạy nghiêm túc của mẹ là Chương thị (người đàn bà họ Chương).
Chương thị sau này được biết tới với cái tên Mạnh mẫu (mẹ của Mạnh
Tử). Mạnh mẫu đã ba lần chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi
trường xã hội tốt nhất cho việc học tập, tu dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh
Tử làm môn sinh của Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử.
Vì vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng Khổng giáo. Mạnh
Tử là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời chiến quốc, thời kỳ nở rộ các
nhà tư tưởng lớn với các trường phái như Pháp gia, Du thuyết, Nho gia,
Mặc gia...(thời kỳ bách gia tranh minh) và cũng là thời kỳ mà các tập
đoàn phong kiến tranh giành, xâu xé lẫn nhau gây ra các cuộc chiến tranh
liên miên, dân tình vơ cùng khổ sở .
Tư tưởng của Mạnh Tử phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử
nhưng ơng khơng tuyệt đối hóa vai trị của ơng vua như Khổng Tử, ông
chủ trương dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, ông cũng là người
đưa ra thuyết tính thiện của con người rằng con người sinh ra đã là thiện
rồi nhân chi sơ bản tính thiện, tư tưởng này đối lập với thuyết tính ác của
Tn Tử rằng nhân chi sơ bản tính ác. Ơng cho rằng "kẻ lao tâm trị người
còn người lao lực thì bị người trị". Học thuyết của ơng gói gọi trong các
chữ "Nghĩa", "Trí", "Lễ", "Tín". Ơng đem học thuyết của mình đi truyền
bá đến vua chúa các nước chư hầu như Tề Tuyên Vương (nước Tề), Đằng
Văn Công (nước Đằng), Lương Huệ Vương (nước Nguỵ)...nhưng không
được áp dụng. Về cuối đời ông dạy học và viết sách, sách Mạnh Tử của
ông là một trong những cuốn sách quan trọng của Nho giáo. Ông được

7



xem là ông tổ thứ hai của Nho giáo và được hậu thế tôn làm "Á thánh
Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử).
1.3.3. Tuân Tử
Tuân Tử (313 TCN – 235 TCN) là một nhà Nho, nhà tư tưởng của
Trung Hoa vào cuối thời Chiến Quốc. Tuân Tử tên Huống , tự Khanh,
cũng tự Tôn Khanh. Đời Hán đặt tên sách của Tuân Tử là "Tôn Khanh
Tử", sang thời Đường mới đổi lại xưng hô "Tuân Tử". Tuân Tử người
nước Triệu, sanh vào năm nào không được rõ, chỉ biết "Niên giám Tuân
Tử", bắt đầu ghi chép sự tích của Người từ năm Triệu Huệ Văn Vương
nguyên niên, và mất vào năm thứ 25 Sở Khảo Liệt Vương. Đại để là,
trước 40 tuổi, Tuân Tử chuyên tâm về việc trau dồi học vấn, khoảng trước
sau 50 tuổi đi du hành qua các nước, từ 60 tuổi trở đi, những năm đầu làm
huyện lệnh Lan Lăng của nước Sở, những năm sau thì mở lớp dạy học, y
như Khổng Tử, Mạnh Tử thuở trước. Đúng vào năm 50 tuổi, Tuân Tử đến
nước Tề. Tuy được người Tề hết sức kính nể, đã trước sau ba lần cử làm
"Tế tửu” , một danh hiệu vinh dự trong buổi "quốc yến", nhưng rốt cuộc
chẳng được trọng dụng. Sau khi rời Tề sang Tần, Tuân Tử được gặp tể
tướng Phạm Tuy. Lúc đó Tần là một cường quốc, thường ỷ thế mạnh đe
dọa chư hầu. Phạm Tuy hỏi cảm nghĩ của khách ra sao, đối với Tần. Đáp
lại câu hỏi đó, trước hết, Tuân Tử ca ngợi Tần là một nước có tập tục tốt,
núi non đẹp, hơn nữa là quan lại dốc lịng vì dân, triều đình làm việc mau
mắn. Nhưng tiếp theo thì vuốt mặt chẳng nể mũi, thẳng lời phê bình nước
Tần hãy còn khiếm khuyết đạo Nho. Chiếu theo tiêu chuẩn của Tuân Tử
thì, thiếu đạo Nho tức là thiếu Lễ nghĩa, mà lễ nghĩa là linh hồn của quốc
gia. Tuân Tử khen điều hay, chê điều dở của Tần một cách thẳng thắn,
chẳng ngại mếch lòng ai như vậy là thái độ nhận chân nghiêm túc, phải là
phải, trái là trái của con người Nho học. Song cũng vì thế, nên Tuân Tử
đã thiếu dịp may thi thố tài đức, thực hiện lý tưởng chính trị của mình,
8



đành phải trở về cố quốc. Ở Triệu là nơi nước nhà, Tuân Tử từng biện
luận phép dụng binh với Lâm Vũ Quân, trước mặt Triệu Hiếu Thành
Vương. Lâm Vũ Quân dựa vào nguyên tắc "xuất kỳ bất ý, công kỳ bất bị"
của Tôn Tử binh pháp, cho ràng kẻ dùng binh giỏi, bao giờ cũng "quyền
mưu thế lợi " và "công đoạt biến trá", nghĩa là không từ bỏ bất cứ thủ
đoạn gian trá nào. Ngược lại, Tuân Tử có quan điểm khác hẳn, Người
nhấn mạnh kẻ giỏi về quân sự là biết "thiện phụ dân", tức là dựa vào sức
mạnh của dân một cách hiệu quả. Tuân Tử cho rằng, được dân ủng hộ
mới nắm chắc phần thắng, cho nên "thiện phụ dân", là cái vốn quý nhất
của người điều khiển chiến tranh. Tiếc thay, ngay tại bản quốc cũng
khơng đắc chí Tn Tử lại tái xuất ngoại, sang nước Sở. Tại Sở, Tuân Tử
được Xuân Thân Quân bổ làm huyện lệnh huyện Lan Lăng, rồi từ đó định
cư luôn tại chỗ, không trở về cố quốc nữa. Vào những năm cuối đời, lúc
tuổi về già, Tuân Tử đã mở trường tư thục dạy học và viết sách, sáng lập
ra học phái Lan Lăng, tạo dựng phong khí thư hương cho xứ này. Từ đó,
học trị Lan Lăng hay lấy chữ "Khanh" đặt tự, để kỷ niệm thầy Tuân Tử.
Người đời sau hay hiểu một cách tổng quát là, lúc về già, Khổng Tử cùng
Mạnh Tử đều cáo lão về vườn, lập ngôn và trước tác. Thật ra, bảo trọng
Khổng - Mạnh lập ngôn là đúng, nhưng viết sách vị tất đã đúng.
Trong thời gian ở Lan Lăng, chẳng những đã lập ngơn, mà cịn lập
thư . Ba mươi ba thiên trong cuốn sách mà Tuân Tử đã viết, là một bộ tác
phẩm, có hệ thống tư tưởng hoàn chỉnh nhất của phái Nho học thời Chu Lân. Tuy rằng, trong triết lý tư tưởng của Tuân Tử, có một số khác biệt
với Khổng - Mạnh, nhưng về lập trường căn bản của Người đối với thế
sự, nhất là thái độ khẳng định giá trị lý tưởng chính trị của nhà Nho, thì
chẳng có khác gì với Khổng - Mạnh. Có lẽ cũng vì thế mà cuộc đời của
Tuân Tử cũng chẳng khác chi mấy, so với Khổng Tử và Mạnh Tử.

9



CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRONG NHO GIÁO
2.1. Quan niệm về vũ trụ và giới tự nhiên
Quan niệm về Vũ trụ của Nho giáo được nói rõ trong Kinh Dịch,
giải thích Vũ trụ căn cứ trên thuyết Âm Dương và Ngũ Hành. “Dịch hữu
Thái cực, thị sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng
sinh Bát Quái.” Đạo Dịch có Thái Cực, Thái Cực sanh ra Hai Nghi : Nghi
Âm và Nghi Dương; Hai Nghi sanh ra Bốn Tượng là : Thái Âm, Thái
Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương; Bốn Tượng sanh ra Tám Quẻ là : Càn,
Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khơn, Đồi.
Thoạt đầu tiên, Vũ trụ ra thế nào ? Cứ như những ý tưởng của
người xưa thì lúc đầu vũ trụ chỉ là một khối mờ mịt hỗn độn, tức là đời
Hỗn mang. Trong cuộc Hỗn mang ấy, có cái Lý vơ hình rất linh diệu, rất
cương kiện, gọi là Thái Cực. Song Thái Cực huyền bí vơ cùng, khơng thể
biết được bản thể của Lý ấy như thế nào. Ta tuy không biết rõ cái chân
tánh và cái chân tướng của Lý ấy, song ta có thể xem sự biến hóa của vạn
vật mà biết được cái động thể của Lý ấy. Cái động thể của Lý ấy phát
hiện ra bởi 2 cái thể khác nhau là : Động và Tĩnh. Động là Dương, Tĩnh là
Âm. Dương đến cực độ thì lại biến ra Âm; Âm lên đến cực độ thì lại biến
ra Dương. Hai thể ấy cứ theo liền nhau, rồi tương đối điều hịa với nhau
để biến hóa mà sanh ra Trời Đất và vạn vật. Vậy, khởi điểm của Tạo Hóa
là do 2 cái tương đối Âm và Dương mà Đạo Trời Đất cũng khởi đầu bởi
sự biến hóa của 2 tương đối ấy.
Theo quan niệm này thì Đạo Trời Đất lúc đầu rất giản dị, sau mới
biến hóa dần dần đến chỗ phức tạp, càng biến hóa thì càng phức tạp, thiên
hình vạn trạng. Đó là “Nhứt bổn tán vạn thù”, cái Nhứt bổn ấy là Thái
Cực, nhưng dầu phức tạp đến đâu, rồi cuối cùng cũng qui về một, ấy là
“Vạn thù qui nhứt bổn”.

10



Đức Khổng Tử cho rằng cái Lý Thái Cực rất huyền vi mầu nhiệm,
mà tri thức con người thời đó khó đạt tới, nên Ngài khơng chú trọng xét
tới, mà chỉ chú trọng cái động thể của nó, tức là Luật Biến hóa của Trời
Đất, tức Luật DỊCH. Ngài thấy Đạo Dịch chi phối vạn vật, phù hợp với
hiện thực. “Dịch không xa sự thật, mà đạo Dịch biến đổi luôn, không ở
nhất định chỗ nào, lưu truyền khắp cả vũ trụ”. Bỏ cái bản thể mà nghiên
cứu cái động thể của Lý Thái Cực là một quan niệm rất thực tiễn, và đó
cũng là khởi điểm cho thuyết tùy thời của Đạo Nho.
Như vậy, trong quan niệm về thế giới, Khổng Tử đã từ quan niệm
về đạo, thiên lý mang tính chất duy vật chất phác và biện chứng tự phát
chuyển sang quan điểm số mệnh, thiên mệnh duy tâm thần bí. Đây là
bước lùi trong tư tưởng của ông.
2.2. Quan niệm về đạo đức
Nho giáo sinh ra trong thời kỳ đất nước loạn lạc, vị trí bị đánh tráo,
các mối quan hệ mâu thuẫn, đạo đức suy đồi, ngoài ra, Khổng Tử luyến
tiếc chế độ xã hội cũ đang trên đường suy tàn, bởi vậy ông cho rằng để
duy trì chế độ xã hội cũ cần dùng đạo đức để trị vì. Theo ơng “Đạo” là
quy luật chuyển biến, tiến hóa của trời đất, vạn vật. Đối với con người,
“Đạo” là đường đi đúng đắn, cần phải noi theo để xây dựng mối quan hệ
lành mạnh, tốt đẹp.
Trong Luận Ngữ chúng ta thấy hầu như mọi tư tưởng, mọi luận bàn
của thầy trò Khổng Tử đều xoay quanh đường lối "Đức trị", vậy trước hết
ta hãy xem Khổng Tử đã quan niệm về "Đức" như thế nào". Với Khổng
Tử đạo đức là gốc của con người, nói đến con người trước hết là nói đến
đạo đức. Đúng như thiên "Học Nhi" - sách Luận ngữ đã viết: "Làm người
có nết hiếu, đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Khơng thích xúc phạm bề
trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người qn tử chăm chú vào


11


việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức
nhân..."
Trước thời Khổng Tử đã xuất hiện khái niệm quân tử. "Nhưng thời
đó nó trỏ cái địa vị trong xã hội, chứ không trỏ cái phẩm tính con người.
Người có phận cao (tối đại đa số ở trong giai cấp quý tộc) cai trị dân, có
đức hay khơng đều gọi là qn tử". Đến thời mình, Khổng Tử đã đề ra
những tiêu chuẩn về tài đức, về tư cách phẩm chất để thành người quân tử
đáng được nắm quyền trị dân, nhờ đó tiếng qn tử khơng cịn thuần t
chỉ người cầm quyền như trước nữa, mà chủ yếu là có nghĩa chỉ người có
đức dù họ cầm quyền hay khơng.
Với Khổng Tử, hiếu, lễ là gốc của đạo đức. Làm người trước hết
phải có hiếu nghĩa, phải đền ơn sinh thành. Chính vì vậy ông từng mắng
Tể Dư là bất nhân, bất hiếu không nhớ công cha mẹ bồng bế ba năm, mà
muốn rút thời gian để tang từ ba năm xuống một năm: "Dư là đứa bất
nhân? Đứa trẻ sinh ra, sau ba năm cha mẹ mới thơi bồng bế. Dư nó có
được cha mẹ bồng bế trong ba năm hay khơng?". Khổng Tử đề cao đức
hiếu bởi vì làm người phải có lịng kính u cha mẹ và người thân trong
nhà, thì mới biết u thương người ngồi, u thương đồng loại. Và làm
người theo Khổng Tử trước hết phải có "đức", tu dưỡng "đức" rồi mới
học văn. Đạo hiếu quan trọng như vậy, nhưng như thế nào là hiếu? Khổng
Tử trả lời Tử Du về đạo hiếu như sau: "Ngày nay người ta cho hiếu là có
thể ni cha mẹ, nhưng đến chó ngựa kia người ta cũng ni, nếu khơng
kính cha mẹ thì có khác gì?". Như vậy, theo Khổng Tử, hiếu đức không
phải chỉ là nuôi dưỡng cha mẹ mà là chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ với sự
thành kính, sự yêu thương thật sự.
Mặc dù coi trọng hiếu đức như vậy nhưng quan niệm của Khổng
Tử không khắt khe, nghiệt ngã, một chiều mà rất đúng mực "Thờ cha mẹ,

nên nhỏ nhẹ khuyên can; nếu thấy cha mẹ khơng theo ý mình thì vẫn
cung kính mà khơng xúc phạm cha mẹ; tuy khó nhọc, lo buồn nhưng
12


khơng được ốn hận". Có thể nói quan niệm này của Khổng Tử nếu đặt
trong bối cảnh xã hội hiện đại vị tất đã lỗi thời mà vẫn gợi lên cho chúng
ta nhiều suy nghĩ.
Sau hiếu, lễ, nói đến "đức" là nói đến tính thiện. Khổng Tử quan
niệm: "Bản tính tốt chẳng phải học tập theo cổ nhân mà cũng tốt, nhưng
không đạt được mức tinh vi của đạo". Người có "đức", có tính thiện thì
"thấy việc thiện thì vội vàng như đuổi theo khơng kịp, thấy việc bất thiện
thì như nhúng tay vào nước sôi". Nhưng điều chủ yếu "đức" không phải
chỉ là thiện đức mà là hành động. Khổng Tử nói: "Biết đạo lý khơng bằng
thích nó, thích nó khơng bằng vui làm theo nó" và "nghe được điều nghĩa
mà khơng làm theo, có lỗi mà khơng sửa đổi đó là những mối lo của ta".
Như vậy, đức là lời nói đi đơi với việc làm đúng như Khổng Tử đã nói:
"Người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà khơng làm được"
và "Người quân tử chậm chạp (thận trọng) về lời nói, mà mau mắn về
việc làm".
Trong "Luận ngữ", chúng ta thấy Khổng Tử nói rất nhiều đến
"đức", nhất là "đức" của người cầm quyền. Song đáng chú ý là Khổng Tử
quan niệm về "đức" khơng phải như một cái gì biệt lập mà là trong sự
thống nhất chặt chẽ không tách rời với tri thức, tài năng. Quan niệm này
thực sự nhất quán từ Khổng Tử đến các môn đệ của ông. Với Khổng Tử
thì "chất phác thẳng thắn văn nhã thì là người quê mùa; văn nhã thẳng
thắn chất phác thì là người chép sử (giữ việc văn thư); văn và chất đều
nhau mới là người quân tử". Là người hết sức coi trọng đạo đức như vậy
đương nhiên, trong hoạt động của mình Khổng Tử bao giờ cũng hành xử
theo đúng những chuẩn mực đạo đức mà ông tôn thờ, coi trọng và ra sức

tuyên truyền nó trong xã hội, cho dù đời ông như chúng ta biết hết sức
long đong, lận đận. Khổng Tử cho rằng: "Người có đức thì khơng cơ độc,
tất có người đồng đạo kết bạn với mình như ở đâu thì có láng giềng ở đó".
Với ơng "sáng được nghe đạo lý, tối chết cũng được (không hận)". Bởi
13


vậy, lẽ sống của Khổng Tử là "để tâm chí vào đạo, giữ gìn đức hạnh,
nương theo điều nhân, vui với lục nghệ". Chính vì thế mà khi gặp nguy ở
nước Tống bị quan tư mã là Hồn Khơi tìm cách hãm hại, Khổng Tử thản
nhiên nói: "Trời cho ta có phẩm đức, Hồn Khơi làm gì được ta", hoặc
khi ông đau nặng, Tử Lộ xin phép cầu đảo, Khổng Tử nói: "Khâu này cầu
đảo từ lâu rồi". Thế mới biết ông tin và coi trọng đạo đức đến mức nào.
Điều dễ nhận thấy là tuy Khổng Tử nói nhiều về "đức", tin vào
"đức" và đề cao về "đức" như vậy, nhưng ông cũng nhận thấy rằng, xã hội
thời ông đang thiếu "đức" một cách nghiêm trọng. Chính là thực tế xã hội
và cuộc sống đã khiến ông phải buông ra những lời than thở: "Ta chưa
thấy ai hiếu đức bằng hiếu sắc", "Học ba năm mà khơng có ý cầu bổng
lộc, dễ được mấy người?" và "Trung dung là đức cực đẹp vậy. Từ lâu rồi,
người ta ít có đức đó". Ngay đối với lớp học trị được ơng đào tạo theo lý
tưởng đạo đức của mình, Khổng Tử cũng phải thừa nhận: "Anh Hồi
(Nhan Uyên) lòng ba tháng khơng lìa đạo nhân, cịn các anh khác chỉ
được một ngày, một tháng là cùng". Có lần ơng nói với Tử Lộ rằng: "...
người biết đạo đức (nghĩa lý) ít lắm". Sống trong một xã hội "vô đạo",
loạn lạc như vậy, một xã hội mà đầy rẫy những cảnh phản loạn, tàn bạo,
dâm bôn, đạo đức suy vi, phần nhiều giả dối, nói mà khơng làm, nhưng
Khổng Tử với lịng yêu thương con người thắm thiết, vẫn tin ở con người,
tin ở học thuyết của mình có thể cứu vớt cuộc đời.
Với ông: "Người ta không thể làm bạn với cầm thú; ta không sống
chung với người trong xã hội này thì sống chung với ai? Nếu thiên hạ

thịnh trị thì Khâu này cần gì phải đổi nữa?". Chính là trên cơ sở đó, mà
Khổng Tử đã đề xuất đường lối "Đức trị" - đường lối trị nước bằng đạo
đức mang đậm dấu ấn độc đáo của ông. Nguyễn Hiến Lê rất có lý khi
nhận xét rằng: "Khổng Tử là người đầu tiên nói nhiều nhất đến tư cách
người cầm quyền, đến bổn phận họ phải sửa mình, phải làm gương cho
dân, phải giáo hố dân. Ơng khơng tách rời đạo đức và chính trị, ơng đã
14


đạo đức hố chính trị. Và tất cả triết lý chính trị của ơng gồm trong danh
từ đức trị, mà danh từ này có nghĩa là người trị dân, phải trị dân bằng
đức, chứ không bằng bạo lực”.
Khổng Tử thật sự tin rằng, "Làm chính trị mà dùng đức để cảm hố
dân thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả".
Cơ sở tư tưởng "Đức trị" của ơng suy đến cùng là lịng thương u con
người, lịng tin ở bản tính con người có thể cảm hố được. Ơng quan
niệm phép trị dân "cần gì phải dùng biện pháp giết người?... Đức hạnh
của người quân tử, người trị dân như gió, mà đức hạnh của dân như cỏ.
Gió thổi thì cỏ tất rạp xuống". Khổng Tử từng bảo với học trị: "Xử kiện
thì ta cũng như người khác thôi; phải làm sao làm cho dân phải biết nghĩa
vụ nhường nhịn để dân không kiện nhau".
Trong "Luận ngữ" chúng ta thấy rõ, trước sau Khổng Tử chỉ tin vào
đức chứ khơng tin vào "hình" bởi "dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng
hình phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết
hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn
phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo đường chính". Tin vào "Đức trị" như
vậy và cả đời ôm mộng cứu đời bằng "Đức trị" như Khổng Tử mà khơng
có bậc vua chúa nào dung nạp. Khổng Tử thật sự tin rằng: nếu có ai dùng
ơng làm quốc chính" thì một năm kỷ cương đã khá, ba năm sẽ thành
cơng". Tóm lại, với Khổng Tử, "Đức trị" có sức mạnh vạn năng. Đó là

đường lối "dù khơng ra lệnh dân cũng theo", như vua Thuấn chỉ kính cẩn
đoan trang ngồi trên ngai, chẳng làm gì mà thiên hạ bình trị.
Quan niệm về đức của Khổng Tử có nhiều ý tưởng sâu sắc và
phong phú. Những quan niệm đó thể hiện lịng tin ở tính thiện của con
người và chủ trương bồi dưỡng, phát huy thiện đức của con người. Từ
quan niệm về đức Khổng Tử đi sâu bàn luận về nhân, lễ làm cơ sở cho
đường lối đức trị của mình thuyết phục hơn. Các nhà tư tưởng Nho giáo

15


về sau đều coi tư tưởng về đức của Khổng Tử là nền tảng của đường lối
đức trị.
2.3. Quan niệm về chính trị
Để theo đuổi mục tiêu lý tưởng xây dựng xã hội đại đồng, Nho
giáo đã đề ra nguyên tắc quản lý xã hội nhằm chấn hưng như sau:
Nguyên tắc 1: Thực hiện nguyên tắc tập quyền cao độ (Chế độ
quân chủ trung ương tập quyền cao độ). Trong phạm vi quốc gia, toàn bộ
quyền lực tập trung vào một người là Hồng đế.
Ngun tắc 2: Thực hiện "chính danh" trong quản lý xã hội. "Chính
danh" nghĩa là mỗi người cần phải nhận thức và hành động theo đúng
cương vị, địa vị của mình, danh nào thì vị trí ấy: vua phải ra đạo vua, tôi
phải ra đạo tôi, cha phải ra đạo cha, con phải ra đạo con, chồng phải ra
đạo chồng, vợ phải ra đạo vợ... Nếu như mọi người khơng chính danh thì
xã hội ắt trở nên loạn lạc. Khơng thể có một xã hội trị bình mà ngun tắc
chính danh bị vi phạm. Trong Nho giáo, Khổng Tử đặc biệt đề cao giữa
danh và thực. Thực do học, tài và phận quy định.
Nguyên tắc 3: Thực hiện Văn trị - Lễ trị - Nhân trị. Đây là ngun
tắc có tính chất đường lối căn bản của Nho giáo. Văn trị: Đề cao trị bằng
hiểu biết. Tạo ra vẻ đẹp của một nền chính trị để mọi người tự giác tuân

theo. Lễ trị: Dùng tổ chức, thiết chế xã hội để trị quốc. Đề cao nghi lễ
giao tiếp trong trị quốc. Nhân trị: Trị quốc bằng lịng nhân ái, mở rộng ân
trạch của hồng cung tới bốn phương. Khổng Tử cho rằng trị quốc là việc
rất khó, nhưng cũng rất dễ làm nếu đức Minh quân biết sử dụng ba loại
người: Cả quyết can đảm, Minh đản (trí thức) và Nghệ tinh. Nhà vua
muốn trị vì đất nước và muốn có đức nhân phải biết dùng người và thực
hiện ba điều: Kính sự: Chăm lo đến việc cơng. Như tín: Giữ lịng tin với
dân. Tiết dụng: Tiết kiệm tiêu dùng. Ngược lại, dân và bề tôi đối với vua
phải như đối với cha mẹ mình, phải tỏ lịng trung của mình đối với vua.
16


Tiếp tục thuyết " Nhân trị" của Khổng Tử, Mạnh Tử đề ra tư tưởng
" Nhân chính". Theo Mạnh Tử, việc chăm dân, trị nước là vì nhân nghĩa,
chứ khơng phải vì lợi và Mạnh Tử chủ trương một chế độ "bảo dân",
trong đó người trị vì phải lo cái lo cho dân, vui cái vui của muôn dân, tạo
cho dân có sản nghiệp riêng và cuộc sống bình n, no đủ, như thế dân sẽ
không bao giờ bỏ vua. Đồng thời ông cũng khuyên các bậc vua chúa phải
giữ mình khiêm cung, tiết kiệm, gia huệ cho dân, thu thuế của dân có
chừng mực. Đặc biệt Mạnh Tử có quan điểm hết sức mới mẻ và sâu sắc
về nhân quyền. Ông khẳng định: "Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ
vi", vì theo ơng, có dân mới có nước, có nước mới có vua. Thậm chí ơng
cho rằng dân có khi cịn quan trọng hơn vua. Kẻ thống trị nếu khơng được
dân ủng hộ thì chính quyền sớm muộn cũng sẽ phải sụp đổ, nếu vua tàn
ác, không hợp với lịng dân và ý trời thì sẽ có thể bị truất phế.
Nguyên tắc 4: Đề cao nguyên lý cơng bằng xã hội. Đức Khổng Tử
đã nói: "Khơng lo thiếu mà lo không đều, Không lo nghèo mà lo dân
không yên". Sự không công bằng là đầu mối của loạn xã hội. Cơ sở công
bằng trong tôn giáo: Theo phái Mặc gia cho rằng: Công bằng theo kiểu
cào bằng, theo phái Nho giáo: Công bằng trên cơ sở danh của mình. Tức

là cơng bằng theo danh (địa vị xã hội) trong hưởng quyền lợi phân phối
theo chức vụ, địa vị.
2.4. Quan niệm về giáo dục
Tư tưởng đức trị xuyên suốt trong các tác phẩm của Nho giáo, và
trong quan niệm về giáo dục, Nho giáo cũng hướng đến vấn đề rèn luyện
đạo đức con người, trong đó, tư tưởng của Không tử về giáo dục, thái độ,
phương pháp học tập được coi là bộ phận giàu sức sống nhất trong tư
tưởng của Nho gia.
Trước hết, Nho giáo có nêu quan điểm về một xã hội lý tưởng. Lý
tưởng cao nhất của đức Khổng Tử cũng như các tác giả sau này của Nho
17


giáo là xây dựng một xã hội "Đại đồng". Khái niệm xã hội đại đồng của
Nho giáo không phải là một xã hội đặt trên nền tảng của một nền sản xuất
phát triển cao mà là một xã hội "an hồ", trong đó sự an hồ được đặt trên
nền tảng của sự công bằng xã hội. Để thực hiện xã hội lý tưởng, xã hội
đại đồng, xã hội an hoà trên, Nho giáo không đặt vấn đề về một cuộc cách
mạng, khơng cầu cứu ở bạo lực, mà tìm cứu cánh ở một nền giáo dục.
Theo Khổng Tử, có giáo dục và tự giáo dục thì mỗi người mới biết
phận vị của mình mà nhìn nhận hành động trong cuộc sống cho đúng. Nội
dung của giáo dục Nho giáo, giáo dục và tự giáo dục, hướng vào việc
giáo dục những chuẩn mực chính trị - đạo đức đã hình thành từ ngàn xưa,
được nêu gương sáng trong cổ sử mà thôi nên cách dạy của Nho giáo là
chỉ dạy làm người nói chung, khơng đề cập đến khoa học, kinh tế, nghề
nghiệp, tức không hướng vào phương diện kỹ nghệ và kinh tế. Thừa thời
gian mới học đến lục nghề. Đây là một nền giáo dục thiên lệch. Đồng
thời, nguyên tắc giáo dục trong Nho giáo là nguyên tắc tự giác: nguyên
tắc tự nguyện làm sáng tỏ, thường dùng phương pháp nêu gương.
Theo ơng, giáo dục có thể hóa ác thành thiện, mục đích tối cao của

giáo dục là “tu sửa đạo làm người” và “làm sáng tỏ đức sáng”, mở mang
trí, nhân, dũng, dạy con người hồn thiện về phương diện đạo lý.
Về mục đích giáo dục, Khổng Tử cho rằng yếu tố đầu tiên là học
phải gắn liền với ứng dụng thực tế, đem lại lợi ích và có sự đóng góp cho
sự phát triển xã hội, đất nước. Ơng khơng đồng tình với việc học để thăng
tiến, bổng hậu, thiếu thực tế, thiếu tính ứng dụng, khơng đem lại lợi ích
cho cộng đồng. Ngồi ra, Khổng Tử cho rằng học để hồn thiện nhân
cách, một người có nhân cách được rèn luyện thì đạo đức mới khơng bị
suy đồi. Sau cùng là học để tìm hiểu về điều lý, để hiểu sâu sắc hơn về
vạn vật.
Về phương pháp giáo dục, Khổng Tử coi trọng việc giáo dục theo
lịch trình đúng với điều kiện tâm sinh lý. Ban đầu ni dưỡng cho tình
18


cảm này nở, rồi đưa vào khuôn phép để dạy dỗ, uốn nắn và điều hòa sự
xung đột ở tâm. Theo ông, cần tuân thủ việc học gắn liền với tu, tập và
hành.

19


CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC NHO GIÁO TẠI
VIỆT NAM
3.1. Quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam
Nho giáo vào Việt Nam khoảng 2000 năm nhưng nó có vị trí chi
phối cao nhất là từ thế kỷ XV về sau. Trước đó, vào thời Trần, ảnh hưởng
của Nho giáo chưa sâu đậm. Có thể có một bộ phận quan chức cao cấp
cịn áp dụng ít nhiều lễ giáo, còn trong dân gian và kể cả quan chức cấp
thấp thì ảnh hưởng của Nho giáo chưa đáng kể. Sự hình thành và phát

triển Nho giáo ở Trung Quốc gắn liền với sự hưng thịnh của các triều đại,
là hệ tư tưởng gắn liên với giai cấp thống trị, nhưng xét về khía cạnh văn
hóa, Nho giáo góp phần làm phong phú nền văn hóa Trung Hoa. Do vậy,
sự phát triển và mở rộng của Nho giáo cũng tuân thủ những quy luật của
sự mở rộng và phát triển của văn hóa.
Sự du nhập Nho giáo vào xã hội Việt Nam gắn liền với sự xâm
lược của các thế lực phong kiến phương Bắc. Q trình đó diễn ra nhanh
hơn, đồng bộ hơn việc thiết lập bộ máy cai trị trên tồn lãnh thổ Việt Nam
thời bấy giờ. Nếu khơng có sự xâm lược của các thế lực phong kiến đối
với Việt Nam thì Nho giáo vẫn du nhập vào xã hội Việt Nam, nhưng q
trình đó sẽ diễn ra chậm hơn và không đồng bộ. Sự du nhập Nho giáo
Việt Nam cùng với sự xâm lược của các thế lực phương Bắc được thực
hiện bởi các quan đô hộ, bởi chính sách đồng hóa, được chính quyền đơ
hộ nâng đỡ, cho nên Nho giáo không được thiện cảm và bắt rễ chậm chạp
hơn so với Phật giáo. Cho nên, trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc Nho
giáo vẫn chưa xác lập được vị trí độc tơn trong đời sống.
Trong suốt hơn một ngàn năm đó nhiều cuộc khởi nghĩa đấu tranh
giành độc lập dân tộc đã nổ ra, nhưng hầu như khơng có sự tham gia của
các nhà nho. Chiến thắng trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã chấm dứt
hơn một ngàn năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của
20


Việt Nam. Vào thời điểm này, Phật giáo có vị trí đặc biệt quan trọng. Các
triều đại đầu tiên của nền độc lập như Ngô, Đinh, Lê không theo đạo Nho
mà theo đạo Phật. Các nhà sư có vai trị to lớn và quyết định trong việc
gây dựng triều Lý – nhà nước quân chủ tập quyền đầu tiên ở nước ta và
cũng từ khi nhà Lý ra đời, do nhu cầu quản lý nhà nước mà nhà Lý đã bắt
đầu quan tâm đến Nho giáo. Vào thời điểm này sự đóng góp của các nhà
sư vào sự ổn định đất nước là chủ yếu, nhưng xu hướng Nho giáo dần dần

thay thế Phật giáo càng thấy rõ. Việc Lý Thánh Tông vào năm 1070 cho
lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử như là mốc ghi nhận sự tiếp nhận
chính thức Nho giáo trên bình diện cả nước. Sang thời Lê Thánh Tông
(1460-1497) Nho giáo được phát triển và cũng từ đó về sau, Nho giáo
thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm trên nhiều lĩnh vực tư
tưởng, thơ văn, phong tục, tập quán… qua hệ thống giáo dục, pháp luật,
chính quyền. Cho đến đầu thế kỷ XX, năm 1919 khoa cử Nho học bị bãi
bỏ, nhưng giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài đến
đầu thập kỷ 40. Như vậy, trong thời Lê Nguyễn liên tục gần 600 năm Nho
học - Nho giáo không thể không thắm vào các tầng lớp xã hội. Nó được
thường xuyên tái lập và trở thành một trong những yếu tố văn hóa truyền
thống Việt Nam khá sâu đậm. Đầu thế kỷ XX, chính quyền thực dân Pháp
và phong kiến ở Việt Nam đã hủy bỏ chế độ học tập và thi cử theo Nho
học. Tuy vậy, Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng lâu dài đến xã hội và con
người Việt Nam về sau.
3.2. Ảnh hưởng của Nho giáo đến đời sống tại Việt Nam
Nho giáo nằm trong chính sách Hán hóa của Trung Quốc, Trung
Quốc dùng tư tưởng để cai trị nhằm đồng hóa chúng ta về văn hóa, phong
tục, tập quán trong thời kỳ Bắc Thuộc, tuy nhiên, chính sách này đã sớm
thất bại, không những không thành công mà Nho giáo còn được xem là
một giá trị tư tưởng khi được du nhập và kết hợp với tư tưởng dân tộc tại
21


Việt Nam. Trong suốt thời gian dài bị đô hộ, các tư tưởng Nho giáo đã có
sức ảnh hưởng mạnh mẽ đối với đời sống nước ta, gây ra sự tác động hai
mặt trong tư tưởng, lối sống, văn hóa của người Việt.
3.2.1. Ảnh hưởng tích cực
Nho giáo có ảnh hưởng tích cực đến đời sống của người dân Việt
Nam, Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh,

góp phần xây dựng một hệ thống quản lý, thống trị xã hội chặt chẽ, nâng
cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia.
Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Hàng nghìn
năm qua, nhà nước Việt Nam đề lấy Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ
chức nhà nước, pháp luật, giáo dục... Nội dung giáo dục của Nho giáo là
cách dạy đạo đức phải gắn với tài vẫn còn nguyên ý nghĩa cho đến tận
ngày nay. Song song với việc phát triển nền tảng lý luận, Nho giáo cịn
góp phần đào tạo tầng lớp nho sĩ Việt nam, trong đó có nhiều nhân tài kiệt
xuất như Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Ngơ Thì Nhậm...
Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người, đặc biệt
về văn hóa, lịch sử, triết học... Với phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học
để có thể tìm ra nghề nghiệp mới và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là
động lực hiếu học trong nhân dân. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo,
theo thời gian, hiếu học đã trở thành truyền thống văn hóa Á Đơng, trong
đó có Việt Nam.
Chịu ảnh hưởng của Nho giáo, dòng văn minh dân gian làng xã
được phổ biến và phát triển, thể hiện ở các cuộc đua, vui chơi, hoa văn
trang trí đền chùa... Các tư tưởng đấng trượng phu, quân tử, quan hệ tam
cương, tam tòng tứ đức, thủ tục ma chay, cưới xin, các quy định về tôn ti
trật tự,... ảnh hưởng rất đậm nét ở Việt Nam,nhất là bắt đầu từ đời nhà Lê,
khi Nho giáo bắt đầu thống trị và trở thành hệ tư tưởng chính thống của
chế độ phong kiến.

22


Nho giáo hướng con người vào con đường ham tu dưỡng đạo đức
theo Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín, ham học tập để phị Vua giúp nước.
Nhiều ý nghĩa giá trị của những chuẩn mực đạo đức Nho giáo đã được
quần chúng nhân dân sử dụng trong nền đạo đức của mình, như: "Tiên

học lễ, hậu học văn" là khẩu hiệu trong các trường học Việt nam từ
xưa đến nay. Bác Hồ cũng từng sử dụng những thuật ngữ đạo đức của
Nho giáo và đã đưa vào đó những nội dung mới như: "Cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư, trung, hiếu,...”, Tư tưởng "Trăm năm trồng người"
và "Hữu giáo vô loại" của Khổng Tử đã được Đảng Cộng sảnViệt Nam
vận dụng trong công cuộc xây dựng đất nước.
Nho giáo thiết lập được kỷ cương và trật tự xã hội. Nho giáo với
các tư tưởng chính trị - đạo đức như "Chính danh", "Nhân trị", "Nhân
chính" ln luôn là bài học quý giá và được vận dụng trong suốt lịch sử
Việt nam. Nguyễn Trãi trong "Bình Ngơ đại cáo" đã viết: "Việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân", và "Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn - Đem chí
nhân để thay cường bạo". Đảng ta thực hiện đường lối lấy dân làm gốc
với khẩu hiệu: "Dân giàu, nước mạnh" và "Chúng ta không sợ thiếu, chỉ
sợ không công bằng". Bác Hồ khi kế thừa các tư tưởng triết học Nho giáo
đã tinh lọc, loại bỏ những tư tưởng khơng phù hợp với thời đại và hồn
cảnh của Việt nam lúc bấy giờ. Chẳng hạn Khổng Tử cho rằng: "Thứ dân
bất nghị" tức là dân thường khơng có quyền bàn việc nước, còn Bác Hồ
đề cao dân chủ. Khổng Tử coi thường vị trí, vai trị của người phụ nữ
trong xã hội thì Bác Hồ chủ trương nam nữ bình quyền.
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt nam thì tư
tưởng chính trị, đạo đức của Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng trên một số
lĩnh vực: Trên lĩnh vực xã hội: Nó có tác dụng ổn định kinh tế - chính trị
để phát triển kinh tế. Đó là điều kiện để xây dựng thành cơng chủ nghĩa
xã hội ở Việt nam. Trên lĩnh vực chính trị - đạo đức: Ngày nay áp dụng
những tư tưởng của Nho giáo, kế thừa những mặt tích cực của nó để đạt
23


mục tiêu ổn định kinh tế, xã hội; đặc biệt chú trọng Nho giáo cổ đại
(Khổng Tử) chứ không phải Nho giáo sau này chỉ nhấn mạnh quan hệ

một chiều. Đảm bảo nhìn nhận vấn đề một cách hợp lý, duy trì vấn đề phê
phán đúng lúc, đặt vấn đề dân chủ trong việc áp dụng những tinh hoa tích
cực. Trong kinh doanh phải biết trọng chữ tín, lấy chữ tín làm đầu,
trong đó có một vấn đề rất quan trọng là phải quan tâm đúng mức đến
chất lượng
sản phẩm.
Nho giáo góp phần làm phong phú thêm tư tưởng lý luận tại Việt
Nam, đồng thời đưa ra những triết lý sâu sắc, mang tính ứng dụng cao,
đưa đến hiệu quả trong thời kỳ phong kiến, cụ thể là phương thức trị
quốc, trong thời hiện đại ngày nay, nho giáo cũng vẫn còn nguyên giá trị,
đặc biệt là giá trị về đạo đức.
3.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực
Bên cạnh mặt tích cực mà Nho giáo đã tác động lên đời sống người
dân Việt, Nho giáo còn để lộ mặt trái của tư tưởng. Nho giáo suy đến
cùng là bảo thủ về mặt xã hội và duy tâm về mặt triết học. Nó thường
được sử dụng để bảo vệ, củng cố các xã hội phong kiến trong lịch sử.
Nho giáo góp phần khơng nhỏ trong việc duy trì quá lâu chế độ phong
kiến ở Á Đơng nói chung và ở Việt nam nói riêng.
Nho giáo cũng là một trong những nguyên nhân kìm hãm sản xuất
phát triển ở Việt nam. Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, truyền thống tập thể
đã biến thành chủ nghĩa gia trưởng, chun quyền, độc đốn, bất bình
đẳng. Nho giáo không thúc đẩy sự phát triển của các ngành khoa học tự
nhiên bởi phương pháp giáo dục thiên lệch của Nho giáo chỉ quan tâm tới
đạo đức, học và dạy làm người mà không đề cập đến kiến thức khoa học
kỹ thuật. Những mặt tiêu cực đó phản ánh tính chất bảo thủ lạc hậu của
Nho giáo ở nước ta.
24


Nho giáo tác động đến Việt Nam, quá coi trọng nơng nghiệp mà bài

xích thương nghiệp, q chú trọng để tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao
đổi mua bán, kìm hãm tính năng động sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ
trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ
phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển, tuy nhiên trong thời gian ngắn,
Nho giáo bộc lộ mặt trái của xã hội, tạo sức ỳ quá lớn, khiến đất nước
không thể phát triển.
Nho giáo là tư tưởng mang tính chất “ru ngủ” “cải lương”, bảo thủ,
không tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế mà Nho giáo không
những không tiếp thu cái mới ưu việt hơn mà còn tiêu diệt cái ưu việt
hơn.
Nho giáo là tư tưởng mang tính chất hướng nội, chú ý suy xét trong
tâm mà không hướng con người ra ngồi, thực hành những điều tìm được,
chinh phục thiên nhiên và vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn
mình, khoa học tự nhiên, kỹ thuật sau một thời gian phát triển đã bị
chựng lại so với nền văn hóa phương Tây.

25


×