Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiểu luận cao học triết, bản thể luận trong triết học cổ điển đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.51 KB, 35 trang )

Đề số 8
I. Khái quát về bản thể luận và triết học cổ điển Đức
1. Khái niệm bản thể luận
Bản thể luận là một bộ môn nghiên cứu các khái niệm về thực tại và
bản chất của sự tồn tại. Trong triết học, bản thể luận xuất phát từ tiếng Hy Lạp
Οντολογία có nghĩa là “bộ mơn nghiên cứu về sự tồn tại và hình thành nên cở
sở của bộ mơn siêu hình học. Bản thể luận tìm cách mơ tả phạm trì tồn tại và
các mối quan hệ của phạm trù tồn tại để xác định nên thực thể và các kiểu
thực thể bên trong khuôn khổ của tồn tại.
Bản thể luận hình thức là một bộ mơn triết học chủ yếu giải quyết
vấn đề sử dụng từ ngữ một cách chuẩn xác để làm tốt vai trị mơ tả thực tại
hay thực thể. Bản thể luận luôn phải chỉ rõ những từ ngữ nào dùng để chỉ
những thực thể nào, những từ ngữ nào không, tại sao và phạm trù kết quả
như thế nào. Bản thể luận nhờ đó trở thành nền tảng cho nhiều chuyên
ngành triết học khác.
Cần khẳng định rằng, bản thể luận là bộ phận cơ bản nhất của siêu hình
học. Tên gọi “bản thể luận” chỉ xuất hiện lần đầu tiên ở thế kỷ XVII, trong
“Lexicon philosophicum” (Bách khoa thư triết học) của triết gia R.Goclenius
được xuất bản tại Phrăngphuốc (Đức) vào năm 1613(1). Muộn hơn một chút,
thuật ngữ này cũng đã xuất hiện trong các tác phẩm của A.Calovius (xuất bản
tại Rostock, năm 1636) và của J.B. du Hamel (xuất bản tại Pari, năm 1687).
Năm 1656, J.Clauberg cũng đã sử dụng thuật ngữ này trong “Siêu hình học”
được xuất bản tại Amsterdam. Thuật ngữ này được phổ biến rộng rãi trong
triết học sau khi C.Vơnphơ (C.Wolff) sử dụng nó để chỉ một bộ phận căn bản
của siêu hình học, bên cạnh vũ trụ luận, tâm lý học và thần học.
Như vậy, tên gọi “bản thể luận” chỉ xuất hiện vào thế kỷ XVII, nhưng
tư tưởng bản thể luận đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử triết học, ngay từ
thời Cổ đại. Nói một cách chung nhất, bản thể luận được hiểu là học thuyết về
tồn tại và khái niệm “tồn tại” là một trong các khái niệm cơ bản của triết học
1



phương Tây. Khái niệm này liên hệ mật thiết và hữu cơ với quá trình hình
thành triết học phương Tây tới mức chính nó, chính sự lí giải về nó đã tạo
thành bản chất của phương pháp tư duy triết học Tây Âu. Chính vì vậy mà
việc nghiên cứu lịch sử bản thể luận, lịch sử các quan niệm, học thuyết triết
học về tồn tại, về khái niệm tồn tại là con đường duy nhất để làm sáng tỏ nội
dung của khái niệm này. Chỉ thơng qua đó, chúng ta mới có thể có được nội
dung các nguyên tắc, cách tiếp cận bản thể luận.
2. Một số vấn đề cơ bản trong bản thể luận
Một luận đề cơ bản của bản thể luận là: Cái gì tồn tại?. Các nhà triết
học khác nhau có các câu trả lời khác nhau cho cùng một câu hỏi trên.
Một cách tiếp cận chung của bản thể luận là chia các thực thể hiện có
thành các nhóm được gọi là các “phạm trù”. Các luận đề cơ bản thường được
đề cập trong bản thể luận gồm:
- Tồn tại là gì? Tồn tại có phải là một thuộc tính? Khi nói một vật nào
đó khơng tồn tại thì điều đó có ý nghĩa gì? Liệu tồn tại có phải đúng là điều
khẳng định hay đã được xác nhận? Liệu các câu diễn tả một vật nào đó tồn tại
hay khơng tồn tại có đúng là một mệnh đề khẳng định hay xác nhận?
- Một đối tượng hữu hình là gì? Có ai có thể diễn tả sự tồn tại của một
vật thể hữu hình hay nói rằng một đối tượng tồn tại thì có ý nghĩa gì?
- Khi nói một đối tượng vơ hình tồn tại thì điều đó có ý nghĩa gì?
- Cái gì cấu thành nên sự đồng nhất của một đối tượng? Khi nào đối
tượng không tồn tại được xem như sự đối lập với thay đổi?
- Những đặc điểm nào của một đối tượng là cơ bản, được xem xét
trong sự đối lập với các thuộc tính ngẫu nhiên của một đối tượng? Các
thuộc tính hay các quan hệ của một đối tượng là thế nào, chúng có liên hệ
như thế nào với bản thân đối tượng?
- Tại sao chúng ta lại ở đây? Tại sao lại có một cái gì đó tồn tại chứ
khơng có cái “khơng có gì”?
3. Triết học cổ điển Đức

Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử
tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh
2


cao của thời kì triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn
tới triết học hiện đại.
3.1 Khái quát hoàn cảnh ra đời
Đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được thiết
lập ở một số nước Tây Âu như Italia, Anh, Pháp… đem lại một nền sản xuất
phát triển chưa từng có trong lịch sử, tỏ ra ưu việt hơn hẳn so với tất cả các
chế độ xã hội trước đó. Những thành tựu kinh tế và văn hố thời nay mà đỉnh
cao là Cách mạng công nghiệp ở Anh càng khẳng định sức mạnh của con
người trong nhận thức và cải tạo thế giới. Cùng với Cách mạng tư sản Pháp
làm rung chuyển cả châu Âu, chúng đánh dấu sự mở đầu của nền văn minh
công nghiệp trong lịch sử nhân loại.
Trong khi ở nhiều nước Tây Âu đang có những thay đổi nhảy vọt như
vậy, thì nước Đức cho đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một quốc gia phong kiến lạc
hậu. Liên bang Đức chỉ tồn tại về hình thức, thực tế đất nước cịn phân thành
nhiều tiểu vương quốc tách biệt nhau. Tình trạng đó gây nhiều trở ngại đối với
sự phát triển của đất nước. Năm 1822, cả nước Đức mới chỉ có hai máy hơi
nước. Nơng nghiệp bị đình đốn. Triều đình vua Phổ Phriđrích Vinhem (1770 1840) vẫn ngoan cố tăng cường quyền lực và duy trì chế độ quân chủ phong
kiến thối nát, cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, cả
đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đơng đảo quần chúng. Như
Ph.Ăngghen nhận xét, có thể coi đây là một trong những thời kì yếu hèn nhất
trong lịch sử nước Đức.
Tuy lạc hậu về kinh tế và chính trị, nước Đức thời kì này đạt được sự
phát triển chưa từng có về triết học, văn hoá và nghệ thuật. Đây là quê hương
của nhiều nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng thế giới như Hécđơ, Gớt,
Sinlơ, Cantơ… Họ một mặt tiếp thu những di sản tư tưởng và văn hoá Đức

truyền thống, kế thừa các quan niệm của Nicơlai Kuzan, Lépnít… mặt khác,
được cổ vũ to lớn của tư tưởng Khai sáng và văn hóa Pháp thế kỷ XVIII.
Cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794) là hậu thuẫn thực tiễn thức tỉnh giai cấp
3


tư sản Đức đấu tranh vì một trật tự xã hội mới ở Đức. Thể hiện nguyện vọng
đó của giai cấp tư sản, các tác phẩm của Gớt, Sinlơ, Cnatơ Phíchtơ…, đều
tốt lên một tinh thần phẫn nộ chống lại sự trì trệ và bất cơng của xã hội Đức
thời đó.
Thêm vào đó, những tiến bộ đáng kể của khoa học, nhất là các ngành
khoa học tự nhiên ngày càng chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy
siêu hình thống trị trong tư tưởng Tây Âu suốt thế kỷ XVII - XVIII. Việc phát
minh ra điện và cách sử dụng điện năng góp phần tạo ra bước nhảy vọt trong
sự phát triển của sản xuất từ công trường thủ cơng tới cơng nghiệp cơ khí,
đồng thời chứng thực những phát triển đầu tiên của khoa học về sự bảo tồn
và biến hố năng lượng và vật chất của vũ trụ. Phát minh của Lavoarê ra ôxy
và bản chất của sự cháy đã đánh đổ thuyết nhiên tố, mở ra giai đoạn phát triển
mới của hố học. Những cơng trình nghiên cứu của Lamác, Linnơ, việc phát
hiện ra tế bào của Lơvenhúc… địi hỏi phải có cách lí giải mới về bản chất
của sự sống.
Bối cảnh lịch sử đó ở Tây Âu và nước Đức đặt trước các nhà triết
học nhiều vấn đề: Siêu hình học thế kỷ XVII (với các đại biểu chính như
Đềcáctơ, Xpinơza, Lépnít…) từng đóng vai trị to lớn trong việc phát triển
tư duy lí luận và hệ thống hoá tri thức con người đã khơng cịn đáp ứng
được nhu cầu phát triển của thực tiễn và tư tưởng Tây Ẩu thế kỷ XVIII, khi
mà hàng loạt các khoa học đã đủ sức phát triển tách ra khỏi cái nơi triết học
của mình, trở thành những lĩnh vực nghiên cứu độc lập. Ngay từ cuối thế
kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, xuất hiện nhiều xu hướng xét lại siêu hình học
và các giá trị tư tưởng truyền thống. Tuy nhiên, triết học Tây Âu Phục hưng

và cận đại (ngay cả triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII) từng là ngọn cờ
lí luận của giai cấp tư sản trong thời kì bình minh đầy tính cách mạng của
nó, về cơ bản, vẫn chưa thốt khỏi quan niệm cơ học về thế giới, đồng thời
bất lực trong việc lí giải bản chất của thực tiễn xã hội đang diễn ra cuối thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
4


Tóm lại, giờ đây cần có cách nhìn mới về các hiện tượng tự nhiên và
tiến trình lịch sử nhân loại, cần có quan niệm mới về khả năng và hoạt động
của con người. Và triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng với những sứ
mạng lịch sử đó của khơng chỉ riêng nước Đức, mà cả phương Tây nói chung.
3.2 Một số đặc điểm căn bản của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức gồm một số đặc điểm căn bản sau:
Thứ nhất, đây là thế giới quan và ý thưc hệ của giai cấp tư sản Đức cuối
thế kỷ XVII - nửa đầu thế kỷ XIX. Hầu hết các đại biểu của nó như Cantơ,
Hêghen… đều xuất thân từ những tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Nhận
thấy sự trì trệ của xã hội Đức phong kiến thời đó, được sự cổ vũ của giai cấp
tư sản nhiều nước nhất là cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794), họ thể hiện
nguyện vọng tiến bộ của giai cấp tư sản đấu tranh vì một trật tự xã hội mới
ở Đức, nhằm đem lại sự thịnh vượng, phồn vinh và thống nhất đất nước.
Cho nên “cũng giống như ở Pháp hồi thế kỷ XVIII, cách mạng triết học
Đức hồi thế kỷ XIX cũng đi trước cuộc cách mạng chính trị”. Nhưng khác
với giai cấp tư sản Pháp vốn triệt để cách mạng, giai cấp tư sản Đức ngay
từ đầu đã muốn thoả hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ đang thống
trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề
phát triển đất nước. Phản ánh sự nhu nhược đó của giai cấp tư sản, chẳng
hạn, Hêghen, bất chấp phương pháp biện chứng của mình khẳng định sự
phát triển tất yếu của hiện thực, vẫn ca ngợi, tô vẽ cho nhà nước Phổ phong
kiến đang thối nát, với những bất cơng và tệ nạn xã hội của nó. Và nói

chung, trong thế giới quan của các nhà triết học cổ điển Đức thể hiện khá
rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng và khoa học về tư tưởng với sự bảo thủ,
cải lương về lập trường chính trị - xã hội.
Nhưng, điều đó khơng làm lu mờ sứ mạng lịch sử mà triết học cổ điển
Đức thực hiện là đem lại một cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình
lịch sử nhân loại. Vì vậy, đặc điểm thứ hai của nó là đặc biệt đề cao vai trị
tích cực của hoạt động con người, thực hiện bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng
5


triết học phương Tây từ chỗ chủ yếu bàn về những vấn đề bản thể luận, nhận
thức luận... đến chỗ coi con người như một chủ thể hoạt động là nền tảng và
điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Dĩ nhiên, để tài con người đã được
bàn đến ngay từ triết học cổ đại. Xôcrát đã hiểu triết học là tự ý thức của con
người về chính bản thân mình. Kế tục tư tưởng đó và khuynh hướng đề cao
con người từ thồi Phục hưng, Cantơ, nhà sáng lập ra triết học cổ điển Đức, lần
đầu tiên hiểu con người là chủ thể, đồng thời là kết quả quá trình hoạt động
của mình, khẳng định hoạt động thực tiễn cao hơn lí luận. Bản thân lịch sử là
phương thức tồn tại của con người. Mỗi cá nhân hoàn tồn làm chủ vận mệnh
của mình. Tư tưởng đó được Hêghen phát triển thêm, khẳng định con người là
sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định, vì vậy, mang bản chất xã hội.
Trước những thành tựu khổng lổ về kinh tế - xã hội và văn hoá mà nhân
loại đạt được trong thời kì bình minh đầy tính cách mạng của chủ nghĩa tư
bản, các nhà triết học cổ điển Đức từ Cantơ đến Hêghen đều đề cao sức mạnh
trí tuệ và hoạt động con người tới mức cực đoan. Họ thần thánh hoá con
người tới mức coi con người là chúa tể của tự nhiên, bản thân giới tự nhiên
cũng chỉ là kết quả hoạt động của con người. Quan niệm duy tâm đó càng
được củng cố bởi sự thống trị mạnh mẽ của tôn giáo trong xã hội Đức thời đó
cũng như sự thoả hiệp của giai cấp tư sản với ý thức hệ phong kiến. Tuy vậy,
cần phải nhận thấy một trong những thành tựu cơ bản của triết học cổ điển

Đức là, thứ nhất, khẳng định tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong
chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể,
đồng thời là kết quả của tồn bộ nên văn minh do chính mình tạo ra; thứ hai,
nghiên cứu tiến trình lịch sử của nhân loại, cũng như toàn bộ mối quan hệ
“con người tự nhiên” như một quá trình phát triển biện chứng
Vì thế, đặc điểm thứ ba của triết học cổ điển Đức là nó dựa trên một
cách nhìn biện chứng về thế giới hiện thực. Trước những bước phát triển như
vũ bão của khoa học và thực tiễn xã hội ở châu Âu cuối thế kỷ XVIII - nửa
đầu thế kỷ XIX cho thấy hạn chế của bức tranh cơ học về thế giới, các nhà
6


triết học cổ điển Đức tiếp thu những tư tưởng biện chứng trong các di sản triết
học truyền thống từ thời cổ đại, xây dựng phép biện chứng trở thành một
phương pháp luận triết học trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và
xã hội. Với giả thuyết vân tinh nổi tiếng về sự hình thành vũ trụ và cách nhìn
mới về con người, Cantơ, theo nhận xét của Ph.Ăngghen, là người chọc lỗ
thủng đầu tiên vào quan niệm siêu hình về tự nhiên thống trị trong khoa học
và triết học suốt thế kỷ XVI - XVII. Hêghen đã phát hiện ra những quy luật và
các phạm trù cơ bản của phép biện chứng, xây dựng nó trở thành một khoa
học về sự phát triển của tất thảy mọi sự vật và tư tưởng. Ý nghĩa thực sự và
cách mạng của triết học Hêghen “là ở chỗ nó đã vĩnh viễn kết liễu tính tối hậu
của những kết quả của tư tưởng và của hành động con người. Theo Hêghen,
chân lý mà triết học có nhiệm vụ phải nhận thức, khơng cịn là một tập hợp
những ngun lý giáo điều có sẵn..., từ nay, chân lý nằm trong chính ngay quá
trình nhận thức, trong sự phát triển lịch sử lâu dài của khoa học”. Dù dưới
hình thức duy tâm, triết học cổ điển Đức đã đưa lại cho chúng ta phương pháp
tư duy biện chứng, một phương pháp tư duy mà sau này, khi đã được C.Mác
và Ph.Ăngghen cải tạo, thì nó trở thành "linh hồn của chủ nghĩa Mác”.
Với cách nhìn biện chứng bao qt tồn bộ hiện thực, nhiều nhà triết

học cổ điển Đức có ý đồ hệ thống hố tồn bộ những tri thức và thành tựu mà
nhân loại đạt được từ trước tới giờ. Và đây là đặc điểm thứ tư của triết học cổ
điển Đức. Tiếp thu những tinh hoa của siêu hình học thế kỷ XVII trong việc
phát triển tư duy lí luận và hệ thống hố tồn bộ tri thức con người, các nhà
triết học, từ Cantơ tới Hêghen đều có ý đồ xây dựng một hệ thống triết học
vạn năng của mình làm nền tảng cho tồn bộ thế giới quan con người, khôi
phục lại quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học. Họ thể hiện sự
uyên bác khơng chỉ về triết học mà cịn về các lĩnh vực khoa học tự nhiên,
pháp quyển, lịch sử… Dĩ nhiên, quan niệm đó hiện nay khơng phù hợp,
nhưng về phương diện lịch sử, nó đáp ứng nhu cầu của khoa học cần hệ thống
hố tồn bộ tri thức con người mà các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là
những người khởi xướng trong bộ Bách khoa toàn thư của mình.
7


Trên đây là những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức. Luận
điểm của C.Mác coi đây là "lí luận của người Đức về cách mạng tư sản
Pháp”, một mặt, cho thấy đặc trưng riêng của triết học Đức so với triết học
Pháp thế kỷ XVIII, dù giữa chúng có sự kế thừa to lớn; mặt khác, khẳng định
giá trị tư tưởng vĩ đại của triết học cổ điển Đức. Phân tích từng đại biểu cụ thể
của nó giúp ta hiểu thêm điều đó.
II. Vấn đề bản thể luận trong triết học cổ điển Đức (minh chứng
qua một số đại diện triết học tiêu biểu)
1. Triết học Kant (Cantơ)
Immanuel Kant sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 tại Königsberg; mất
ngày 12 tháng 2 năm 1804 tại Königsberg, được xem là một trong những triết
gia quan trọng nhất của nước Đức, hơn nữa là một trong những triết gia lớn
nhất của thời kỳ cận đại (Neuzeit), của nền văn hóa tân tiến và của nhiều lĩnh
vực nhân văn khác. Triết học I.Kant được chia làm hai thời kỳ: Thời kỳ tiền
phê phán và thời kỳ phê phán: Thời kỳ tiền phê phán (1745 - 1769). I.Kant

chủ yếu nghiên cứu các vấn đề toán học, cơ học, thiên văn học. Bên cạnh
những quan niệm duy vật thời kỳ này tư tưởng của ơng cịn xuất hiện sự bế
tắc trong việc tìm kiếm và giải quyết các vấn đề triết học. Lối thốt cho sự bế
tắc này được ơng giải quyết trong “thời kỳ phê phán”. Thời kỳ phê phán
(1770 - 1804), nếu trước đây I.Kant thừa nhận con người có khả năng nhận
thức thế giới, thì giờ đây ơng lại cho rằng con người không nhận thức được
thế giới – bất khả tri, trước đây ơng đề cao trí tuệ thì nay ơng lại đề cao tín
ngưỡng. I.Kant phủ nhận khả năng nhận thức bản chất của sự sống, ông cho
rằng thực thể và tinh thần, hiện thực và tư tưởng là hai lĩnh vực hồn tồn
khác nhau, khơng có liên quan gì với nhau. Từ đó, I.Kant hồi nghi khả năng
nhận thức thế giới nói chung của con người. Với phương châm “thời đại
chúng ta là thời đại phê phán đích thực mà mọi thứ đều phải phục tùng”,
I.Kant đề ra nhiệm vụ cho triết học của mình là phê phán hệ thống siêu hình
học cũ, đặt ngược lại một số vấn đề mà môn khoa học này tưởng như đã giải
quyết xong, I.Kant tập trung toàn bộ sức lực và thời gian để thực hiện nhiệm
8


vụ mà cả cuộc đời ơng đặt ra cho mình là xây dựng một hệ thống triết học
mới. Về tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy” Học thuyết "Triết học siêu
nghiệm" (Transzendentalphilosophie) của Kant đã đưa triết học Đức bước vào
một kỉ nguyên mới. "Danh tiếng của ông đã đẩy lùi những gì đi trước vào
bóng tối và toả sáng lên trên những gì đi sau", như nhận xét của triết sử gia J.
Hirschberger.
“Der Charakter eines wahren Philosophen ist der, daß er nichts thut,
als die Natürlichen Kräfte und Fähigkeiten zu exercieren, und zwar durch die
nachforschende Untersuchung der Kritik.” -  J.Hirschberger
Tạm dịch:
“Đặc điểm của một triết gia chân chính là ở chỗ ơng ta khơng làm gì
ngồi việc vận dụng sức mạnh và khả năng tự nhiên, cụ thể là qua việc

nghiên cứu sự phê phán.”
Điểm mấu chốt và tập trung trong triết học Cantơ và xác định bản chất
của con người, giải quyết những vấn đề của cuộc sống và hoạt động thực tiễn
của con đường. Do đó, trong hệ thống triết học của mình, Cantơ đặt ra và tìm
lời giải đáp cho bốn câu hỏi lớn. Các câu hỏi được tập trung làm rõ trong bộ
ba sách hệ thống triết học của ơng:
Một là: “Tơi có thể nhận thức được gì?” Câu hỏi này được trả lời trong
tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy”, viết năm 1781.
Hai là: “Tơi nên làm gì?” Câu hỏi này được trả lời trong tác phẩm “Phê
phán lý tính thực tiễn”, viết năm 1788.
Ba là: “Tơi có thể hy vọng được gì?” Câu hỏi này được trả lời trong tác
phẩm “Phê phán năng lực phán đoán”, viết năm 1790.
Bốn là: “Con người là gì?” Câu hỏi này được trả lời trong từng phần
của cả ba tác phẩm trên.
Vấn đề bản thể luận theo đó cũng được bàn đến trong cả ba tác phẩm
cũng như trong quá trình trả lời bốn câu hỏi lớn của ơng. Song chúng có thể
khái qt ở một số nội dung sau đây:
Quan điểm “vật tự nó”
9


Quan điểm này trong triết học Kant đi sâu vào lí giải “hiện tượng” và
“thế giới hiện tượng”.
Theo I.Kant "hiện tượng chỉ là vỏ ngoài hời hợt, chỉ là ảo tượng", thế
giới hiện tượng là sự biểu hiện bề ngoài (hiện tượng) của thế giới vật tự nó;
Là thế giới của kinh nghiệm; Nhận thức của chúng ta là nhận thức thế giới
này – Hiện tượng luận.
I.Kant lấy cảm giác làm tiêu chuẩn để phân ranh giới giữa những đối
tượng mà ta có thể tri thức (các hiện tượng), và những thực tại vượt quá khả
năng tri thức của ta (các vật tự nó), I.Kant cho rằng tất cả các trực giác của ta

chỉ là những biểu tượng của các hiện tượng, có nghĩa là chúng ta chỉ tri thức
vạn vật theo như chúng xuất hiện trước cảm giác của chúng ta, còn bản chất
sâu xa bên trong của chúng tự nó như thế nào thì chúng ta khơng thể biết
được, mỗi sự vật hiện tượng tự nó tồn tại, con người có cố gắng đi tìm cái bản
chất đích thực của nó thì cũng khơng bao giờ tìm hiểu hết được, càng cố gắng
đi tìm thì con người càng trở nên bất lực mà thôi. Không gian và thời gian là
những mô thức thuần túy của tri giác của chúng ta, cảm giác thường nghiệm
là chất liệu nói chung. Các mơ thức là thường nghiệm cịn cảm giác của chúng
ta là hậu nghiệm. Mặc dù cảm giác của chúng ta có tiến đến mức nào đi nữa
thì chúng ta vẫn không thể nào nhận thức hết được bản chất của sự vật, bởi vì
chúng ta khơng thể nào hiểu được "Vật tự nó". Tất cả những gì mà con người
chúng ta được nhận biết nơi giác quan chỉ là những hiện tượng mà thơi, chúng
ta chỉ có khả năng nhận biết được cái vỏ bề ngoài của sự vật, bởi vì chúng ta
phải thừa nhận rằng khơng có giác quan bên trong nào hết và chủ thể của các
giác quan bên trong ấy chỉ được giác quan đó biểu tượng như là một hiện
tượng mà thôi, chứ ở đây khơng phải là trực giác trí tuệ.
Do quan niệm: từ cảm giác, qua kinh nghiệm của chúng ta mà thế giới
hiện tượng thể hiện ra như nó đang tồn tại; hay có thể nói, hiện tượng chính là
phương thức mà nhờ đó “các sự vật” khách quan biểu hiện trong kinh nghiệm
của chúng ta, cho nên I.Kant còn gọi “thế giới hiện tượng” này là “thế giới
10


kinh nghiệm”. I.Kant đã luận giải về sự phân biệt mọi đối tượng thành "vật tự
nó" và "hiện tượng", thế giới thành "thế giới vật tự nó" và "thế giới hiện
tượng". Ông cho rằng các sự vật trong giới tự nhiên thuộc thế giới hiện tượng,
chúng có liên quan đến kinh nghiệm cảm tính, đến trực quan sinh động của
con người, đó là nơi mà con người cảm giác được sự tồn tại của chúng. Đây là
thế giới khả giác, khả nghiệm; bằng tri giác, cảm tính, thơng qua hình thức
tiên nghiệm của không gian – thời gian, con người có thể nhận thức được nó.

I.Kant cho rằng cảm giác đem lại cho chủ thể nhận thức những tài liệu cảm
tính lộn xộn. Nhờ có năng lực tiên thiên của khơng gian, tức là hình thức trực
quan mang tính chủ quan của con người (năng lực định hình hay cảm nhận,
xác định đối tượng trong một khn hình, vị trí hay giới hạn nào đó) mà các
đối tượng (bên ngồi tác động lên con người) được quy về các hình hài có
tính xác định (như nó vốn có trong thực tế). Nhờ năng lực tiên thiên của thời
gian (năng lực cảm nhận xác định các sự kiện diễn ra bên trong và bên ngoài
theo một trật tự liên tục trước sau) mà các ấn tượng, các trạng thái hỗn độn –
đa dạng được đưa vào một trật tự, sắp xếp theo thứ tự liên tục trước sau, kế
tiếp nhau.
Thế giới hiện tượng - hay những ánh xạ của "Vật tự nó" là thế giới nằm
giữa "Vật tự nó" và cái Tơi chủ thể nhận thức, nó là cái biểu hiện bề ngồi của
"Vật tự nó" mà con người cảm giác được thơng qua cácgiác quan của mình.
Như vậy, thế giới hiện tượng là những gì biểu hiện ra bên ngồi mà con người
có thể nhận biết được. Đó là thế giới mà con người có thể nắm bắt được bằng
giác tính của mình. Thế giới đó theo I.Kant là phần biểu hiện bề ngồi của thế
giới "Vật tự nó", là thế giới khơng nằm trong "điểm mù" của lý tính con người
và cũng không nằm trong "giải tần mờ" của lý tính, mà nó hiện hữu ra trước
mắt chúng ta, con người có thể dễ dàng nhận biết bằng giác quan thông
thường, thế giới hiện tượng hàng ngày tác động lên các giác quan của con
người và chính nó lại giúp con người có thể nhận biết nó một cách dễ dàng.
Thế giới ấy chỉ là một phần biểu hiện nhỏ của thế giới bí ẩn "Vật tự nó" mà
11


con người không thể nhận thức được. Thế giới "Vật tự nó" vơ cùng vơ tận, vì
thế con người đang ngày càng muốn đi sâu tìm hiểu để hiểu được bản chất
của nó là gì.
Phép biện chứng tiên nghiệm
Khơng “nêu lại phép biện chứng” mà các nhà siêu hình thế kỉ XVII –

XVIII đã đưa vào lãng quên, không chỉ làm triết học cũ thốt khỏi thứ triết lí
hão huyền, I.Kant đã tạo ra trong hệ thống triết học duy tâm tiên nghiệm của
mình một hình thức mới của phép biện chứng – phép biện chứng tiên nghiệm.
Siêu hình học Kant – học thuyết về các mối quan hệ
Khi xác định lại một cách có phê phán những quan niệm truyền thống
về lý tính, về khả năng nhận thức của con người, I.Kant coi nhiệm vụ phê
phán của “lý tính tư biện thuần túy” là “thay đổi phương pháp nghiên cứu
trước đây trong siêu hình học”. Ơng đã đưa ra một thứ siêu hình học mới –
siêu hình học tiên nghiệm mà nói một cách ước lệ, nó được coi như học
thuyết về các mối quan hệ.
Sự độc đáo trong siêu hình học Kant chủ yếu được xác định bởi sự
thống nhất hữu cơ giữa hiện tượng học và bản thể luận. “Phê phán lý tính: của
Kant trước hết nhằm phi bản thể luận hóa bản chất siêu nghiệm của Thượng
đế. Ông đi tới kết luận rằng đằng sau khái niệm Thượng đế không ẩn náu một
thực tại, một bản chất nào cả. Với cách tiếp cận đó, I.Kant hy vọng siêu hình
học tiên nghiệm của ơng sẽ lý giải được những vấn đề mà siêu hình học
truyền thống khơng lý giải được. Song, chính sách tiếp cận đó cũng lại đặt ra
những trở ngại cho việc làm sáng tỏ nội dung bản thể luận của siêu hình học
theo kiến giải của chính ơng. Tuy nhiên, với các tiếp cận đó, I.Kant đã có
những đóng góp đảng kể vào việc phát triển nội dung bản thể luận triết học.
Ông cho rằng để phát triển nội dung bản thể luận triết học thì trước hết, chúng
ta phải tạo ra một hệ thống khái niệm có khả năng mơ tả cấu trúc nội tại của
bản thể luận. Thực hiện mục đích đó, I.Kant khơng dừng lại ở việc phân tích
khả năng cảm tính mà tiếp tục nghiên cứu tư duy, trí lực của con người. Ông
12


đòi hỏi ở các tri thức khoa học và triết học sự hoàn hảo tuyệt đối, coi như là lý
tưởng của tri thức con người. Điều đó cho thấy bản thể luận trong siêu hình
học tiên nghiệm của I.Kant khác với mọi bản thể luận trong siêu hình học

truyền thống. Nó là thứ bản thể luận, trong đó con người được quan niệm
không phải với tư cách là chủ thể riêng biệt mà là chủ thể xã hội tiên nghiệm.
Về con người
Một câu hỏi ln được đặt ra trước lồi người nói chung và các nhà tư
tưởng nói riêng là: Con người từ đâu đến, nó sẽ đi về đâu, cái gì đang đợi nó
và tương lai của nó như thế nào?. I.Kant là một trong những đại biểu xuất sắc
nhất trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã đề xuất nhiều ý tưởng có ý nghĩa to
lớn đối với việc tiếp cận vấn đề muôn thuở trên.
Kế thừa một cách chọn lọc những thành tựu triết học của các thế hệ đi
trước, khi vạch ra những hạn chế trong lý luận về con người của họ, I.Kant
phê phán tư tưởng tính ưu tiên của lồi đối với cá thể. Ông xem xét loài dưới
dạng bản chất xã hội; những quyền lợi của lồi là những quyền lợi hàng đầu
có tính quyết định đối với cá thể. Ở đây, ơng đề xuất tư tưởng về sự thống
nhất của loài người: “tất cả mọi người trên trái đất, về bản chất, đều thuộc một
loài…, ngay đến vẻ ngoài của con người cũng có những cái khơng thể phân
biệt được sự khác nhau”. Nguyên nhân của sự khác nhau ở các chủng tộc
người là sự tác động đa dạng của các điều kiện sống tự nhiên – vật chất khác
nhau. Kant đã chứng minh rằng tính xã hội của lồi người được hình thành do
sự vận động của các trạng thái tự nhiên – sinh học của các cá thể ở mỗi thế hệ,
dần dần qua quá trình phát triển ý thức của các thế hệ mà các hình thái đạo
đức và cuối cùng là lý tưởng xã hội được phát triển.
Nghiên cứu xã hội loài người, Kant phân ra bốn mức độ hay bốn bước
phát triển. Bước đầu tiên là lịch sử lồi người đó là “bước chuyển từ trạng thái
tồn tại thuần túy động vật sang trạng thái có tính người, từ sự lệ thuộc vào bản
năng sang sự chỉ đạọ của lý trí…” Bước chuyển thứ hai từ khi lý trí trở thành
yếu tố có vai trị trọng yếu trong đời sống, khi các tình cảm thuần túy được bổ
13


sung thêm chất tư tưởng, các nhu cầu có tính động vật trở thành tình yêu, các

cảm giác, sự dễ chịu trở thành sự cảm nhận cái đẹp đầu tiên trong con
người…” Bước thứ ba được thể hiện như “sự chờ đợi có tính lý trí tới tương
lai” Và cuối cùng, bước cuối cùng được thể hiện bằng lý trí. Đó là bước quyết
định nâng con người vượt lên trên thế giới động vật.
Tư tưởng về động lực phát triển của lịch sử thế giới do Kant đề xuất
cũng có ý nghĩa to lớn. Theo ông, động lực thúc đẩy lịch sử thế giới khơng chỉ
là tồn bộ những hành động của cá nhân mà là một hệ thống gồm các bộ phận
của nó là vơ số các thế hệ tạo nên một loài bất tử. Các tư chất tự nhiên của
mỗi cá thể, khuynh hướng vận động có tính lý trí của nó được phát triển hồn
tồn khơng ở trong cá thể mà trong loài người: bởi mỗi cá thể chỉ là cái hữu
hạn sẽ bị tiêu vong, chỉ có các thế hệ mới có thể lưu truyền các di sản cho
nhau, làm cho các tư chất vốn có trong loài được bảo tồn và ngày càng được
phát triển. Chỉ có lao động là nhân tố trường tồn tự khẳng định con người và
tạo nên nền văn hóa, văn minh, những cái tạo ra động lực tiến bộ cơ bản của
lịch sử.
Kant cho rằng, nếu nhu cầu ở con vật là khơng thay đổi thì ở con
người chúng ln ln biến đổi, lớn lên, làm thành chất kích thích thúc đẩy
xã hội phát triển. Sự phát triển mọi tư chất vốn có trong lồi người theo
Kant, chỉ có được trong tương lai của xã hội cơng dân có pháp chế phổ
biến. Đó là xã hội phát triển ở trình độ cao được đặc trưng bằng tự do cao
nhất đối với mọi người.
Kant có cách tiếp cận con người với tư cách một thực thể xã hội được
phát triển các năng lực của mình phù hợp với tư tưởng cá nhân hài hịa, tự do,
bình đẳng. Năng lực của con người, theo Kant, khơng thể được bộc lộ ở bên
ngồi cộng đồng người. Chỉ trong cộng đồng, con người mới trở nên hạnh
phúc, vì chỉ ở đó, người này mới có thể đem lại điều thiện cho người kia. Là
một nhà tư tưởng sâu sắc, Kant ln có cái nhìn tới tương lai, tin tưởng vào
tương lai loài người. Đồng thời, ông cũng tin tưởng vào sự tiến bộ vô tận của
14



xã hội và vai trò hoạt động cải tạo của con người với tư cách là chủ thể của
thế giới, bởi con người về bản chất là một thực thể hoạt động, tích cực.
Ý nghĩa to lớn của việc nghiên cứu vấn đề con người của Kant là ở chỗ,
ông đã: Thứ nhất, quan tâm đặc biệt tới những điều kiện tự nhiên – vật chất
của sự nảy sinh và phát triển xã hội; Thứ hai, xây dựng học thuyết về vai trị
của tính mâu thuẫn xã hội và tính đối kháng như là động lực của tiến trình lịch
sử;Thứ ba, tin vào tiến bộ xã hội và thắng lợi của yếu tố đạo đức trong con
người; Thứ tư xem mục đích của lịch sử là xây dựng một xã hội công bằng và
con người hạnh phúc, phát triển hài hịa. Các quan điểm của Kant về tiến trình
lịch sử là một trong những bước tiến lớn lao trên con người xây dựng lý
thuyết biện chứng về sự phát triển.
2. Triết học Hegel (Hêghen)
2.1 Tiểu sử
Georg Wilhem Friedrich Hegel sinh ngày 27/8/1770 trong một gia đình
viên chức Nhà nước tại Stuttgart, thuộc lãnh địa Württemberg, miền tây nam
nước Đức. Ông là anh cả trong gia đình có ba anh em. Hegel được nuôi
dưỡng trong một môi trường Tin Lành ngoan đạo. Mẹ ông đã dạy tiếng Latin
cho ông từ rất sớm.
Năm 1776, ông theo học trung học tại trường Stuttgart. Năm 1788,
Hegel theo học tại trường dòng Tin Lành thuộc Đại học Tübinger. Tại đây,
ông kết bạn với nhà thơ Friedrich Hölderlin và triết gia trẻ sau này Friedrich
Wilhelm Joseph Schelling. Cả ba đã có nhiều chia sẻ lẫn nhau và chịu ảnh
hưởng tư tưởng của nhau.
Từ 1793 – 1797, sau khi tốt nghiệp trường Tübinger, Hegel đi dạy tư tại
Bern (Thụy Điển) và Frankurt. Năm 1799, cha ông qua đời. Được thừa kế di
sản từ người cha, ông từ bỏ việc dạy tư. Năm 1801, Hegel đến Jena và làm
việc với tư cách một giảng viên, sau đó trở thành Giáo sư. Tại đây, ơng đã
hồn thành một trong những tác phẩm quan trọng nhất của ông – Hiện tượng
học về tinh thần (“Phenomenology of Spirit” – 1807).

15


Năm 1806, Pháp chiếm đóng thành phố Jena. Tháng 03/1807, Hegel
đến Bamberg và làm Biên tập cho tờ báo Bamberger Zeitung. Tháng 11/1808,
Hegel làm Hiệu trưởng một trường dòng ở Nuremberg trong tám năm (đến
1816). Tại đây, ông đã đưa tác phẩm Hiện tượng học về tinh thần vào giảng
dạy. Trong thời gian này, ơng xuất bản tác phẩm chính yếu thứ hai của ông:
Khoa học về Logic (3 tập vào các năm 1812, 1813, 1816).
Năm 1816, Hegel đến Đại học Heidelberg. Ngay sau đó, năm 1817, ơng
cho xuất bản Đại cương Bách khoa thư về khoa học triết học (The
Encyclopedia of the Philosophical Sciences in Outline) dưới hình thức tóm
lược triết học của ơng để giảng dạy tại Heidelberg.
Năm 1818, Hegel đến dạy tại Đại học Berlin và đến đây làm Chủ tịch
Triết học (bỏ trống từ sau khi Fichte qua đời năm 1814). Năm 1821, ông cho
xuất bản tác phẩm Triết học pháp quyền (1821). Ơng gắn bó ở đây và qua đời
vào ngày 14/11/1831 vì bệnh dịch tả.
Nhưng năm tháng cuối đời, Hegel tập trung giảng dạy về mỹ học, lịch
sử triết học, triết học tôn giáo, triết học lịch sử. Các ghi chú giảng bài của ông
và các ghi chú bổ sung của sinh viên được xuất bản sau khi ông qua đời: Mỹ
học (1835 – 1838), NhữnG bài giảng về lịch sử triết học (1833 – 1836),
Những bài giảng về triết học tôn giáo (1832), Nhữn bài giảng về triết học lịch
sử (1837).
Ngoài ảnh hưởng mạnh mẽ tư tưởng Hy Lạp (Parmenides), Hegel còn
đọc các tác phẩm của triết gia Hà Lan Baruch Spinoza, văn hào Pháp Jean
Jacques Reussau và các triết gia Đức Immanuel Kant, Johan Gottlieb Fichte,
Schelling. Dù ông thường xuyên bất đồng với những triết gia này nhưng ảnh
hưởng của họ trong các tác phẩm của ông là rất rõ ràng.
2.2 Một số vấn đề bản thể luận nổi bật trong triết học Hegel
Tư tưởng về nguồn gốc thế giới

Hegel là nhà duy tâm khách quan, ông cho rằng khởi nguyên của thế
giới không phải là vật chất mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới” .
16


Ông coi tinh thần thế giới là cái có trước, vật chất với tính cách dường như là
sự thể hiện, sự biểu hiện cụ thể của tinh thần thế giới, là cái có sau; tinh thần
là đấng sáng tạo ra vật chất. Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là
kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Tinh thần thế giới –
ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn và chứa đựng dưới dạng tiềm năng tất cả
của mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội. Nó là nguồn gốc và động lực của mọi
hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Tinh thần thế giới hay ý niệm tuyệt đối trong quá trình phát triển của nó
diễn ra qua các giai đoạn khác nhau, ngày càng thể hiện đầy đủ nội dung bên
trong nó. Đầu tiên nó phát triển trong bản thân nó, sau đó thế hiện dưới hình
thức tự nhiên – thế giới vô cơ, hữu cơ và con người, tiếp nữa thể hiện dưới
hình thức nhà nước, nghệ thuật, tơn giáo và triết học. Theo hệ thống của
Hegel, toàn bộ thế giới muôn màu, muôn vẻ là sản phẩm của sự phát triển tự
nhiên của ý niệm với tính cách là lực lượng sáng tạo, là tổng hòa của mọi hình
thức khác nhau của sự biểu hiện ý niệm. Bởi vậy, học thuyết của Hegel coi
tính thứ nhất là tinh thần, tính thứ hai là vật chất do ý niệm tuyệt đối và tinh
thần thế giới sinh ra và quyết định, là một sự “tồn tại” khác của tinh thần sau
khi trải qua giai đoạn “tồn tại khác” ấy, ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giới
mới trở lại “bản thân mình” và đó là giai đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng,
được Hegel gọi là “tinh thần tuyệt đối”. Đó cũng chính là sự thể hiện riêng về
mặt triết học những lời khẳng định của tôn giáo rằng Thượng đế sáng tạo ra
thế giới.
Có thể nói, trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Hegel chỉ
lặp lại những điều mà các nhà duy tâm trước đó đã nói, song cái mới trong
học thuyết của ơng chính là chỗ ơng xem xét tinh thần thế giới, ý niệm tuyệt

đối là một q trình phát triển khơng ngừng, và ơng là một nhà triết học hồn
chỉnh phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng của ý niệm tuyệt đối, tinh
thần thế giới với tính cách là cơ sở đầu tiên và nguồn gốc của mọi tồn tại.
Tư tưởng biện chứng của Hegel
17


Thành tựu lớn nhất của nền triết học cổ điển Đức là phép biện chứng.
Phép biện chứng duy tâm khách quan của triết học cổ điển Đức bắt đầu từ
Kant, qua Fichte, Schelling và đỉnh cao là Hegel.
Theo Hegel, triết học là sự xem xét đối tượng một cách có suy nghĩ.
Đối tượng của triết học, theo ông, là trùng với đối tượng của tơn giáo, đó là
khách thể tuyệt đối vơ hạn Thượng đế. Cịn tư duy nói chung là cái làm cho
con người khác động vật. Thành tựu quan trọng về triết học Hegel là phương
pháp biện chứng mà hạt nhân hợp lý của nó là tư tưởng về sự phát triển.
Phương pháp biện chứng của Hegel là phương pháp suy ngẫm về thế
giới. Kết quả của phương pháp này là hình ảnh suy tư chỉnh thể về thế giới
chứ không phải là bức tranh thế giới thu được nhờ kết quả của khoa học cụ
thể. Để suy ngẫm về thế giới, Hegel đã bao trùm lên nó một hệ thống phạm
trù hay đúng hơn là quan niệm lý trí về thế giới. Phương pháp biện chứng
được thể hiện xuyên qua toàn bộ hệ thống triết học của ông từ logic học, triết
học tự nhiên đến triết học tinh thần.
Trong tác phẩm Logic học, khi trình bày “ý niệm tuyệt đối” vận động
và phát triển, Hegel cho rằng đó là sự tự vận động nội tại của “ý niệm tuyêt
đối”. Tự vận động tức là sự thay đổi các hình thức khác nhau của “ý niệm
tuyệt đối”. Lenin tìm thấy hạt nhân hợp lý trong phương pháp biện chứng của
Hegel là sự tự vận động. Nội dung hợp lý sâu sắc trong quan điểm trên của
Hegel là mối liên hệ tất yếu, là nguồn gốc nội tại của những sự khác nhau.
Khi trình bày “ý niệm tuyệt đối” phát triển, Hegel thừa nhận tồn tại, bản chất,
khái niệm là ba sự quy định, ba hình thức chủ yếu trong quá trình phát triển ở

lĩnh vực logic. Hạt nhận hợp lý trong logic của Hegel là sự phù hợp với quá
trình suy nghĩ của con người: mới nhìn vào sự vật thấy tồn tại, đi sâu vào sự
vật tìm ra bản chất, khi nắm bản chất ta rút ra khái niệm.
Trong tác phẩm Logic học, ở phần tồn tại, Hegel cũng đã diễn đạt các
phạm trù chất, lượng, độ và tư tưởng biện chứng về sự chuyển hóa lượng –
chất. Ở phần bản chất, Hegel diễn đật các phạm trù bản chất, hiện tượng, quy
18


luật, khả năng và hiện thực, nguyên nhân và kết quả, trình bày học thuyết mâu
thuẫn nguồn gốc của sự phát triển. Ở phần khái niệm, Hegel đã diễn đạt các
phạm trù cái chung và cái riêng, quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp,
đã diễn đạt các ngun lý sự hoạt động có mục đích của con người, sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn, tổng hợp lại quan niệm phát triển với tư cách là
phủ định của phủ định. Sự biện chứng của Hegel còn được thể hiện ở chỗ ông
đã đặt ra vấn đề sự thống nhất của quá trình logic với quá trình lịch sử; logic
học, nhận thức luận đều là sự tổng hợp của q trình lịch sử; ơng nêu lên tính
hạn chế của logic hình thức và địi hình thành một logic nội dung thực tế, sinh
động; ông nêu lên tư tưởng thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý
luận nhận thức.
Trong triết học tự nhiên, hạt nhân hợp lí trong phép biện chứng của
Hegel là tư tưởng về sự thống nhất giữa vật chất với vận động, dự đốn khơng
gian, thời gian và vận động có mâu thuẫn bên trong, ở đó thể hiện tính thống
nhất giữa tính gián đoạn và tính liên tục; là tư tưởng cho rằng sự khác biệt hóa
học về chất bị phụ thuộc vào những thay đổi về lượng, là sự biện chứng của
q trình hóa học; là mối liên hệ hữu cơ giữa hóa học và vật lý, q trình hóa
học là khâu chuẩn bị cuối cùng cho đời sống hữu cơ.
Trong triết học tinh thần, hạt nhân hợp lí trong phép viện chứng của
Hegel thể hiện ở chỗ ông coi sự phát triển của lịch sử là hợp quy luật; sự phát
triển của lịch sử khơng tuần hồn mà đi lên, mỗi thời đại lịch sử đều có đặc

điểm riêng và q trình phát triển của lịch sử là có tính kế thừa.
Tư tưởng của Hegel về con người
Nguyên lý xuất phát triết học Hegel là sự thống nhất giữa tư duy và tồn
tại, giữa tinh thần và thế giới và thế giới được hiểu như hiện thân của tinh
thần đó. Tư duy, tinh thần, theo Hegel là nguồn gốc duy nhất của mội cái
trong tồn tại. Thế giới tự nhiên la tư duy đã tha hóa, là tư duy tồn tại dưới
dạng vật chất. Tư duy khi suy tư về chính bản thân mình thì nó đã lấy chính
bản thân mình làm đối tượng dể tư duy. Nói cách khác, Hegel coi thế giới vật
19


chất chính là con người vơ cơ, con người ở giai đoạn chưa hình thành. Cịn
con người bằng xương, bằng thịt theo Hegel là con người đã phát triển đầy
đủ, là con người trở về chính bản thân nó với tất cả những đặc tính vốn có của
mình.
Hegel đã quy mọi quá trình của hiện thực thành quá trình tư duy, quy
lịch sử hiện thực về lịch sử tư duy, quy hoạt động thực tiễn của con người về
quá trình tự ý thức, tự nhận thức. Hegel coi con người vừa là chủ thể vừa là
kết quả của chính quá trình hoạt động của mình; con người vừa là chủ thể,
đồng thời là mục đích của sự phát triển lịch sử; tư duy và trí tuệ con người
hình thành và phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải biến
thế giới, đối lập với bản thân mình thành cái của mình, ý thức con người là
sản phẩm của lịch sử xã hội, hoạt động của con người càng phá triển thì ý
thức của nó càng mang bản chất xã hội.
Hegel coi con người là sản phẩm và cũng là giai đoạn phát triển cao của
tinh thần tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người là
công cụ để tinh thần tuyệt đối nhận thức chính bản thân mình. Hegel tiếp cận
được quan niệm coi ý thức con người, nhân cách con người là sản phẩm của
lịch sử.
Con người và khả năng lớn lao của lý trí con người:

Hegel đã thiết lập mệnh đề tổng qt rằng “cái gì có lý tính là hiện thực
và cái gì hiện thực là lý tính” (“Whatever is reasonable is true, and whatever
is true is reasonable”), từ mệnh đề này ông đi đến kết luận rằng bất cứ cái gì
tồn tại đều có thể hiểu được. Điều này ông đi ngược lại với những gì mà Kant
đã đề cập đến nhưng cho là không thể giải quyết được trong nhận thức của lý
trí thuần tuý như: Vấn đề Thượng Đế, Bản Ngã và Vũ trụ. Bằng tổng hợp triết
học đồ sộ của mình, Hegel tin lý trí con người có thể lý giải tất cả mọi vấn đề
của thực tại.
Riêng vấn đề con người, khác với Kant, Hegel cho rằng các phạm trù
không phải như là những quá trình của tinh thần mà như là những thực tại
20


khách quan có sự tồn tại độc lập với cá thể tư duy. Ông xem xét những chủ đề
về sự tha hóa của con người khỏi Thượng Đế và sự phục hồi của sự duy nhất
bị đánh mất giữa cái hữu hạn và cái vô hạn, sự vô hạn này là đời sống sáng
tạo vốn ôm ấp mọi tư tưởng trong một vũ trụ duy nhất và đó chính là Thượng
Đế hay Toàn Thể hoặc là Thực tại như là một tồn thế.
Trong tác phẩm chính đầu tiên của ơng là Hiện tượng học về tinh thần
(Phenomenology of the Spirit), Hegel đề cập đến khả năng biện chứng của
con người, “khởi đi với những mức độ thấp nhất của ý thức và cơng trình của
con người một cách biện chứng hướng đến mức độ mà ở đó tâm trí con người
đạt tới quan điểm tuyệt đối”. Tư duy và trí tuệ của con người hình thành và
phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải biến thế giới đối lập
với bản thân mình thành cái của mình, ý thức con người là sản phẩm của lịch
sử xã hội, hoạt động của con người càng phát triển thì ý thức của nó càng
mang bản chất xã hội.
Con người trong tương quan với nhà nước:
Hegel cũng xem xét con người trong tương quan với nhà nước. Theo
ông giữa cá nhân và nhà nước có hai biện chứng, đó là gia đình và xã hội, vì

thế: “Con người có được hiện hữu là nhờ nhà nước” và nhờ quá trình biện
chứng.
Hegel chủ trương nhà nước là một cơ quan tìm cách phát triển ý niệm
tự do tới mức tối đa, và cá nhân chỉ đạt sự tự do khách quan khi mỗi cá nhân
cũng làm như thế. Ông quan niệm giá trị của con người tùy thuộc sự đáp ứng
sáng tạo của họ trước sự khai mở của ý niệm tự do. Hegel cho rằng các cá
nhân có ý thức về tự do và diễn tả tự do của họ một cách cụ thể nhất bằng
hành vi ý chí. Ơng coi ý chí và lý trí gần đồng nghĩa với nhau “chỉ khi trí tuệ
suy nghĩ, ý chí mới là ý chí tự do”. Theo ơng tự do cao nhất khi cá nhân hành
động theo ý chí phổ quát, hợp lý với tồn thể xã hội.
Ơng quan niệm rằng q trình biện chứng đến mức nào đó sẽ xuất
hiện của một tình trạng khơng xung đột: nếu khơng cịn xung đột thì sẽ
21


khơng cịn biến dịch nữa. Ơng xem đó là một xã hội hữu cơ, trong đó mỗi
cá nhân là một bộ phận chức năng hài hoà với toàn bộ, họ tuỳ thích phụng
sự lợi ích của một tồn thể lớn hơn bản thân họ rất nhiều. Ông tin rằng một
xã hội như thế hoàn toàn vượt quá những giá trị của chủ nghĩa cá nhân tự
do: “nhà nước là ý niệm của tinh thần trong sự biểu hiện bên ngoài của ý
chí con người và tự do của nó”.
Tóm lại, Hegel đã có cơng “cứu” lý trí con người khỏi quan điểm chật
hẹp của các triết gia Duy Lý và Duy Nghiệm trước ơng. Ngồi ra, Hegel đã có
cơng nối kết tư tưởng của hai trường thái triết học này trong khi xây dựng
quan điểm độc đáo của riêng mình. Bên cạnh đó ơng cũng đã đi ngược lại
quan điểm của Kant về khả năng giới hạn nhận thức của con, bằng cách đề
cao khả năng to lớn của lý trí con người trong khi nhận thức mọi thực tại.
Theo Hegel “bất cứ cái gì tồn tại thì đều có thể hiểu được”.
Tư tưởng của Hegel về đạo đức
Quan điểm triết học của Hegel về đạo đức luôn gắn với pháp quyền,

mục đích chủ yếu của đạo đức học Hegel là phân tích xã hội đang tồn tại
chứ khơng phải cái hiện thực cần phải có. Hegel nghiên cứu đạo đức, pháp
quyền, nhà nước, gia đình là biểu hiện của sự tha hóa “tinh thần đạo đức
khách quan”.
Pháp quyền dưới góc nhìn đạo đức của Hegel, quan điểm biện chứng
về pháp quyền theo một trình tự nhất định từ thấp lên cao. Pháp quyền bắt
nguồn từ luân lý và đời sống đạo đức (gia đình, xã hội dân sự, nhà nước) đến
lịch sử thế giới (pháp quyền tối cao). Trong tác phẩm Triết học pháp quyền,
lĩnh vực đạo đức hay từ của ông dùng là “thực thể đạo đức” bao gồm ba giai
đoạn: giai đoạn thứ nhất là gia đình, giai đoạn thứ hai là xã hội công dân, giai
đoạn thứ ba là nhà nước.
Quan hệ đạo đức của Hegel về gia đình là sự kết hợp giữa bản năng và
tình yêu một cách bền chặt và khách quan. Hegel khơng xem xét hơn nhân,
gia đình dưới khía cạnh sinh học, mà xem xét dưới khía cạnh đạo đức. Hegel
22


cũng đồng tình về tính tuyệt đối trong hơn nhân với quan điểm một vợ một
chồng và những người có chung huyết thống không được lấy nhau. Hegel
cũng cho rằng sự khác biệt tính phái biểu hiện qua sự phân chia bổn phận
giữa vợ và chồng trong gia đình mang tính đạo đức. Người chồng quản lý tài
sản của cả gia đình, và có trách nhiệm chủ yếu ngồi xã hội, trong khi đó
người vợ lại có khuynh hướng hướng nội đối với gia đình.
Quan điểm triết học về đạo đức của Hegel thể hiện việc trình bày các
phạm trù đạo đức, đặc biệt là phạm trù cái thiện và cái ác trong những mâu
thuẫn nội tại và sự chuyển hóa giữa chúng với nhau. Hegel đã thấy được quy
luật của sự vận động và phát triển, trong quá trình phát triển của lịch sử, trong
những điều kiện nhất định, cái ác và cái thiện có thể chuyển hóa lẫn nhau, cái
ác có thể trở thành cái thiện và cái thiện cũng có thể trở thành cái ác. Theo
quan điểm biện chứng của Hegel, hai phạm trù thiện và ác, là sự thể hiện trọn

vẹn ý chí của con người đối với cái toàn năng, biểu hiện sự thống nhất giữa
đạo đức cá nhân và các quyền lợi chung. Nghĩa vụ đạo đức cao cả là yêu
nước, phục tùng nhà nước.
Đỉnh cao của học thuyết về đạo đức của Hegel lý luận về nhà nước,
Hegel coi nhà nước là mục đích tự thân, là cái hợp lý tự nó và cho nó, trong
đó nhà nước tự do đạt tới pháp luật tối cao phù hợp với nó. Ngược lại với
quan niệm của triết học Khai sáng Pháp coi nhà nước phải phục vụ lợi ích của
cá nhân, Hegel cho rằng nhà nước có ý nghĩa tuyệt đối bậc nhất đối với lợi ích
của từng cá nhân cụ thể, nó là sự thực hiện tự do đích thực trong thế giới. Ông
không chỉ tuyên bố nhà nước là sự thực hiện tự do, mà còn là sự chu du của
Thượng đế trong thế giới. Vì vậy, khái niệm nhà nước của Hegel khơng chỉ
mang tính chất duy tâm, mà cịn có tính chất thần thánh nữa. Hegel coi nhà
nước là giai đoạn phát triển cao nhất của thực thể đạo đức so với gia đình và
xã hội cơng dân, Hegel đã đặt nhà nước đứng trên nấc thang phát triển cao
hơn so với xã hội công dân và xã hội công dân hồn tồn phụ thuộc vào nhà
nước. Hơn nữa, ơng đã phân biệt nhà nước hiện thực với nhà nước lý tưởng
23


và cho rằng nhà nước hiện thực có thể xấu xa, cịn nhà nước lý tưởng là tốt
đẹp, bởi nó là “Thượng đế hiện thực”.
Hegel coi nhà nước lý tưởng là nhà nước quân chủ Phổ, đạo đức mà
ông xây dựng là đạo đức bảo vệ nhà nước quân chủ Phổ. Theo ơng, nhà nước
Phổ là sự thể hiện hồn thiện nhất của “ý niệm đạo đức” – tức sự thần bí hóa
các mối quan hệ xã hội. Chính vì là một nhà triết học duy tâm khách quan nên
tư tưởng của Hegel về đạo đức, nhà nước và pháp quyền hồn tồn mang màu
sắc thần bí, các mối quan hệ xã hội, công dân, nhà nước chỉ được coi là sự
thể hiện của ý niệm đạo đức. Theo đó, pháp quyền hay quyền hạn Nhà nước
sẽ không bị ràng buộc bởi những luân lý thuộc cấp độ thấp hơn (gia đình, xã
hội), nhưng phải chịu sự tác động của quyền hạn tuyệt đối của tinh thần thế

giới (cấp độ cao hơn), có thể hiểu như tịa án thế giới. Như vậy, Hegel là đại
biểu của một nền đạo đức học định chế, theo đó con người khơng phải làm bất
kỳ điều gì khác ngồi những gì đã qui định trong một cộng đồng đạo đức.
Theo đó, sự đúng đắn và bổn phận của con người trong xã hội do bản thân
chính xã hội đó tạo ra.
Quan điểm về đạo đức của Hegel có ảnh hưởng lớn đến quan điểm
chính trị và xã hội của ông. Về phương diện đạo đức, Hegel cho rằng việc
khẳng định hay phủ định một vấn đề nào đó chủ yếu xuất phát từ nhận thức cá
nhân. Tuy nhiên, bổn phận, trách nhiệm của con người trong xã hội không hẳn
là sản phẩm của các phán đoán, nhận thức của cá nhân, đây là sản phẩm của
quá trình phát triển nhằm vượt lên trên những nhận thức đơn lẻ của các cá
nhân trong xã hội. Bổn phận, trách nhiệm của cá nhân chỉ thể hiện đầy đủ và
trọn vẹn khi các cá nhân được đặt trong những mối quan hệ của xã hội, đây
chính là bối cảnh duy nhất thế hiện bổn phận, trách nhiệm của cá nhân. Vì thế,
Hegel coi tư cách cơng dân là một trong những bổn phận cao cả nhất mà mỗi
cá nhân phải đảm bảo thực hiện. Như vậy, theo Hegel, nhà nước là sự biểu
hiện của ý chí mang tính phổ biến, là sự thể hiện cao nhất của tinh thần đạo
đức. Việc cá nhân phải phục tùng ý chi mang tính phổ biến này thể hiện hành
24


vi tự do, thuần lý của cá nhân. Ông cũng bày tỏ sự phản đối gay gắt đối với
những nhà nước hạn chế sự tự do, và cho rằng điều này là không chấp nhận
được về mặt đạo đức.
3. Triết học Feuerbach (Phoiơbắc)
Ludwig Feuerbach (Lútvích Phoiơbắc) sinh năm 1804, mất năm 1872.
Cuộc đời và sự nghiệp của nhà duy vật tiêu biểu cho nền triết học cổ điển Đức
nói riêng, chủ nghĩa duy vật nói chung này gắn liền với một giai đoạn, một
cột mốc hết sức quan trọng trong lịch sử phát triển xã hội, cũng như lịch sử
phát triển của khoa học và triết học phương Tây. Đó là thời kỳ của những

cuộc cách mạng tư sản Tây Âu, đánh dấu giai đoạn phát triển đầu tiên của chủ
nghĩa tư bản; thời kỳ của những phát minh vạch thời đại trong khoa học tự
nhiên cận đại và cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen
thực hiện với “sự cáo chung” của triết học cổ điển Đức và sự ra đời của triết
học mácxít.
Triết học Feuerbach, một mặt, phản ánh những đặc trưng của thời đại
ông; mặt khác, đó cũng chính là cuộc đời ơng, cuộc đời của một con người
giàu lòng trắc ẩn, vị tha và ln khát khao tình người, nhưng ngay từ khi mới
bước vào sự nghiệp đã bị bạc đãi, phải sống khổ hạnh và cô đơn trong cái
biển sục sôi của các cuộc cách mạng xã hội và cách mạng khoa học lúc bấy
giờ. Chính những điều kiện lịch sử - xã hội và bản thân đó đã tạo nên mặt
mạnh, mặt tích cực và cũng là nét đặc thù nhất của triết học Feuerbach - tính
nhân bản sâu sắc, đồng thời cũng là nguyên nhân đưa đến những hạn chế,
khiếm khuyết trong triết học của ông, như vứt bỏ phép biện chứng, tuyệt đối
hố tình u, duy tâm và siêu hình về con người và xã hội. Đúng như
Ph.Ăngghen đã viết: "Đó là lỗi tại những điều kiện thảm hại ở nước Đức hồi
đó, những điều kiện đã khiến cho những ghế giáo sư triết học đều do bọn
chiết trung chủ nghĩa chuyên giết rệp chiếm đoạt hết, còn Feuerbach, người
vượt tất cả những bọn đó một trời một vực, lại buộc phải nơng dân hố và rầu
rĩ trong một làng nhỏ. Nếu như Feuerbach vẫn không tiếp thu được quan điểm
25


×