Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

tiểu luận số 5 về luật thương mại quốc tế luật thương mại quốc tế luật thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (39.42 KB, 2 trang )

Câu 1:
-

Phương pháp được vận dụng ở đây là phương pháp: phương pháp truyền thống

-

(hay còn gọi là phương pháp phân tích câu chữ và chú giải)
Cách thức vận dụng phương pháp để rút ra kết luận “hai chủ thể được nêu chỉ là

một”:
Dựa theo phương pháp truyền thống, việc phân tích luật được đi xuyên suốt văn bản pháp
luật để nắm ý chí đích thực của người làm luật và phát hiện ý chí của người làm luật, phát
hiện các quy phạm pháp luật mà người làm luật muốn xây dựng và thể hiện trong văn
bản. Trong phương pháp phân tích câu chữ, luật và luật viết hồn tồn độc nhất với nhau
và việc áp dụng pháp luật trước hết là việc xây dựng một tam đoạn luận đơn giản. Thứ
nhất gồm đại đề là quy tắc thích ứng của luật viết. Trong trường hợp này chính là quy
định tại Điều 5.1 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008: “Người có quốc tịch Việt Nam là
cơng dân Việt Nam.” Và quy định tại Điều 14.2 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 là
tiêu đề ghi nhận việc có đủ điều kiện để áp dụng quy tắc:
“Người được xác định có quốc tịch Việt Nam, nếu thuộc một trong những căn cứ
sau đây:
2. Được nhập quốc tịch Việt Nam”
Theo quy định tại Điều 14.2, người đã nhập quốc tịch Việt Nam là người có quốc tịch
Việt Nam, vậy nên người đã nhập quốc tịch Việt Nam theo Điều 5.1 chính là cơng dân
Việt Nam. Từ đó có thể đi đến phần kết luận là “hai chủ thể người đã nhập quốc tịch Việt
Nam và Công dân Việt Nam theo quy định tại Điều 31 là chỉ là một”.
Thứ nhất, áp dụng quy tắc nếu luật viết rõ ràng thì phải tuyệt đối tôn trong câu chữ của
luật viết, Trong trường hơp này, do Luật quốc tịch Việt Nam đã quy định rõ ràng khái
niệm về người có quốc tịch và trường hợp người nhập quốc tịch Việt Nam được xác định
là có quốc tịch Việt Nam nên đến quy định tại Điều 31 cần phải áp dụng một cách thống


nhất.
Thứ hai, áp dụng quy tắc nếu luật viết không rõ ràng hoặc khơng đầy đủ thì phải tìm hiểu
luật trên cơ sở quán triệt toàn bộ tinh thần của văn bản. Cụ thể trong trường hợp này, do
hai chủ thể nêu trên được là một nên trên cơ sở quán triệt toàn bộ tinh thần của Luật quốc
tịch Việt Nam 2008, hồn tồn có thể bỏ đi tồn bộ Điều 31.2 của Luật mà không làm
thay đổi nội dung điều luật.


Ở đây áp dụng nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật. Cụ thể, theo Điều 31.2 quy định
“Người đã nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 19 của Luật này dù cư trú ở
trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam cũng có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành
vi quy định tại khoản 1 Điều này”. Ta xây dựng quy tắc tương tự pháp luật bằng cách lấy
lại toàn bộ kết luận được từ tam đoạn luận này áp dụng cho Điều 31.2. Trong trường hợp
này, người đã nhập quốc tịch hay chính là cơng dân Việt Nam cư trú ở ngồi lãnh thổ Việt
Nam thì có thể bị tước quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 31.1. Quy định tại Điều
31.2 ở đây về bản chất chính là bị trùng với quy định tại Điều 31.1. Do đó hồn tồn có
thể bỏ quy định tại Điều 31.2



×