Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tác động của tăng trưởng kinh tế và độ mở thương mại đến lượng phát thải CO2 ở các quốc gia đang phát triển thuộc khối ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.73 KB, 9 trang )

Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng

TÁC ĐỘNG CỦA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ ĐỘ MỞ THƯƠNG MẠI ĐẾN
LƯỢNG PHÁT THẢI CO2 Ở CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN
THUỘC KHỐI ASEAN
THE IMPACT OF ECONOMIC GROWTH AND TRADE OPENNESS TO THE CO2 EMISSION IN
DEVELOPING COUNTRIES OF ASEAN
Bùi Thái Diệu Thảo, Nguyễn Tấn Phát, Tạ Thị Linh Nhi
GVHD: ThS. Nguyễn Ngọc Diệu Lê
Trường Đại học Ngoại thương cơ sở II tại thành phơ Hồ Chí Minh

TĨM TẮT
Sự chuyển biến phức tạp của khí hậu trong những thập niên gần đây là ngun nhân chính dẫn đến sự ơ nhiễm môi
trường và đe dọa sự phát triển bền vững của các quốc gia trên thế giới nói chung và khu vực ASEAN nói riêng. Lượng
phát thải CO2 là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất và là nhân tố chủ yếu giải thích cho hiện tượng nóng lên
tồn cầu. Song, trong thời kỳ hội nhập trên phạm vi toàn cầu hiện nay, tăng trưởng kinh tế và độ mở thương mại là cần
thiết và tiên quyết để tránh khỏi sự lạc hậu so với các quốc gia khác. Bài nghiên cứu tập trung phân tích tác động của
tăng trưởng kinh tế và độ mở thương mại đến lượng phát thải CO2 ở các quốc gia đang phát triển thuộc khối ASEAN và
chính sách phát triển đất nước đi đơi với sự ô nhiễm môi trường được nằm trong sự kiểm sốt của quốc gia đó. Kết quả
chỉ ra rằng, thu nhập bình quân trên đầu người tác động đến lượng phát thải CO2 theo dạng chữ U ngược, tức là thời kỳ
đầu thu nhập bình quân sẽ gây ra tác động làm tăng lượng phát thải CO2 nhưng khi thu nhập bình quân vượt qua
ngưỡng nhất định thì thu nhập bình quân sẽ tác động âm đến lượng phát thải CO2; độ mở thương mại có tương quan
dương với lượng phát thải CO2.
Từ khóa: ASEAN, tăng trưởng kinh tế, độ mở thương mại, phát thải CO2.

ABSTRACT
In recent decades, the complex changes of climate is the main cause leading to environmental pollution and threatening
the sustainable development of the countries in the world in general and in ASEAN in particular. CO2 emissions is not
only one of the most important causes but also a key factor to explain the phenomenon of global warming. However,
during the period of integration on a global scale today, economic growth and trade openness is necessary and
prerequisite for avoiding the backwardness. The research articles focuses on analyzing the impact of economic growth


and trade openness to CO2 emissions in developing countries in ASEAN and national development policies inherent in
the environmental pollution control in those countries. Results indicated that the income per capita affect CO2 emissions
in the form of reverse U shape. It means the first period the income per capita will impact positively on CO2 emissions but
when income per capita crossed the certain thresholds, it will impact negatively on CO2 emissions; trade openness
positively correlated with CO2 emissions.
Keywords: ASEAN, economics growth, trade openness, CO2 emissions.

1. Giới thiệu
Trong những thập niên gần đây khí hậu ngày càng có sự chuyển biến phức tạp theo chiều hướng
tiêu cực trên toàn cầu. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học đại diện có Solomon và cộng sự (2008) nhận
định rằng lượng phát thải CO2 là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất vì đây là nhân tố chủ
yếu giải thích cho hiện tượng nóng lên tồn cầu. Báo cáo tổng quan mơi trường
Tồn cầu năm 2000 của Chương trình Mơi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) thống kê trong 100
năm trở lại đây, Trái Đất đã nóng lên khoảng 0,5oC và ước tính trong thế kỷ XXI nhiệt độ sẽ tăng từ
1,5 - 4,5oC so với nhiệt độ ở thế kỷ XX. Biểu đồ dưới thể hiện tổng lượng phát thải CO2 tồn thế giới
có xu hướng luôn tăng từ năm 1975-2011. Điều này dẫn đến mực nước biển có thể dâng lên cao từ
25cm đến 140cm.

500


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH toàn quốc lần thứ IV các Trường Đại học khối ngành Kinh tế & QTKD

ASEAN là một trong những khu vực kinh tế lớn nhất thế giới, tỷ lệ tăng trưởng cao và ổn định
kể từ năm 2000 nhưng vẫn chưa xử lí triệt để được các vấn đề về môi trường ở các nước đang phát
triển. Tính đến năm 2010, lượng phát thải CO2 ở ASEAN đạt ngưỡng 1.070,8 (Mt) (Megaton). Tốc độ
tăng trưởng hằng năm đối với chỉ tiêu này ở ASEAN trong giai đoạn 1990-2020 khoảng 5,2% (Thống
kê và ước tính theo “Energy Outlook for Asia and the Pacific”, 2013).
Biểu đồ 1. Tổng lượng phát thải CO2 trên toàn thế giới từ năm 1975-2011


Mặt khác, ASEAN được đánh giá là khối kinh tế có độ mở thương mại cao. Tính đến năm 2011,
các nền kinh tế của ASEAN có độ mở lớn và phụ thuộc nhiều vào hoạt động thương mại với tỷ trọng
chiếm từ 90-300% (khơng tính Myanmar). Tỷ lệ xuất khẩu so với tổng sản phẩm quốc nội của khối
ASEAN từ 50% như trường hợp của Indonesia, Philippines và đến 75% như Thái Lan, Việt Nam,
Malaysia.
Trong khi đó, độ mở thương mại là một thành phần thiết yếu của tăng trưởng kinh tế và nhu cầu
năng lượng (Sadorsky, 2011). Các điều kiện kinh tế của đất nước quyết định tác động của mở cửa
thương mại đến mức tiêu thụ năng lượng (Cole, 2006). Tăng cường thương mại cho phép các nền kinh
tế đang phát triển nhập khẩu công nghệ tiên tiến từ các nền kinh tế đã phát triển. Kéo theo đó, việc áp
dụng cơng nghệ cao đối với các nước đang phát triển sẽ làm tăng năng suất lao động và giảm phát thải
CO2. Song, các nước đang phát triển của ASEAN cần cẩn trọng để tránh khỏi trở thành một thị trường
tiêu thụ sản phẩm chất lượng thấp, máy móc thiết bị với cơng nghệ lạc hậu mà hậu quả tới môi trường
sinh thái là khôn lường. Mơ hình tăng trưởng mà các quốc gia này đang theo đuổi có thể là “cái bẫy”
của sự phát triển thiếu bền vững.
Vì vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế và độ mở thương mại đến
sự phát thải CO2 tại ASEAN là cần thiết đối với nhà hoạch định chính sách, các cơ quan hữu quan và
doanh nghiệp sản xuất. Mặt khác, hai yếu tố tác động này phải được quan sát đồng thời trong mối quan
hệ với sự phát thải CO2 để mang đến cái nhìn khái quát và đầy đủ hơn về vấn đề trên.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Các khái niệm chính
Độ mở thương mại của nền kinh tế (Trade Openness) Phản ánh mức độ giao thương và tầm quan
trọng của giao dịch quốc tế liên quan đến giao dịch trong nước, được đo lường bởi tỷ số giữa tổng số
thương mại (tức là tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ) so với tổng GDP của
quốc gia: Openness = (Export + Import) / GDP (Lê Thanh Tùng, 2014).
Trong một bài tập chí “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội” tiến sĩ Bùi Đại Dũng nhận
định rằng: Tăng trưởng kinh tế được hiểu khá thống nhất là sự tăng sản lượng thực tế của một nền kinh
501


Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng


tế trong một khoảng thời gian với thước đo phổ biến là mức tăng tổng sản phẩm quốc nội trong một
năm hoặc mức tăng GDP bình quân đầu người trong một năm.
Lượng phát thải CO2 là một đại lượng chỉ tổng lượng khí phát thải nhà kính phát thải trực tiếp và
gián tiếp từ một tổ chức, cá nhân, sự kiện hay một sản phẩm được quy về lượng CO2 (Trương Thị
Minh An và Kiều Thị Hòa, 2010).
2.2. Cơ sở lý thuyết
Trong một thế giới ngày càng hội nhập, việc giảm rào cản thương mại là quan trọng và cần thiết.
Điều này đã dẫn đến lo ngại rằng các ngành công nghiệp “bẩn” sẽ di dời đến các quốc gia đang phát
triển, nơi có quy định về mơi trường ít nghiêm ngặt hơn. Giả thuyết “nơi trú ẩn ô nhiễm” đề xuất rằng
các nguồn FDI muốn vào các quốc gia chậm tiến vì luật lệ và kiến thức về ơ nhiễm cịn thấp nên có
khả năng tiết giảm chi phí về khoản này. Xu hướng hướng tới việc hình thành “nơi trú ẩn ơ nhiễm” đã
tự giới hạn vì sự tăng trưởng kinh tế đã tạo ra được tác dụng đối kháng thông qua các luật lệ, quy định,
chuyên môn kỹ thuật và đầu tư sản xuất sạch hơn. Trong thực tế, các tác giả cho rằng sự tồn tại của
“nơi trú ẩn ô nhiễm” là rõ ràng nhưng chỉ là thoáng qua như “nơi trú ẩn mức lương thấp”. Beata và
Shang-jin (2001) nhận định rằng giả thuyết này phổ biến nhờ tính hợp lý của nó nhưng khơng có tài
liệu nào ủng hộ cả. Matthew và Robert (2005) đã thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm, tìm ra các
bằng chứng chứng minh sự tồn tại của “nơi trú ẩn ô nhiễm”, nhưng họ vẫn nhấn mạnh vai trò của
nguồn vốn đầu tư và mở cửa thương mại hơn và cho rằng về lâu dài, giả thuyết này sẽ khơng cịn đúng.

Hình 1. Đường cong Kuznets về mơi trường
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu về kinh tế mơi trường thì giả thuyết đường cong Kuznets về môi
trường (EKC) (Kuznets, 1955) trở nên rất phổ biến. Đường cong EKC thường được sử dụng để biểu
thị mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chất lượng mơi trường. Nó dựa trên giả thuyết mối quan hệ
chữ U ngược giữa sản lượng của nền kinh tế tính trên đầu người (GDP bình qn) và thước đo của chất
lượng môi trường (thường là lượng phát thải CO2 bình quân). Hình dạng của đường cong được giải
thích như sau: khi GDP bình qn đầu người tăng thì sẽ gây ra tác động xấu dẫn đến mơi trường bị suy
thối; tuy nhiên, khi GDP tăng đến một ngưỡng nhất định nào đó, thì sẽ gây ra tác động tốt làm giảm
suy thối mơi trường.
Stern (2004) đề cập đến mối quan hệ có thể xa hơn giữa tăng trưởng kinh tế và môi trường trong

bối cảnh cạnh tranh quốc tế. Cạnh tranh quốc tế ban đầu làm gia tăng thiệt hại môi trường, đạt tới điểm
mà các quốc gia phát triển bắt đầu giảm tác động môi trường của họ đồng thời “thuê” các nước nghèo
hơn thực hiện các hoạt động gây ô nhiễm. Kết quả thực tế cho thấy tình trạng này khơng được cải
thiện. Mơ hình này cịn được gọi là “cuộc đua xuống đáy”.

502


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH toàn quốc lần thứ IV các Trường Đại học khối ngành Kinh tế & QTKD

Nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu trên 7 quốc gia đang phát triển thuộc khối ASEAN trong
khoảng thời gian 1975-2011 với mục tiêu đo lường sự tác động của độ mở thương mại và tăng trưởng
kinh tế đến lượng phát thải CO2.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp được thu thập từ Ngân hàng thế giới (the World Bank).
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 7 quốc gia đang phát triển thuộc khối ASEAN trong giai đoạn từ
năm 1975 đến năm 2011. Tuy nhiên số liệu về một số chỉ tiêu của một số quốc gia khơng có sẵn ở một
vài năm. Do vậy, dữ liệu để phân tích trong nghiên cứu này là loại dữ liệu bảng không cân bằng. Tổng
số quan sát thực hiện trong nghiên cứu là 198 quan sát.
Bảng 1. Các quốc gia trong mẫu nghiên cứu
STT
1
2
3
4
5
6
7

Quốc gia

Thái Lan
Indonesia
Campuchia
Lào
Malaysia
Philippines
Việt Nam

Viết tắt
THA
IDN
KHM
LAO
MYS
PHL
VNM

Số quan sát
36
30
19
27
37
34
15

Mơ hình nghiên cứu và bảng thống kê số quan sát trong mỗi quốc gia của mẫu nghiên cứu được
cụ thể bên dưới.
lnCO2 it = β0 + β1lnGDP it + β2lnGDP2 it + β3lnEI it + u it.
Trong đó:

β0 là hệ số chặn của mơ hình, β1→3 là hệ số ước lượng của các biến độc lập, uit là sai số tại quốc
gia i ở thời điểm t.
Các biến giải thích trong mơ hình gồm:
lnGDP là mức thu nhập bình quân đầu được lấy logaric tự nhiên. Biến lnGDP2 là mức thu nhập
bình quân bình phương và được lấy logarit tự nhiên. Dựa trên giả thuyết đường cong EKC (Kuznets,
1955) cho thấy rằng giai đoạn đầu của q trình tăng trưởng, phát thải ơ nhiễm trong các nền kinh tế sẽ
tăng dần cho đến khi đạt một ngưỡng giới hạn nào đó thì lượng phát thải ô nhiễm bắt đầu giảm xuống
do sự tiến bộ của khoa học công nghệ và kỹ thuật hiện đại cũng như những tiêu chuẩn ngày càng cao
hơn về bảo vệ môi trường sống của con người được đưa ra. Bên cạnh đó, nhiều kết quả nghiên cứu
thực nghiệm cũng đã ủng hộ cho giả thuyết này như Kuznets (1995), Behnaz Saboori và cộng sự
(2012),… nên bài nghiên cứu đã sử dụng hai biến lnGDP và lnGDP2 để giải thích cho lượng phát thải
ô nhiễm ở các quốc gia đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á.
lnEI là biến độ mở thương mại của nền kinh tế (Trade Openess) được lấy logaric tự nhiên. Chỉ
tiêu này được đo bằng dữ liệu thứ cấp bằng cách tổng kim ngạch xuất nhập khẩu chia cho giá trị của
tổng sản phẩm trong nước trong thời kỳ đó. lnCO2 là biến phụ thuộc, phản ánh lượng phát thải CO2
bình quân đầu được lấy logarit tự nhiên. Lượng phát thải CO2 được dùng để đánh giá mức độ ô nhiễm
môi trường bởi đây là loại khí phát thải phát sinh trong hầu hết các q trình sản xuất và CO2 đóng một
vai trị quan trọng vào q trình biến đổi khí hậu của trái đất (hiệu ứng nhà kính). Độ mở thương mại
có tác động không nhỏ đến lượng phát thải CO2 ở các quốc gia theo các tác giả như Nguyễn thị Hoàng
Oanh (2014), Farhani, Chaibi và Rault (2014),…

503


Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng

Bảng 2. Thống kê mơ tả các biến trong mơ hình nghiên cứu
Số quan
sát


Trung
bình

Độ lệch
chuẩn

Tối thiểu

Tối đa

lnCO2

198

-0,119

1,264

-3,044

2,078

lnGDP

198

6,930

0,897


5,007

9,252

lnGDP2

198

13,861

1,794

10,013

18,504

lnEI

198

0,808

0,433

0,118

2,572

Biểu đồ 2a diễn ta xu hướng tăng dần của lượng phát thải CO2 của các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu cho thấy một sự bùng nổ về lượng khí phát thải CO2 khi các quốc gia bước vào thời kỳ

tăng trưởng kinh tế cao. Biểu đồ 2c cho thấy xu hướng tăng trưởng thu nhập bình qn tăng khơng
ngừng qua các năm và có hình dạng gần giống với lượng phát thải CO2 và cùng có một điểm uốn tại
năm 1996. Biểu đồ 2b thể hiện xu hướng của độ mở thương của các quốc gia trong đang phát triển
thuộc khối ASEAN, nhìn chung độ mở thương mại có xu hướng tăng nhẹ nhưng không ổn định.
Biểu đồ 2. Xu hướng của phát thải CO2, độ mở thương mại, thu nhập bình quân, trung bình các
quốc gia trong mẫu (1975-2011)

(a) Phát thải CO2 (Đơn vị: Mt/Người)

(b) Độ mở thương mại (Đơn vị: %)

(c) Thu nhập bình quân (USD/Người)
4. Kết quả nghiên cứu
Để nghiên cứu tác động của độ mở thương mại đến ô nhiễm môi trường ở 7 quốc gia đang phát
triển, bài báo cáo sử dụng phương pháp hồi quy đa biến dành cho dữ liệu bảng để ước lượng mơ hình
nghiên cứu đã đề xuất. Kết quả hồi quy mơ hình nghiên cứu bằng phương pháp Pooled OLS cho thấy
khả năng giải thích của mơ hình là 79,61%, p_value của kiểm định F <0,01 nên mơ hình hồi quy là phù
hợp, tức là có ít nhất một biến độc lập trong mơ hình có thể giải thích được sự thay đổi của lượng phát
thải ô nhiễm (mức ý nghĩa 1%).
Kết quả hồi quy cho thấy hệ số hồi quy của cả 3 biến số giải thích trong mơ hình nghiên cứu đều
có ý nghĩa về mặt thống kê (p_value < 0,05). Kết quả hồi quy thu được cho thấy độ mở thương mại có

504


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH toàn quốc lần thứ IV các Trường Đại học khối ngành Kinh tế & QTKD

tác động dương đến lượng phát thải ô nhiễm ở 7 quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á. Thu nhập bình
qn trên người sẽ có tác động dương đến lượng phát thải ô nhiễm do hệ số hồi quy của biến giải thích
lnGDP mang dấu dương nhưng khi thu nhập đạt đến một ngưỡng nào đó thì thu nhập bình quân sẽ tác

động âm đến lượng phát thải ô nhiễm do hệ số hồi quy biến lnGDP2 mang dấu âm. Tuy nhiên, ước
lượng Pooled OLS đã bỏ qua bình diện thời gian lẫn khơng gian của dữ liệu nghiên cứu do đó nhóm
tác giả tiến hành ước lượng bằng một số phương pháp khác như FEM và REM rồi so sánh các kết quả
hồi quy với nhau để có thể chọn ra mơ hình phù hợp. Kết quả trình bày trong bảng 3.

Bảng 5. Kết quả hồi quy FEM

Kết quả hồi quy FEM (bảng 4) cũng có giá trị p_value của kiểm định F < 0,01 nên có ít nhất một
biến độc lập giải thích được cho sự biến động của biến phụ thuộc. Tương tự như kết quả hồi quy
Pooled OLS, kết quả hồi quy FEM cũng cho thấy thu nhập bình quân trên người tác động đến lượng
phát thải ơ nhiễm theo hình chữ U ngược và độ mở thương mại có tác động dương đến lượng phát thải
ô nhiễm.
Kết quả hồi quy REM (bảng 5) tương tự như Pooled OLS và FEM đều có tất cả giá trị p-value,
thu nhập bình quân trên người vẫn có tác động đến lượng thải ơ nhiễm theo dạng chữ U ngược và độ
mở thương mại mang giá trị có tác động dương đến lượng phát thải ơ nhiễm ở các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu.
Nhóm tác giả tiến hành một số kiểm định như kiểm định F, kiểm định Breusch-Pagan Largrange
Mutltiplier, kiểm định Hausman để chọn ra mô hình phù hợp nhất trong 3 mơ hình trên để tiến hành
thảo luận kết quả nghiên cứu. Kết quả kiểm định F cho thấy giá trị p_value của kiểm định F < 0,01 dẫn

505


Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng

đến bác bỏ giả thuyết H0 ở mức ý nghĩa 1%. Tức là có sự khác biệt về đặc điểm riêng của từng quốc
gia nên mơ hình FEM phù hợp hơn mơ hình hồi quy Pooled OLS.
Kết quả kiểm định Breusch-Pagan Largrange Multiplier có giá trị kiểm định p_value < 0,01 nên
ta bác bỏ giả thuyết H0 ở mức ý nghĩa 1%. Tức là phương sai sai số giữa các quốc gia trong mẫu
nghiên cứu có thay đổi, do đó hồi quy theo mơ hình Pooled OLS thơng thường có thể dẫn đến sai lệch

và kết quả hồi quy từ mô hình REM có sự tin tưởng cao hơn. Kết quả kiểm định Hausman có giá trị
p_value = 0,2586 > 0,01 nên chấp nhận giả thuyết H0 và khơng có sự biệt giữa FEM và REM, kết hợp
quan sát các các hệ số của biến độc lập trong hai kết quả hồi quy có giá trị gần bằng nhau. Tức là giá
hồi quy của FEM và REM có độ tin cậy như nhau.
Tuy nhiên, để kết quả này là đáng tin cậy, mơ hình cần thỏa mãn một số giả định quan trọng như
khơng có hiện tượng phương sai thay đổi và hiện tượng tự tương quan.
Bảng 6. Kiểm định phương sai sai số thay đổi

Bảng 7. Kiểm định tự tương quan

Modified Wald test for groupwise
hetoroskedasticity in fixed effect regression model
H0: sigma(i)^2 = sigma^2 for all i
chi2 (7) =
267,34
Prob>chi2=
0,0000

Wooldrige test for autocorrelation in panel
data
H0: no first-order autocorrelation
F(1 ,6)
=
2,026
Prob> F =
0,2045

Bảng 8. Bảng kết quả ước lượng FGLS

Chú thích: *Mức ý nghĩa 10%, **là 5%, ***là 1%

Dựa trên Kết quả kiểm định Modified Wald Test (bảng 5) cho thấy p_value = 0,0000 nên ta chấp
nhận giả thuyết H0 ở mức ý nghĩa 1%, tức là tồn tại hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Dựa trên
Wooldrige Test (bảng 6) ta có kết quả kiểm định cho thấy p_value =0,2045 nên ta bác bỏ giả thuyết
H0, tức là không tồn tại hiện tượng tự tương quan. Từ hai kết quả kiểm định trên ta thấy trong mơ hình
tồn tại hiện tượng phương sai sai số thay đổi và không tồn tại hiện tượng tự tương quan trong mơ hình.
Để khắc phục hiện tượng phương sai sai số trong mơ hình ta sử dụng Feasible Generalize Least

506


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH toàn quốc lần thứ IV các Trường Đại học khối ngành Kinh tế & QTKD

Squares- FGLS nhằm đảm bảo độ tin cậy và hiệu quả cho mơ hình. Kết quả ước lượng mơ hình FGLS
(bảng 8).
Bên cạnh đó, mặc dù ước lượng bằng 3 phương pháp khác nhau nhưng chiều tác động của các
biến giải thích trong mơ hình là rất ổn định. Cụ thể, thu nhập bình quân đầu người (lnGDP) sẽ tác
động dương đến lượng phát thải CO2 (lnCO2) sau đó nếu thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng
vượt đến một ngưỡng nào đó thì sẽ tác động âm đến lượng phát thải CO2 (theo chữ U ngược). Độ mở
thương mại (lnEI) cũng có tác động dương đến lượng phát thải CO2 (lnCO2).
5. Kết luận và hàm ý chính sách
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong ngắn hạn và xét trên mẫu nghiên cứu nhỏ thì tăng độ mở
thương mại có tác động làm tăng phát thải ơ nhiễm ở các quốc gia đang phát triển. Điều này đã củng
cố thêm cho kết quả của các nghiên cứu Sharma (2011).Kết quả nghiên cứu cịn cho thấy thu nhập
bình qn tác động đến lượng phát thải CO2 bình quân theo dạng chữ U ngược đã củng cố thêm cho
giả thuyết đường cong EKC (Kuznets, 1955).
Thứ nhất, trong các chính sách tăng trưởng kinh tế, Việt Nam cần phải phát triển kinh tế phải đi
đôi với việc bảo vệ môi trường từ bây giờ trước khi quá muộn. Việt nam không thể đợi đến lúc tăng
trưởng kinh tế vượt qua ngưỡng rồi mới có những chính sách thay đổi. Bên cạnh việc giảm thiểu các
ngành nghề gây ô nhiễm, giảm việc thâm dụng tài nguyên, dân cư ở các quốc gia có mức thu nhập cao
bắt đầu địi hỏi điều kiện sống tốt hơn, có nhiều hành động cải tạo và khơi phục các mảng xanh và địi

hỏi các nhà hoạch định chính sách siết chặt hơn các chế tài xử lý những cá nhân hoặc tập thể có những
hành động gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Thực hiện lồng ghép giáo dục môi trường và giáo
dục phát triển bền vững vào các môn học, tài liệu nhận thức và các nguồn khác, đồng thời tăng cường
nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của phát triển bền vững và các thực tiễn về bền vững môi
trường. Tăng cường hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực về bảo vệ môi trường để xây dựng khu
vực kinh tế xanh, mạnh, bền vững.
Thứ hai, mỗi quốc gia đều tăng cường thực hiện các chính sách mở cửa thương mại, phối hợp
cùng nhau đặt ra một lộ trình mở cửa thương mại chung là điều cần thiết để góp phần làm giảm lượng
khí thải; cần hồn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các cam kết
hội nhập; tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ngày càng phù hợp với chuẩn mực và
thông lệ quốc tế; thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu; tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư của
nước ngồi.
Tuy nhiên, bài nghiên cứu vẫn có các hạn chế nhất định. Nghiên cứu chưa xem xét mối tương
quan tổng thể giữa độ mở thương mại và lượng phát thải ô nhiễm ở các quốc gia trên về dài hạn.
Nghiên cứu được thực hiện trên mẫu nhỏ, số liệu chưa đầy đủ, số quan sát còn thấp, các biến độc lập
cịn đơn giản do đó kết quả chưa mang tính tổng qt cao. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chưa phân
loại nhóm ngành ơ nhiễm và khơng ơ nhiễm do đó kết quả nghiên cứu chỉ cho thấy tác động chung của
độ mở thương mại đến ô nhiễm mơi trường, khơng thể đưa ra hàm ý chính sách cụ thể cho từng nhóm
ngành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Cole, M.A., 2006. Does trade liberalization increase national energy use? Econ. Lett. 92, 108–
112.
[2] Farhani, S., Chaibi, A., Rault, C., 2014. CO2 emissions, output, energy consumption, and trade in
Tunisia. Econ. Model. 38, 426–434.
[3] Kuznets, S., 1955. Economic Growth and Income Inequality. Am. Econ. Rev. 45, 1–28.
507


Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng


[4] Saboori, B., Sulaiman, J., Mohd, S., 2012. Economic growth and CO2 emissions in Malaysia: A
cointegration analysis of the Environmental Kuznets Curve. Energy Policy, Renewable Energy in
China 51, 184–191.
[5] Sadorsky, P., 2011. Trade and energy consumption in the Middle East. Energy Econ. 33, 739–
749.
[6] Sharma, S.S., 2011. Determinants of carbon dioxide emissions: Empirical evidence from 69
countries. Appl. Energy 88, 376–382.
[7] Solomon, S., Plattner, G.-K., Knutti, R., Friedlingstein, P., 2009. Irreversible climate change due
to carbon dioxide emissions. Proc. Natl. Acad. Sci. 106, 1704–1709.
[8] Stern, D.I., 2004. The Rise and Fall of the Environmental Kuznets Curve. World Dev. 32, 1419–
1439.

508



×