Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MARXLENIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.9 KB, 15 trang )

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MARX-LENIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ
XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG
SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


lOMoARcPSD|11029029

LỜI MỞ ĐẦU
Con người luôn là một trong những vấn đề trung tâm của triết học, là đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học do sự phức tạp, đa dạng, vô cùng tận và giá trị, ý nghĩa thực tiễn
của vấn đề này ở tất cả thời đại. Mỗi nhà triết học, mỗi trường phái triết học khác nhau đều có
những quan điểm, nội dung và sắc thái riêng biệt về con người, thể hiện lập trường và bối cảnh
lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội khác nhau. Quan điểm của Hegel phát triển theo hướng chủ
nghĩa duy tâm, mang tính siêu tự nhiên, phi thể xác. Quan điểm của Feuerbach tiến bộ hơn khi
cho rằng con người là sản phẩm của tự nhiên. Tuy nhiên, chỉ đến sự ra đời của triết học Marx Lenin thì quan điểm về con người và bản chất của con người mới biểu hiện một cách toàn diện,
đầy đủ và hoàn tồn phát triển theo chủ nghĩa duy vật.
Khi nhìn nhận một cách khách quan vào những thành tựu to lớn mà Đảng và Nhà nước ta
đã, đang và sẽ đạt được, chủ nghĩa Marx - Lenin đã chứng minh được sự nổi trội và tiềm năng
của nó trong sự nghiệp xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay. Đối
với một quốc gia chủ động phát triển và kiên trì con đường đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa
‘do dân, của dân, vì dân’ như Việt Nam, phát triển kinh tế - xã hội, xét đến cùng cũng là vì con
người, hướng đến con người. Xuất phát từ thực tiễn đó, phát triển con người toàn diện là động
lực, đồng thời là chủ trương cơ bản lâu dài của Đảng và Nhà nước ta của cơng cuộc cơng nghiệp,
hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Nâng
cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, vấn đề phát triển con người còn gặp nhiều
khó khăn và rào cản cần lưu tâm, xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác


nhau, khiến cho chất lượng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và vai trị vốn có. Vì vậy,
việc xác định rõ những vấn đề, quan điểm lý luận và thực tiễn về con người và phát triển nguồn
lực đối với cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa cấp
thiết, từ đó đề xuất một số giải pháp thích hợp để phát huy có hiệu quả vai trị tích cực của yếu tố
con người.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người cùng với phương hướng phát triển
con người Việt Nam trong thời đại mới, em lựa chọn đề tài “Quan điểm của triết học Marx-Lenin
về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay”.
Do kiến thức và hiểu biết còn hạn chế, em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của cơ
trong q trình làm bài.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


lOMoARcPSD|11029029

Chương I: Lý luận của chủ nghĩa Marx-Lenin về con người
1.1. Một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử
1.1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông
Vấn đề con người được đề cập từ rất sớm, với nhiều quan điểm khác nhau, trong lịch sử
triết học phương Đông, chủ yếu là ở hai quốc gia Ấn Độ và Trung Hoa. Nhưng các quan niệm đó
đều đặt nặng tính chất duy tâm, thơ sơ, đơn giản và trực quan.
Những tư tưởng triết học đầu tiên về con người xuất hiện ở phương Đông vào thế kỷ VI
trước Công nguyên, biểu hiện ở các nền văn hóa dân gian khác nhau. Nguồn gốc của con người
được tiếp cận theo hai khuynh hướng. Thứ nhất, con người xuất hiện từ một bản nguyên “vật
chất” hiện thực nhất định nào đó, tức là từ “bố và mẹ” cụ thể, như “bọc trăm trứng” của Âu Cơ
và Lạc Long Quân (Việt Nam), từ “hỗn độn” của vũ trụ, hoặc do bà Nữ Oa nặn đất (Trung Hoa)
hay từ gốc tre (Philippines). Thứ hai, con người là do một vị thần thánh xác định nào đó sinh ra,

đó chính là Thượng đế - vị thần tối cao nhất sinh ra trời đất, giới tự nhiên và con người dù quan
niệm Thượng đế được hiểu theo cách riêng của mỗi dân tộc.
Các nhà triết học Trung Hoa đặt vấn đề bản tính con người lên hàng đầu, tiếp cận từ giác
độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội. Họ cho rằng bản tính con người là Thiện
(Nho gia) và Bất Thiện (Pháp gia).
Khác với nền triết học Trung Hoa, các trường phái triết học Ấn Độ, tiêu biểu là Phật giáo,
lại tiếp cận vấn đề con người từ giác độ suy tư về con người và nhân sinh quan ở tầm chiều sâu
triết lý siêu hình (siêu hình học). Một trong những kết luận độc đáo của Phật giáo là bản tính Vơ
ngã, Vơ thường và tính hướng thiện của con người trên hành trình tìm ra sự Giác Ngộ.
Các trường phái triết học - tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Hồi giáo nhận thức bản
chất con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí hoặc nhị nguyên luận. Với nhiều hệ
thống triết học khác nhau, triết học phương Đơng biểu hiện tính đa dạng và phong phú, thiên về
vấn đề con người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức. Nhìn chung, con người trong triết học
phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm, có pha trộn tính chất duy vật chất phác ngây thơ trong
mối quan hệ với tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, bản chất con người theo quan niệm của các học
thuyết tôn giáo phương Đông đều bị phản ánh sai lầm, hướng tới thế giới quan thần linh.
1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây
Ở phương Tây, tư tưởng về con người đã xuất hiện từ rất sớm, điển hình nhất phải kể đến
các hệ thống triết học ở Hy Lạp và La Mã cổ đại. Quan niệm về nguồn gốc con người cũng cho
rằng con người được tạo nên từ một bản nguyên hoặc là do sự kết hợp của một số bản nguyên
nào đó.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, thế giới nói chung và con người nói riêng là do
Thượng đế, hay thần linh tạo ra và quy định toàn bộ hoạt động của họ. Theo Socrates, con người
được an bài bởi thần linh nên việc nhận thức về linh hồn là sự xúc phạm thần linh. Họ chỉ nên
nhận thức về thế giới và bản thân trong giới hạn, như tìm hiểu về đạo đức của con người. Cịn
Plato lại cho rằng vĩnh viễn và bất biến là bản nguyên tạo nên toàn bộ thế giới hiện tồn, tạo nên
cả thể xác và linh hồn của con người. Thể xác có thể mất đi nhưng phần linh hồn là vĩnh viễn,
bất tử, được chia thành ba loại là lý tính, lý trí, tình cảm, tương ứng với ba tầng lớp là các nhà
2



lOMoARcPSD|11029029

cầm quyền và các nhà tư tưởng; các binh sĩ, qn nhân; những người bình dân. Riêng cá nhân
khơng có linh hồn sẽ trở thành nô lệ. Các quan niệm trên là cơ sở lý luận cho nhiều tín ngưỡng,
mê tín, dị đoan và tư tưởng phân biệt chủng tộc.
Ngược lại, các trào lưu duy vật đều khẳng định nguồn gốc tự nhiên của con người, rằng
con người là sản phẩm từ sự phát triển của tự nhiên chứ không phải do thần linh chi phối. Vai trò
của con người, của trí tuệ, đạo đức và các giá trị khác như tự do, bình đẳng, lý tưởng đạo đức cao
thượng… được đề cao. Xu hướng này, vừa trực tiếp vừa gián tiếp, phủ nhận vai trò của các lực
lượng siêu nhiên đối với sự ra đời, tồn tại, phát triển và bản tính con người. Con người có khát
vọng, con đường riêng. Vì vậy, giải phóng và phát triển bản chất con người theo hướng tiến bộ là
yêu cầu và điều kiện phát triển xã hội.

1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Marx - Lenin về con người

1.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Xét trên phương diện sinh học, tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người
là giới tự nhiên. Tức là, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một
động vật xã hội. Giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người,... đời sống thể xác và tinh thần
của con người gắn liền với giới tự nhiên”. Con người phải phục tùng các quy luật của giới tự
nhiên, các quy luật sinh học như di truyền, tiến học sinh học và các quá trình sinh học của giới tự
nhiên. Điểm khác biệt đặc biệt và quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác thể
hiện ở chỗ con người là một bộ phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có khả
năng biến đổi giới tự nhiên và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan.
Xét trên phương diện xã hội, con người là một thực thể xã hội, thực hiện các hoạt động
hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan trọng nhất của con người là lao động sản xuất. Theo C.
Marx và Ph. Engels, con người “là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng
thái thuần túy là lồi vật”. Con vật thì phải sống hồn tồn dựa vào các sản phẩm của tự nhiên và
bản năng của chúng. Trong khi đó, con người lại sống bằng lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên,

sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu, mong muốn của mình. Nhờ có lao động sản xuất,
con người khơng chỉ là thực thể sinh học mà còn trở thành thực thể xã hội, thành chủ thể của
“lịch sử có tính tự nhiên”, có lý tính và “bản năng xã hội”. Ngoài các quan hệ lẫn nhau trong lao
động sản xuất, con người cịn có hàng loạt các quan hệ xã hội ngày càng phong phú, đa dạng
khác giữa người với người. Con người không thể tách khỏi xã hội vì xét đến cùng, xã hội là sản
phẩm của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa những con người. Nhờ lao động và giao tiếp xã hội,
tư duy, ý thức của con người có thể phát triển. Ngơn ngữ và tư duy là một trong những biểu hiện
rõ nhất phương diện con người là một thực thể xã hội.
Như vậy, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội. Tính sinh
học là cơ sở tất yếu tự nhiên của loài người trong khi tính xã hội là đặc trưng bản chất để phân
biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải mang giá trị văn minh con người, còn nhu cầu
xã hội khơng thể thốt ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh hoạt.
1.2.2. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người
Kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại và dựa vào những thành
tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng con người vừa là sản phẩm của sự

3


lOMoARcPSD|11029029

phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội loài người và của chính
bản thân con người. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, Marx cho rằng tiền đề của lý luận tư
duy biện chứng và duy vật lịch sử của các ông là những con người hiện thực đang hoạt động, lao
động sản xuất và làm ra lịch sử của chính mình, làm cho họ trở thành những con người đang tồn
tại. Nhưng khác với con vật, con người không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi bởi con
người là chủ thể của lịch sử.
1.2.3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người sẽ không tồn tại được nếu không có thế giới tự nhiên và lịch sử xã hội. Bởi
vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Nhưng quan

trọng hơn cả, con người luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Marx khẳng định rằng: “Cái học
thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo
dục… cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân
nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Thơng qua q trình cải biến tự nhiên trong các hoạt
động thực tiễn, con người thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội, làm phong phú
thêm thế giới tự nhiên và tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Khi cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình, tức là con người là chủ thể
sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện
cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức làm biến đổi đời sống và xã hội. Từ những hoạt
động vật chất và tinh thần, con người thúc đẩy xã hội vận động từ thấp đến cao, phù hợp với mục
tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội lồi người sẽ khơng
xuất hiện nếu khơng có hoạt động của con người tạo ra quy luật xã hội.
1.2.4. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Con người vượt lên thế giới loài vật trên ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên,
quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ này đều mang
tính xã hội, trong đó quan hệ giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối
quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Các quan hệ xã hội có
nhiều loại: quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ trực
tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu nhiên… Tất cả đều góp phần hình thành bản chất của con
người. Khi các quan hệ xã hội thay đổi thì sớm hoặc muộn, ít hoặc nhiều, bản chất con người
cũng sẽ thay đổi theo.
Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, C.Marx đã nêu lên luận đề nổi tiếng: “Bản
chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Điều này khẳng
định khơng có con người trừu tượng, thốt ly mọi điều kiện, hồn cảnh lịch sử xã hội mà luôn
sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Quan niệm đó giúp
chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh học ở con
người.

4



lOMoARcPSD|11029029

Chương II: Thực trạng vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta

2.1. Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa tại Việt Nam

2.1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế
● Bối cảnh kinh tế quốc tế
Q trình hội nhập kinh tế, tài chính quốc tế đang tiếp tục diễn ra sâu rộng và tác động
lớn đến sự phát triển của hầu hết các quốc gia. Tồn cầu hóa về thương mại, đầu tư tài chính và
tiền tệ sẽ diễn ra mạnh mẽ, kéo theo q trình quốc tế hóa hệ thống tài chính - tiền tệ, dẫn tới sự
phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng trên phạm vi toàn thế giới.
Sự cạnh tranh về vốn, về nguồn lực và công nghệ giữa các quốc gia diễn ra gay gắt hơn
trong q trình tồn cầu hóa được đẩy mạnh. Tiến bộ khoa học - kỹ thuật trở thành là phương
tiện, công cụ thúc đẩy hợp tác quốc tế và định hướng phát triển kinh tế - tài chính thế giới, cũng
như tạo cơ hội thuận tiện cho các nước đi sau bắt nhịp và tham gia vào chuỗi kinh tế toàn cầu.
Các mối quan hệ chính trị, kinh tế, tài chính quốc tế càng ngày có vai trị quan trọng và
chi phối lẫn nhau, đồng thời tồn cầu hóa cũng kéo theo việc giảm sút tính độc lập trong q
trình thực hiện chính sách kinh tế nói chung và tài chính nói riêng của các quốc gia.
Kinh tế thế giới dự báo vẫn sẽ có những biến đổi khó lường. Khoảng cách giữa các nhóm
nước phát triển và các nền kinh tế kém phát triển có xu hướng ngày càng gia tăng. Chính sách
đối phó và giải quyết khủng hoảng cùng với q trình phục hồi của nền kinh tế thế giới sẽ đem
đến những thay đổi trong cấu trúc và phương thức quản lý vĩ mô của nhiều nền kinh tế.
● Bối cảnh kinh tế trong nước
Những thành tựu sau hơn 30 năm đổi mới đã làm cho tiềm lực của Việt Nam không
ngừng được mở rộng, bao gồm cả tiềm lực tài chính của nhà nước. Q trình tái cơ cấu nền kinh
tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng đã đạt được các kết quả bước đầu, tạo ra môi trường

thuận lợi và tiền đề quan trọng để đẩy mạnh cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mức sống và chất lượng cuộc sống của nhân dân ngày một nâng cao, nghèo đói từng
bước được đẩy lùi, đời sống được cải thiện, hệ thống an sinh xã hội ngày càng phát triển. Tăng
trưởng kinh tế góp phần quan trọng củng cố tiềm lực và sức mạnh của nền tài chính quốc gia;
quy mơ thu, chi ngân sách nhà nước sẽ được mở rộng, dự trữ nhà nước được tăng cường.
Cùng với đó, q trình hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và phát huy hiệu quả, tạo ra các
cơ hội khai thác các nguồn lực bên ngoài. Hệ thống pháp luật trong nước đã được điều chỉnh để
từng bước tuân thủ hệ thống các chuẩn mực, sự tôn trọng và tính thích ứng với các thơng lệ quốc
tế, phù hợp với các quy luật của kinh tế thị trường.
Các yếu tố của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khơng ngừng được
hồn thiện và phát huy hiệu quả trong việc thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của đời sống kinh
tế - xã hội nói chung và sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng.
Bên cạnh những mặt thuận lợi, nền kinh tế đã và đang gặp phải khơng ít khó khăn, thách
thức.

5


lOMoARcPSD|11029029

2.1.2. Khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút ra những kinh nghiệm
lịch sử trong quá trình tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực tiễn cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy
khóa VI, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại
dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao
động xã hội cao.

Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng và Nhà nước được xác định rộng hơn
những quan điểm trước đó, bao gồm cả hoạt động sản xuất, kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý
kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến, hiện đại cùng
với kỹ thuật và công nghệ cao.
2.1.3. Tính tất yếu khách quan của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và vai trị của phát
triển con người trong q trình đó
Cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng là yếu tố xác lập vững chắc mỗi phương thức sản
xuất xã hội. Chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại và phát triển cũng cần phải có một nền kinh tế tăng
trưởng dựa trên lực lượng sản xuất hiện và chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lâu đời lạc hậu, cơ sở vật chất
và khoa học kỹ thuật thấp, trình độ của lực lượng sản xuất chưa cao… Do vậy, q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa xảy ra là điều tất yếu. Trong đó, nguồn nhân lực là động lực quan trọng
thúc đẩy quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cụ thể:
Một là, các yếu tố bên cạnh yếu tố con người như vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật
chất,... chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng, không thể phát huy ngay lập tức. Chúng chỉ có thể phát huy
tác dụng khi con người điều khiển và sử dụng bởi con người là nguồn lực duy nhất có tư duy, trí
tuệ và nhận thức cách khai thác, điều khiển và gắn kết các nguồn lực khác với nhau, tạo nên một
sức mạnh tổng hợp vô cùng to lớn để thúc đẩy quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hai là, các nguồn lực ngồi con người là có giới hạn, khơng bất biến, có thể cạn kiệt do
khai thác và thời gian. Cịn yếu tố con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô hạn. Con
người không chỉ có khả năng sinh sản sinh học mà cịn khơng ngừng phát triển về mặt trí tuệ và
thể chất nhờ học tập. Từ đó, con người có thể góp phần cải tạo, nâng cấp những nguồn lực khác,
hay sáng tạo ra những yếu tố chưa có trong giới tự nhiên.
Ba là, theo quan điểm của Marx thì con người có sức mạnh to lớn khi trí tuệ của lồi
người có thể vật thể hóa và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong thời đại công nghệ khoa
học phát triển như vũ bão, các nước công nghiệp phát triển vận động theo hướng tri thức. Nguồn
lợi thu được từ tri thức có thể chiếm một nửa tổng giá trị tài sản quốc gia.
Bốn là, từ bài học, kinh nghiệm lịch sử của nhiều quốc gia và thực tiễn đã khẳng định q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cịn phụ thuộc vào chủ trương, đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước, phụ thuộc rất nhiều vào ý thức và năng lực nhận thức của mỗi cá nhân.


6


lOMoARcPSD|11029029

Nói tóm lại, yếu tố con người là yếu tố tiên quyết quyết định sự thành bại của q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời cũng là mục tiêu hướng tới của quá trình này.

2.2. Quan niệm về con người trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam

Nghiên cứu tăng trưởng kinh tế của các nước trên thế giới qua nhiều giai đoạn lịch sử,
các lý thuyết tăng trưởng đã chỉ ra rằng yếu tố quan trọng nhất trong tăng trưởng kinh tế chính là
nguồn nhân lực. Các yếu tố khác như máy móc, thiết bị, tài nguyên thiên nhiên, hay công nghệ
sản xuất chỉ phát huy tối đa hiệu quả bởi con người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật. Lý thuyết
tăng trưởng của C.Marx cho rằng việc sử dụng tư bản bất biến không tạo ra giá trị thặng dư, tồn
tại dưới dạng lợi nhuận mà chỉ có tư bản khả biến mới đem lại giá trị thặng dư trong quá trình
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nguyên nhân là do giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động, khi
được vận dụng hay tiêu dùng, sẽ tạo ra một giá trị mới (v+m) lớn hơn giá trị bản thân nó.
C. Mác đã từng khẳng định rằng trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, mỗi nhà tư
bản đều coi người khác là phương tiện để lợi dụng. Ngược lại, trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta ưu tiên con người lên hàng đầu, xác định con người là động
lực nhưng cũng là mục tiêu của sự phát triển. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Marx - Lenin
trong tiến trình xây dựng xã hội mới, Đảng và Nhà nước đã nhiều lần nhấn mạnh “Con người là
vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”. Nghị
quyết Trung ương 2 khóa VIII về Định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 đã thể hiện rõ quan điểm “lấy việc
phát huy nhân tố con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: chiến lược con người phải nằm ở vị trí
trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hố,

hiện đại hố. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng dạy “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm trồng người”. Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách nhằm phát huy nhân tố con người
đều xuất phát từ quan điểm cho rằng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ nhân thực sự
của xã hội, là chủ thể của mọi hành động kinh tế, văn hố xã hội và mục tiêu của tồn bộ sự
nghiệp cách mạng là phục vụ nhân dân.
Việt Nam đặt mục tiêu lâu dài vào con người, coi trọng việc nâng cao trí tuệ; coi việc bồi
dưỡng, phát triển nguồn lực con người là yếu tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Nền cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu phát triển con người tồn diện,
tức là khơng chỉ hiểu con người ở đây với tư cách là người lao động sản xuất mà cịn là một cơng
dân trong xã hội, một cá nhân trong gia đình, tập thể, một thành viên trong cộng đồng, dân tộc;
không chỉ là những người lao động chân tay mà còn là những người lao động trí óc.
Mục tiêu phát triển con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa bao
gồm: Một là, người lao động Việt Nam phải có lịng yêu nước nồng nàn, có phẩm chất đạo đức
tốt, có tinh thần tự cường dân tộc cao. Hai là, người lao động phải có trí tuệ cao. Ba là, người lao
động phải có năng lực hoạt động thực tiễn tốt. Bốn là, người lao động phải biết chủ động hội
nhập quốc tế. Năm là, yếu tố không thể thiếu đối với người lao động là sức khỏe cơ thể tốt, trí
lực cao. Sáu là, người lao động phải có tác phong lao động công nghiệp. Bảy là, người lao động
phải có văn hóa sinh thái. Tám là, người lao động phải có năng lực phát huy những giá trị truyền

7


lOMoARcPSD|11029029

thống, giá trị văn hóa của dân tộc, kết hợp với việc tiếp thu những tinh hoa của văn hóa nhân
loại.

2.3. Thực trạng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước
2.3.1. Về số lượng nguồn lực

Trong những năm qua, do tác động của yếu tố sinh sản tự nhiên và di dân do tác động của
q trình đơ thị hóa, đặc biệt là tác động của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với sự phát triển
và tăng trưởng kinh tế cao…làm cho dân số Việt Nam tăng lên và cơ cấu dân số cũng biến đổi.
Hiện nay, dân số Việt Nam xếp thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia và Philippines),
xếp thứ 8 trong khu vực Châu Á, và xếp thứ 15 trên thế giới. Tổng dân số của Việt Nam năm
2014 ước tính đạt 92.447.315 người, tăng 981.580 người so với 1/4/2015 và 1.953.963 người so
với 1/4/2014. (GSO, 2016)
Khi nhìn vào quy mơ dân số theo độ tuổi, Việt Nam đang trong thời kỳ cơ cấu “dân số
vàng". Điều này mang lại cơ hội rất lớn để tận dụng nguồn nhân lực có chất lượng cho tăng
trưởng kinh tế và phát triển bền vững của đất nước. Tuy nhiên, nếu khơng có sự quan tâm và có
các chính sách phát triển phù hợp, cơ cấu “dân số vàng” không những sẽ khơng đem lại tác động
tích cực cho phát triển đất nước mà sẽ là áp lực về việc làm, trật tự, an ninh xã hội… Vì thế, tận
dụng cơ cấu “dân số vàng” địi hỏi có những chính sách phù hợp nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, tăng năng suất lao động, tạo việc làm
cho lực lượng lao động trẻ, bảo đảm an sinh xã hội cho người già và người dễ bị tổn thương, bảo
đảm bình đẳng giới.
2.3.2. Về chất lượng nguồn lực
Thứ nhất, về trình độ học vấn, chuyên môn - kỹ thuật:

Số năm học trung bình của dân số 20 - 24 tuổi theo vùng, nơi cư trú và giới tính

Cho đến nay, đa số những người trong độ tuổi đều đến trường học tập, trình độ học vấn
của người lao động cũng nâng lên: cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học thì có 1,16 cán bộ tốt nghiệp
trung cấp chuyên nghiệp và 0,92 cơng nhân kỹ thuật; cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học. Tỷ
lệ biết chữ ở người lớn (trên 15 tuổi) tăng từ 86,1% năm 1990 lên 94% năm 2004. Nhiều tỉnh
thành đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Theo Tổng
cục thống kê (2007), độ tuổi đi học trung bình của dân số thuộc nhóm tuổi 20 - 24, là lực lượng
8



lOMoARcPSD|11029029

lao động trẻ, có số năm học bình qn là 9,6 năm. Tuyệt đại đa số dân số làm việc có trình độ
phổ thơng (91%); 5,7% dân số làm việc có trình độ từ cao đẳng trở lên.
Thứ hai, về cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nguồn lực con người theo nhóm ngành

Theo điều tra về dân số và lao động thời kỳ 2015 – 2019, lực lượng chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng lao động ở Việt Nam là lao động làm trong khu vực “Nghề đơn giản”. Trong năm
2019 có 1/3 tổng số lao động (35%) đang làm việc nằm trong khu vực “Nghề đơn giản” giảm 4%
so với năm 2015. Đứng thứ hai trong cơ cấu lao động là nhóm ngành dịch vụ với gần 1/5 tổng số
lao động (17% năm 2015 và 18% năm 2019). Nhóm thợ thủ cơng và thợ khác, và thợ lắp ráp
máy móc, thiết bị tăng lần lượt từ 9% và 15% năm 2015 lên 14% và 12% năm 2019. Nhóm nghề
truyền thống nơng lâm nghiệp chỉ cịn chiếm 1/5 tỷ trọng của cơ cấu lao động Việt Nam, và giảm
3% trong 2015 đến 2019. Trong khi đó nhóm lao động thuộc khu vực chuyên môn kỹ thuật bậc
cao chiếm 8% trong cơ cấu, cao hơn 1% so với khu vực nông, lâm, thủy sản vào năm 2019. Các
ngành chuyên môn kỹ thuật bậc trung, nhân viên và nhà lãnh đạo lần lượt chiếm 3%, 2% và 1%
trong cơ cấu lao động.

9


lOMoARcPSD|11029029

Cơ cấu lao động của Việt Nam có sự chuyển dịch về nghề nghiệp trong vòng 5 năm qua.
Cụ thể là lao động làm “Nghề nông, lâm, ngư nghiệp” sụt giảm khá mạnh ở mức 26% từ 5.3
triệu lao động năm 2015 xuống còn 4 triệu lao động. Trong khi đó, 3 ngành “Chun mơn kỹ
thuật bậc cao”, “Thợ lắp ráp và vận hành máy móc, thiết bị”, và“Thợ thủ cơng và các thợ khác có
liên quan” có sự tăng mạnh về lao động. Cụ thể, lao động thuộc nghề địi hỏi “Chun mơn kỹ
thuật cao” và “Thợ thủ cơng và các thợ khác có liên quan” năm 2019 đã tăng hơn 1/5 so với năm
2015. Riêng “Thợ lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị” tăng hơn 2/5 ở mức 43% vào năm 2019

so với 2015 từ 4.6 triệu lao động lên 6.6 triệu lao động. Các ngành khác có sự thay đổi khơng
đáng kể và có mức tăng giảm trong khoảng 8 – 10%. Cụ thể là “Nghề đơn giản” giảm 10% từ
20.9 triệu lao động năm 2015 xuống 18.8 triệu lao động năm 2019. “Nhà lãnh đạo” và “ Khác”
giảm lần lượt ở mức 9% và 8%. Ngược lại, “Chuyên môn kỹ thuật bậc trung”, “Nhân viên” và
“Dịch vụ cá nhân, bảo vệ bán hàng” đều tăng lần lượt ở mức 10%, 9% và 8%.
Thứ ba, về năng suất lao động:
Việt Nam đã có nhiều nỗ lực mạnh mẽ trong việc cải thiện năng năng suất lao động trong
những năm gần đây, nhờ đó năng suất lao động của Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể, cả
về giá trị và tốc độ. Bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn
2011-2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp
(TFP) bình quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30-35%).
Thứ tư, về đặc điểm tâm lý – xã hội, tính cách của con người Việt Nam
Con người Việt Nam đã kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của thế hệ
đi trước trong lịch sử như: Yêu quê hương, đất nước, con người, cần cù, sáng tạo trong học tập
và lao động, năng động, dễ tiếp thu cái mới, nắm bắt cơng nghệ nhanh, có ý thức cầu tiến. Những
phẩm chất này được nhân dân ta thể hiện thích ứng với điều kiện tự nhiên và lịch sử của dải đất
hình chữ S tạo dựng nên một tính cách riêng, một sắc thái văn hóa đặc thù. Khi bước vào thực
hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, những tính cách và sắc thái văn hóa nói
trên, có những tác động tích cực đến việc phát huy nguồn lực con người của Việt Nam.

10


lOMoARcPSD|11029029

Chương III: Một số giải pháp xây dựng nguồn nhân lực nước ta hiện
nay trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

3.1. Những hạn chế trong con người Việt Nam hiện nay


Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Điều này thể hiện rõ nét nhất ở
năng suất lao động của toàn xã hội được nâng cao, tạo tốc độ tăng trưởng khá và nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế, tiềm lực quốc gia. Tuy nhiên, nếu nghiêm khắc nhìn nhận thì những
thành tựu đạt được nêu trên so với nguồn lực đã đầu tư, công sức bỏ ra, với những điều kiện, vận
hội và thời cơ đem lại, nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam đang phát triển chưa tương
xứng với tiềm năng, còn nhiều rào cản và hạn chế.
Một là, chất lượng nhân lực trên các mặt thể lực, kỹ năng, thái độ lao động và quan hệ xã
hội còn thấp. Lực lượng lao động Việt Nam hiện nay gặp nhiều hạn chế về chất lượng, nhất là về
trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực và văn hố lao động cơng nghiệp.
Đại bộ phận lao động nước ta chưa được đào tạo đầy đủ, số người được đào tạo mới chỉ chiếm tỷ
lệ thấp. Xét tổng thể cả nước, số lượng lao động chưa qua đào tạo nghề nghiệp vẫn còn rất cao,
chiếm 74,7%; chất lượng người lao động còn hạn chế, sự bất hợp lý về phân công lao động được
đào tạo trong các lĩnh vực sản xuất và những khó khăn trong phân bổ dân cư cũng không phải là
nhỏ. Năng lực và phẩm chất của nhiều cán bộ, cơng chức cịn yếu, một bộ phận khơng nhỏ thối
hóa, biến chất Mặt khác, người lao động ở nước ta còn hạn chế về thể lực; sự phát triển về
phương diện sinh lý và thể lực dường như còn chững lại, đại đa số người lao động quen theo kiểu
sản xuất nhỏ và lao động giản đơn.
Hai là, lao động phổ thông dư thừa nhiều, lao động kỹ thuật thiếu, chuyên gia thiếu hụt.
Nhìn chung nền kinh tế quốc dân còn thiếu nhiều lao động và cán bộ có tay nghề và trình độ kỹ
thuật, nghiệp vụ cao, đặc biệt là ở các thành phố lớn, nơi có nhiều cơ quan, doanh nghiệp, khu
chế xuất - khu công nghiệp.
Ba là, cơ cấu đào tạo không phù hợp với nhu cầu lao động trong xã hội. Trên thực tế, mối
quan hệ giữa đào tạo và thị trường lao động hiện nay rất lỏng lẻo, bên đào tạo và bên sử dụng rất
ít có quan hệ với nhau. Điều này dẫn đến hiện tượng các trường đào tạo theo chủ quan mà khơng
tính tới nhu cầu xã hội cần bao nhiêu lao động và ở loại ngành nghề nào tức là chủ yếu đào tạo
theo khả năng "cung" của mình chứ chưa thực sự đào tạo theo "cầu" của doanh nghiệp. Chính vì
thế, có sự thừa thiếu nhân lực cục bộ; ở một số ngành rất thiếu lao động có trình độ nhưng một số
ngành lại thừa, nhiều sinh viên tốt nghiệp khơng tìm được việc làm.
Bốn là, năng suất lao động của Việt Nam còn thấp so với các quốc gia khác trong khu

vực. Báo cáo 2020 của Tổ chức Năng suất châu Á (APO) cho thấy năng suất lao động Việt Nam
tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm. Theo ước tính của
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) năm 2020, năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn 7 lần so
với Malaysia; 4 lần so với Trung Quốc; 3 lần so với Thái Lan, 2 lần so với Philippines và 26 lần
so với Singapore.

11


lOMoARcPSD|11029029

3.2. Những giải pháp xây dựng con người Việt Nam trong thời đại cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa
Một là, Đảng và Nhà nước cần gắn chiến lược phát triển con người với chiến lược phát
triển kinh tế. Sự phát triển và nâng cao nguồn nhân lực là động lực cho tăng trưởng kinh tế thông
qua sự kết hợp chặt chẽ các chiến lược kinh tế và chiến lược phát triển con người, thể hiện qua
xu hướng đào tạo theo nhu cầu xã hội, sự hợp tác giữa các trường học với doanh nghiệp đào tạo
nhân lực. Từ đó, giải quyết tình trạng thiếu hụt nhân lực có trình độ, tay nghề và kỹ năng cần
thiết cho sự phát triển kinh tế, biến gánh nặng dân số trở thành lợi thế cạnh tranh của nước ta qua
quá trình hội nhập.
Hai là, cải cách giáo dục đại học và đào tạo nghề nhằm nâng cao chất lượng đào tạo; kết
hợp chặt chẽ với khoa học - kỹ thuật - công nghệ mới. Chất lượng giáo dục đào tạo có tầm ảnh
hưởng quan trọng đến chất lượng nguồn lực con người. Trong đó, hai yêu cầu cấp thiết hiện nay
là phải gắn đào tạo của nhà trường với yêu cầu của thị trường lao động và gắn đào tạo giáo dục
với ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm khắc phục sự bất hợp lý về cơ cấu đội ngũ cán bộ có trình
độ chuyên môn kỹ thuật, sự mất cân đối nghiêm trọng trong phân bố cán bộ giữa khu vực sản
xuất vật chất và phi vật chất, giữa thành thị và nông thôn, giữa khu vực quốc doanh và khu vực
tư nhân.
Ba là, Đảng và Nhà nước cần nâng cao chất lượng quản lý một cách có hiệu quả đối với
nguồn nhân lực trước những yêu cầu mới của phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập và cạnh

tranh. Nước ta cần phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ
chức trong công tác chỉ đạo, quản lý và tổ chức thực hiện các chiến lược, chương trình, kế hoạch
phát triển nguồn lực con người.
Bốn là, thực hiện các chính sách thu hút nhân tài. Việt Nam cần tập trung đào tạo, thu hút,
sử dụng nguồn lực con người vừa mang tính tổng thể, vừa đảm bảo có trọng tâm, trọng điểm;
đưa ra nhiều chính sách, chương trình, đề án để phát triển, khai thác nguồn nhân lực ở lĩnh vực
cơng; thực hiện chính sách “cầu hiền tài”, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khá hiệu quả
kết hợp đồng bộ với việc bố trí, đề bạt, bổ nhiệm và sử dụng một cách hợp lý, đồng bộ và hài
hịa; chính sách phát huy nguồn lực con người mang tính đồng thuận xã hội cao; tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ, giải quyết việc làm cho nguồn lao động dồi dào
của nước ta hiện nay.
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của đất nước phải được quan tâm và tạo mọi điều
kiện thuận lợi để nâng cao năng lực về trí tuệ, ý chí và niềm tin... Nguồn nhân lực có chất lượng
cao, với số lượng và cơ cấu hợp lý, giàu trí tuệ, giàu ý chí và khát vọng, có lý tưởng cách mạng
soi sáng, sẽ là động lực để sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, đáp ứng được u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra mạnh
mẽ hiện nay.

12


lOMoARcPSD|11029029

LỜI KẾT
Việt Nam đang xây dựng một chế độ chủ nghĩa xã hội - một chế độ của dân, do dân và vì
dân. Bởi vậy, hình thành những quan điểm đúng đắn về con người và vai trò của con người trong
sự phát triển kinh tế - xã hội là một vấn đề trọng tâm, không thể thiếu được trong lý luận của chủ
nghĩa Marx - Lenin.
Đối với một quốc gia đi lên từ nền nông nghiệp lạc hậu, con đường cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa là q trình tất yếu khách quan để đáp ứng tiến trình hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh

mẽ và sâu rộng. Thực tiễn đã chứng minh rằng một quốc gia có thể không thuận lợi về tài
nguyên, thiên nhiên nhưng nền kinh tế vẫn có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu
quốc gia đó vận dụng và theo đuổi một đường lối kinh tế đúng đắn, biết tổ chức thực hiện thắng
lợi đường lối đó; với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đội ngũ trí thức chất lượng cao; lực lượng
công nhân kỹ thuật tay nghề cao, đơng đảo và có các doanh nhân tài ba, xứng tầm. Nhận thức
được tầm quan trọng của vấn đề đó, việc phát triển và nâng cao nguồn lực con người chất lượng
cao được Đảng và Nhà nước ta xác định là yếu tố đóng vai trị quyết định trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhờ vậy, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu đáng kể về kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, phát triển yếu tố con
người còn gặp nhiều rào cản và thách thức, xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách
quan khác nhau.
Từ những phân tích trên, tiểu luận đưa ra kết luận rằng lý luận chủ nghĩa Marx - Lenin
nói chung và quan điểm của chủ nghĩa Marx - Lenin về con người nói riêng là kim chỉ nam,
đóng vai trị định hướng cho Việt Nam thực hiện thành công quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; trở thành một quốc gia văn minh, dân giàu, nước mạnh; thoát khỏi cái ngưỡng của
nghèo nàn, lạc hậu. Đồng thời, tiểu luận cịn đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm cải thiện và
nâng cao nguồn lực con người để công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Việt Nam gặt hái
những thành công sau này.
Một lần nữa, em chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Tùng Lâm đã tạo điều kiện để em
thực hiện bài tiểu luận “Quan điểm của triết học Marx-Lenin về con người và vấn đề xây dựng
nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay”. Do kiến
thức cịn hạn chế và nhiều sai sót, em mong nhận được góp ý và phản hồi của cơ để bài làm hoàn
thiện hơn.

13


lOMoARcPSD|11029029

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình Triết học Marx - Lenin, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Tạ Huy Thành (2009), “Quan điểm của Marx-Lenin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực
con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta”.
Trần Thị Hồng Nhung (2019), “Lý Luận của triết học Mác - Lênin về con người và sự vận dụng
của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”.
Ban Tổ chức Trung Ương (2018), “Quan điểm của Đảng về phát huy nhân tố con người trong
phát triển đất nước”, Tạp chí Xây Dựng Đảng.
Phạm Thị Hạnh (2020), “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Tạp chí Cộng Sản.
Đào Thị Hiên (2008), “Xây dựng nguồn lực con người trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hà Tây hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học
VCCI-HCM (2020), “Những chuyển dịch trong cơ cấu lao động”, Phịng Thương mại và Cơng
nghiệp Việt Nam.
GS, TS. Nguyễn Trọng Chuẩn (2020), “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
vấn đề con người - tiếp cận từ mục tiêu và động lực của sự phát triển”, Tạp chí Cộng Sản.

14



×