BÁO CÁO THỰC NGHIỆM KÝ SINH TRÙNG
(Khu vực Suối Hoa)
Nhóm: 7
Thành viên: Nguyễn Hưng Thịnh
Phạm Huỳnh lộc
Lê Phạm Thảo Minh
Mục Tiêu:
-
Thực hiện được kỹ thuật thu được mẫu vật ngoài thực địa.
Xác định được các ổ sinh thái của các loài ký sinh trùng, muỗi, bọ gậy.
Định loại nhanh các loài ký sinh trùng.
Xác định, thu thập các loài ký sinh trùng, ngoại ký sinh.
Thu thập được một số loài bướm đêm, muỗi anopheles
Nắm vững một số phương pháp điều tra, thu thập và xử lý mẫu vật.
Nắm vững các phương pháp thu thập, xử lý và bảo quản mẫu vật Tiết túc Y học.
Nội dung:
-
Điều tra tình hình giun sán ký sinh ơ gia súc, gia cầm tại địa phương.
Thu thập mẫu ốc, bọ gậy muỗi anopheles, bọ gậy Aedes,…
Thu mẫu ốc, bướm ngày, chuồn chuồn.
Thu mẫu bướm đêm.
Đặt bẫy thu các lồi vật chủ như chuột, sóc.
Bắt bọ xít rừng, bắt bọ gậy ở các suối.
Bẫy đèn CDC
Điều tra, thu thập mẫu vật tiết túc Y học.
Dụng cụ và trang thiết bị
-
Kính hiển vi
Lam kính. Lá kính
Bút
Viết
Que gỗ
Khan vãi
Bao tay
Bình đựcng dịch sát trùng
Hóa chất bảo quản
Kéo, dao
Que chọc tủy
PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA, TỔNG HỢP SỐ LIỆU
-
-
-
-
-
-
Phương pháp điều tra, tổng hợp số liệu luôn là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu điều tra
về dịch tể học nói riêng và tất cả những nghiên cứu về 1 đối tượng nào đó ở địa phương nói
chung. Bằng cách phân tích và tổng hợp các số liệu có được sau khi lấy mẫu vật, chúng ta có thể
đưa ra các kết luận về điều tra dịch tể tại địa phương đó và từ đó đưa ra các hướng xử lý cho từng
vùng.
Điều tra là phương pháp dùng những câu hỏi (hoặc bài toán) nhất loạt đặt ra cho một số lớn người
nhằm thu được số những ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề nào đó.
Điều tra là phương pháp khảo sát một nhóm đối tượng trên một diện rộng nhằm phát hiện những
quy ḷt phân bớ, trình độ phát triển, những đặc điểm về mặt định tính và định lượng của các đối
tượng cần nghiên cứu. Các tài liệu điều tra được là những thông tin quan trọng về đới tượng cần
cho quá trình nghiên cứu và là căn cứ quan trọng để đề xuất những giải pháp khoa học hay giải
pháp thực tiễn. Có hai loại điều tra: điều tra cơ bản và điều tra xã hội học.
- Phương pháp điều tra
+ Điều tra cơ bản:
Là khảo sát sự có mặt của đối tượng trên một diện rộng để nghiên cứu các quy luật phân bố cũng
như các đặc điểm về mặt định tính và định lượng. Ví dụ: điều tra địa chất, điều tra dân sớ, điều tra
trình độ văn hóa, điều tra chỉ sớ thông minh (IQ) của trẻ em….
Các bước của điều tra cơ bản thường được tiến hành như sau:
• Xây dựng kế hoạch điều tra gồm: mục đích, đối tượng, địa bàn, nhân lực, kinh phí…
• Xây dựng các mẫu phiếu điều tra với các thông số, các chỉ tiêu cần làm sáng tỏ.
• Chọn mẫu điều tra đại diện cho số đông, chú ý tới tất cả đặc trưng của đối tượng và chú ý đến:
chi phí điều tra rẻ, thời gian có thể rút ngắn, nhân lực điều tra không quá đông, có thể kiểm soát
tốt mọi khâu điều tra, dự tính được những diễn biến của quá trình điều tra và các kết quả nghiên
cứu đúng mục đích.
Có hai kỹ thuật chọn mẫu:
* Chọn mẫu xác suất là chọn mẫu ngẫu nhiên, đơn giản bằng cách lẫy mẫu theo hệ thống, từng
lớp, từng nhóm hay theo từng giai đoạn thời gian.
* Chọn mẫu chủ định là chọn mẫu theo địa chỉ tiêu cụ thể phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Về
kích thước mẫu phải tính toán chi li cho phù hợp với chiến lược điều tra và phạm vi đề tài.
Xử lý tài liệu: Các tài liệu thu được bằng điều tra có thể được phân loại bằng phương pháp thủ
công hay xử lý bằng công thức toán học thống kê và máy tính cho ta kết quả khách quan. Khi
kiểm tra kết quả nghiên cứu, có thể dùng cách lặp lại điều tra thay đổi địa điểm, thời gian, thay
đổi người điều tra hoặc sử dụng các phương pháp nghiên cứu hỗ trợ khác.
+Điều tra xã hội học: là điều tra quan điểm, thái độ của quần chúng về một sự kiện
chính trị, xã hội, hiện tượng văn hóa, thị hiếu …
Ví dụ: điều tra nguyện vọng nghề nghiệp của thanh niên, điều tra hay trưng cầu dân ý về một luật
mới ban hành….
Điều tra xã hội học thực chất là trưng cầu ý kiến quần chúng, được tiến hành bằng cách phỏng
vấn trực tiếp, thảo luận hay bằng hệ thống ankét (đóng, mở)….
– Điều tra là một phương pháp nghiên cứu khoa học quan trọng, một hoạt động có mục đích, có
kế hoạch, được tiến hành một cách thận trọng, do đó người nghiên cứu cần tuân thủ nghiêm túc
các bước sau đây:
+ Chuẩn bị điều tra gồm các thao tác: chọn mẫu, chọn địa bàn khảo sát, lựa chọn thời gian khảo
sát, thiết kế phiếu hỏi và khảo sát định tính.
-
-
-
+ Tiến hành điều tra: điều tra viên phải được tập huấn để quán triệt mục đích, yêu cầu điều tra,
thống nhất các biện pháp phù hợp với từng nhóm mẫu và từng địa bàn điều tra. Trong quá trình
điều tra, người nghiên cứu cần tuân thủ những yêu cầu đã được đề ra. Nếu sử dụng cộng tác viên,
điều tra viên, người nghiên cứu cần giám sát điều tra với mục đích thu được thông tin một cách
khách quan, tin cậy.
+ Xử lý kết quả điều tra: được tiến hành bằng phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phân tích tư
liệu, tổng hợp và phân loại tư liệu và tiến hành xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê, phân
tích, so sánh … theo những biến số độc lập để rút ra những thuộc tính chung của các tập hợp mẫu
nhằm hình thành luận cứ cho các giả thuyết nghiên cứu.
Tùy theo mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu cũng như trạng thái tồn tại của đối tượng khảo sát, người
nghiên cứu có thể lựa chọn, sử dụng một số biện pháp xử lý thông tin định tính hay định lượng
bằng các số liệu, các loại biểu đồ, sơ đồ để mô tả, giải thích, làm rõ các thuộc tính bản chất, xu
thế của đối tượng nghiên cứu.
– Phương pháp điều tra có nhiều loại:
+ Điều tra bằng trò chuyện (đàm thoại)
+ Điều tra bằng phiếu
+ Điều tra bằng trắc nghiệm
Tùy theo mục đích và mức độ điều tra, người ta còn chia ra:
+ Điều tra thăm dò (diện rộng)
+ Điều tra sâu (hẹp, kín)
+ Điều tra bổ sung….
MỔ ẾCH
I/ Kỹ thuật mổ:
1) Phá tủy: Dùng khăn mềm lau sạch chất nhầy ếch. Tay trái cầm ếch, ngón đeo nhẫn và ngón út
giữ chặt 2 chân sau vào lịng bàn tay, ngón trỏ đặt phía trên dọc theo cột sống, ngón giữa và
ngón cái đặt 2 bên thân song song với cột sống và áp sát vào mặt dưới cột sống. Như vậy là 3
-
-
ngón cái, trỏ và giữa giữ thẳng cột sống giúp ta hướng mũi kim và kiểm soát mũi kim sau này khi
luồn vào ống tủy. Tay phải cầm kim mũi nhọn bằng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa, ngón thứ 4 tì
lên mũi ếch ấn nhẹ xuống. Lúc này nhìn da ở chỗ gập lại của đầu và thân thấy 1 chỗ hơi lõm
xuống, đó chính là vị trí của hố khớp. Đặt mũi kim vào hố khớp (tức chỗ lõm) thì dựng đứng mũi
kim, ấn và xốy nhẹ cho xuyên qua da, đâm vào hành tủy. Sau đó rút nhẹ kim (nhưng không rút
ra khỏi hố khớp), nghiêng mũi kim tìm ống tủy xốy thẳng vào. Chọc đúng ống tủy, ếch sẽ duỗi
thẳng 2 chân sau và hơi run run , sau đó mềm ra và mất tính cường. Lúc này tủy được phá xong.
2) Cách mổ:
a- Cách mổ thứ nhất: Đặt ếch nằm ngữa trên khay mổ, đóng căng tứ chi bằng đinh ghim.
- Dùng kéo cắt da ếch từ lỗ huyệt lên đến đầu sau đó cắt sang hai bên, ghim các tấm da sang hai
bên.
- Cắt lớp cơ song song với đường cắt da rồi dùng đinh ghim ghim lớp cơ sang 2 bên. Khi cắt cần
nhấc mũi kéo lên phía trên tránh cắt vào nội quan ếch ở phía dưới.
- Dùng kẹp nâng cơ ở ngực ếch lên cắt bỏ 2 bên sườn, cắt da cơ xương và bỏ khối da cơ xương
lên trên xương đòn để quan sát khe họng.
- Rửa sạch mẫu vật, quan sát nội quan.
b- Cách mổ thứ hai: Sau khi đã cắt da bụng, dùng kéo cắt cơ bụng từ phía dưới tới cằm. Đến vai
cắt lìa 2 xương cánh tay dính vào đai vai. Do đó động mạch dưới đòn bị đứt. Lấy nước rửa máu.
Cắt bỏ cả thềm miệng bằng cách cắt đứt chỗ khớp của hàm trên với hàm dưới. Khi cắt cơ bụng,
chú ý hướng mũi kéo lên trên tránh thúng nội quan.
3) Lọc Lấy ký sinh trùng
Dùng kéo vài nhíp cắt riêng dạ dày và ruột, sau đso đặt vào khay có chưa nước muối sinh lý.
Dung dao rọc dạ dày và ruột, đặt lên kính soi tìm ký sinh trùng.
Dung hút hút ký sinh trùng đặt vào lọ đựng.
Phương pháp cố định mẫu giun sán ký sinh
Mẫu giun sang thu được cần phải định hình để bảo quản và định loại. Đới với sán lá, sán dây và
giun đầu gai định hình tron cồn 70o. Giun trịn định hình trong dung dịch Barbagalo(3% formol+ 8g muối
ăn (NaCl) + 1 lít nước).
Mẫu giun sán khơng nên định hình ngay trong lúc sớng, vì như thế sẽ làm co cơ, gây khó khan
cho nghiên cứu sau này, mà nên cho vào dung dịch sinh lý để chết tự nhiên. Đối với sán lá, sán dây có
kích thước lớn cần ép giữa 2 phiến kính trong dung dịch cồn 10o cho chết, sau đso hãy cho vào dung dịch
định hình. Giun đầu gai cũng nên ép trong dung dịch sinh lý để cho đầu thị ra.
Mẫu giun sán định hình trong ớng nghiệm cần phải ghi rõ nhãn; Số thứ tư, tên động vật (tuổi,
đực, cái), nơi ký sinh, số lượng giun sán (ghi theo lớp: sán lá, sán dây, giun tròn, giun đầu gai,…), địa
điểm, ngày thu mẫu. sau đó nút ống nghiệm đậy bằng bông không thấm nước. Những ống nghiệm nhỏ
này phải để ngập trong dung dịch định hình tương ứng ơ trong một lọ rộng miệng và có nắp đậy kín để
tránh bị khô mẫu.
Cho giun sán đã thu chia làm 1 loài 1 đĩa petri riêng (sán lá, giun trịn, giun đầu gai,…)
-
-
-
Đới với giun trịn: cho vào nước mối sinh lý ngâm từ 1 đến 2 phút thi hút bớt nước muối sinh lý
ra. Sau đso cho 1 ít nước muối vào cốc thủy tinh và đổ nước sôi khoảng 80 0C và lắc đều cho muối
tan ra xong đở vào đĩa petri có mẫu giun trịn. Mục đích của việc đổ nước sôi sau khi ngâm vào
ḿi sinh lý là để cho giun trịn duỗi thẳng người ra (vì trong các bộ phận như ruột, dạ dày,…
nhỏ nên giun tròn thường co lại). Sau đó cho vào cồn 700 để bảo quản mẫu.
Đối với sán lá: tốt nhất là nên thu mẫu ấu trùng sán lá và sán lá trưởng thành khi đang cịn sớng
cho vafoi nước muối sinh lý. Sau đó dung phương pháp nước nóng như giun tròn. Nếu sán quá
nhiều trứng che hết nội tạng của sán lá thì ta cho vào nước muối sinh lý khoảng nữa ngày và theo
dõi lien tục cho đến khi nào thấy nội tạng mà vẫn còn giữ được trứng. Sauk hi dung phương pháo
nước nóng thì ta ép tiêu bản sán lá giữa 2 phiến kinh, lấy chỉ thắt quanh để cố định 2 phiến kính
(chú ý không thắt quá chặt hay quá lỏng). Tiếp theo cho ngâm vào cồn 70 0 để trong 10 – 14 ngày
mới có thể đem ra nhuộm.
Đối với giun đầu gai:thì lúc thu mẫu cũng cho nước muối sinh lý 1-2 phút, nh ưng riêng giun
dầu gai thì khơng dùng phương pháp nước nóng mà cho giun đầu gai vào nước máy ( chú ý
nước máy để qua đêm) .Sau đó ngâm để qua đêm cho đến khi nào vịi của giun đầu gai vòi
duỗi ra.
KẾT QUẢ THU ĐƯỢC
*) Giun đầu gai
I.Đại cương
Giun đầu gai Gnathostoma spp được tìm thấy trong một khối u ở vách dạ dày của một hổ con
đã chết tại vườn thú ở London năm 1836 và được Owen đặt tên là Gnathostoma spinigerum.
Năm 1889, ca nhiễm Gnathostoma đầu tiên ở người được phát hiện bởi bác sĩ Deutzer, ông đã
bắt được ấu trùng từ một nốt dưới da xung quanh vùng vú một phụ nữ người Thái Lan, ấu
trùng này được Levinsen đặt tên là Cheiracanthus siamensis, về sau được xác định
làG.spinigerum.
Bệnh do ấu trùng giun đầu gai là một bệnh ký sinh trùng truyền từ động vật sang người. Một số
lồi đã được chứng minh có liên quan đến gây bệnh ở người: G.doloresi, G.spinigerum,
G.nipponicum, G.hispidum và gần đây là G.binucleatum.
G.spinigerum từ lâu được xem như một lồi chính gây bệnh cho người ở khu vực châu Á nói
chung và Việt Nam nói riêng.
Bệnh giun đầu gai là một trong những bệnh nhiễm trùng hiếm gặp nhất, người bị nhiễm do tiêu
hóa phải ấu trùng giai đoạn 3 của lồi giun trịn, giống Gnathostoma spp. Thường gặp nhất
là G.spinigerum, mặc dù một số lồi khác cũng có thể gây bệnh cho người. Ấu trùng có thể
được tìm thấy trong rau hoặc thịt nấu chưa chín (cá nước ngọt, gà, ốc, ếch, heo) hoặc nước bị
nhiễm. Hiếm khi ấu trùng xuyên qua da của người có phơi nhiễm với nguồn nước hoặc thịt bị
nhiễm.
Lớp giun đầu gai thuộc ngành đầu gai Acanthopheles bao gồm khoảng 1500 loài, chia làm 3
phân lớp: Neochinorhychnea, Echinohynchinea, Gigantorhynchinea.
II. Dịch tễ học
1. Tần suất
G.spinigerum được tìm thấy ở một số nước như: Nhật, Australia, Mỹ, Mexico, và nhiều nhất là
Thái Lan. Trên thế giới, bệnh do G.spinigerum gây ra là không phổ biến, ngay cả ở các vùng
lưu hành bệnh giun sán như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào, Malaysia, Đài Loan, Thái Lan, Việt
Nam và châu Mỹ Latinh (chủ yếu ở Mexico và Ecuador).
G.spinigerum thường được phát hiện ở vùng nhiệt đới. Ấu trùng có thể phát hiện trên nhiều loại
động vật khác nhau, chúng sinh sống trong nhiều hệ sinh thái khác nhau. Trong khi chó, mèo và
có thể cả heo là các vật chủ chính thì có đến 36 vật chủ trung gian nhiễm tự nhiên thông qua
mô tả và xác định theo mơ hình vật chủ thực nghiệm.
Phân bố bệnh giun đầu gai Gnathostoma spp trên toàn cầu
(Nguồn: />2. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong
Ấu trùng G.spinigerum có thể tồn tại 10-12 năm trong cơ thể cơ thể người [1] do đó, nó góp
phần vào một tỷ lệ mắc bệnh đáng kể.
Tỷ lệ tử vong do bệnh này khoảng 8-25%; hoặc có di chứng kéo dài, khoảng 30% có liên quan
đến hệ thần kinh [1].
3. Chủng tộc, giới tính và tuổi mắc bệnh
Chưa phát hiện bệnh có liên quan đến chủng tộc, dân tộc, độ tuổi hay giới tính. Một số ca có
liên quan đến chế độ ăn uống, nghề nghiệp.
4. Nguồn lây nhiễm
Người bị nhiễm khi ăn phải ấu trùng giai đoạn 3 có trong rau sống hoặc thịt nấu chưa chín từ
các vật chủ chính hoặc khi họ uống, làm việc, bơi lội trong nước bị nhiễm ấu trùng hoặc các loài
giáp xác bị nhiễm sẵn.
Các trường hợp lây truyền trước sinh có thể xảy ra ở người.
Ở người thì ấu trùng khơng quay trở lại thành dạ dày và có những trường hợp có thể tồn tại
trong cơ thể đến 10-12 năm. Vì lý do này, trứng giun chưa bao giờ hoặc rất hiếm được tìm thấy
trong phân của người.
III. Đặc điểm hình thái học và chu kỳ phát triển
Các loài giun đầu gai Gnathostoma spp thường gặp ký sinh ở người.
1. Hình thái học
a. Giun trưởng thành
Giun đầu gai khơng có hệ tiêu hóa, dinh dưỡng bằng cách thẩm thấu qua bề mặt cơ thể.
Giun trưởng thành có chiều dài 11-54 mm. Giun đực dài 11-25 mm, giun cái dài 25 - 54mm.
Giun đầu gai Gnathostoma spinigerum giai đoạn trưởng thành
Hình ảnh siêu cấu trúc bề mặt Gnathostoma spinigerum
(Nguồn: />Gnathostoma spp một đầu có hình củ, một cặp mơi ở bên bao quanh một cái miệng trên trục
thẳng đứng. Đầu được bao phủ bởi những hàng nhú gai bén nhọn nằm ngang. Bên trong, đầu
chia thành 4 túi có tuyến dính liền gần với thực quản và chia làm 4 khoang rỗng, mỗi khoang
liên tục với một túi ở cổ thông qua khoang trung tâm.
Các con cái khác với con đực là con cái có 2 gai thịt lớn quanh đầu dưới của giun. Phần lưng
tròn, ngược lại phần bụng hơi phẳng.
Con đực có 8 nhú gai ở đi bao quanh hậu mơn. Các gai nhỏ cùn, đóng vai trị quan trọng như
lỗ sinh sản mở ra âm đạo khi đưa tinh trùng vào. Cơ quan sinh dục con đực có kích thước
1.1mm X 0.4mm.
Điểm đặc biệt của Gnathostoma spinigerum
Cơ thể dạng hình trụ.
Một lớp cuticle với 3 lớp bên ngoài cấu tạo bằng collagen và các chất khác.
Lớp cuticle bảo vệ giun khỏi bị tiêu hóa để chúng có thể xâm nhập vào hệ tiêu hóa của
các động vật khác.
Lớp cơ dọc theo thành cơ thể. Cơ sắp xếp theo từng dãy.
Các sợi thần kinh dọc theo vùng bụng và lưng nối với phần chính cơ của cơ thể.
b. Trứng và ấu trùng
Trứng: Trứng giun Gnathostoma hình ovan. Kích thước khoảng chừng 40-70
micrometer, trứng có vỏ mỏng, bên trong chứa 1-2 tế bào phơi, có 2 lớp vỏ, một đầu có
nắp nhơ ra.
Sựphát triển của trứng giun đầu gai theo thời gian (Nguồn:)
Ấu trùng: Ấu trùng giai đoạn 3 có hình dạng gần giống với giun trưởng thành nhưng
trên đầu chỉ có 4 hàng gai. Chiều dài khoảng 3 - 5mm, đường kính khoảng 0.3mm.
Ấu trùng giun đầu gai Gnathostoma spinigerum (Nguồn: )
2. Chu kỳ phát triển
Chu kỳ phát triển của giun đầu gai
1. Trong các vật chủ chính trong tự nhiên (heo, chó, mèo và các động vật hoang dại) giun
trưởng thành sống trong một khối u ở thành dạ dày. Chúng thải trứng dạng khơng phơi
ra ngồi theo phân.
2. Các trứng trở nên có phôi sau 1 tuần khi ở trong nước và các trứng ly giải ra các ấu
trùng giai đoạn 1.
3. Nếu chúng được ăn bởi một con nhuyễn thể nhỏ (Cyclops, vật chủ trung gian thứ nhất),
các ấu trung giai đoạn 1 sẽ phát triển thành ấu trùng giai đoạn 2.
4. Sau khi tiêu hóa phải Cyclops bởi một con cá, ếch hoặc rắn (vật chủ trung gian thứ hai),
ấu trùng giai đoạn 2 sẽ di chuyển vào trong các thớ thịt và phát triển thành ấu trùng giai
đoạn 3.
5. Khi vật chủ trung gian thứ hai bị tiêu hóa bởi vật chủ chính, ấu trùng vào đến dạ dày,
xuyên qua thành dạ dày và di chuyển đến gan, xuyên qua mô liên kết, cơ. Sau 4 tuần,
ấu trùng di chuyển ngược trở lại dạ dày, tạo thành khối u và phát triển thành giun trưởng
thành. Trong các khối u nang này, giun đẻ trứng, trứng rơi vào lòng dạ dày, theo thức ăn
xuống ruột và được thải ra ngoài theo phân.
6. Như một sự lựa chọn, các vật chủ trung gian thứ hai có thể bị ăn phải bởi các vật chủ là
các động vật như chim, rắn và ếch, trong đó ấu trùng giai đoạn 3 khơng phát triển thêm
nhưng vẫn gây nhiễm cho các động vật ăn thịt tiếp theo.
7. Người trở nên nhiễm do ăn phải các cá nấu chưa chín hoặc các gia cầm chưa chín
chứa ấu trùng giai đoạn 3 hoặc nguồn nước nhiễm ấu trùng giai đoạn 2 trong
các Cyclops.
Người ăn phải các vật chủ chứa ấu trùng giai đoạn 3, ấu trùng qua dạ dày, ruột tới gan và các
bộ phận cơ thể. Ấu trùng giun không phát triển đến giai đoạn trưởng thành, mà chỉ ở giai đoạn
ấu trùng. Ấu trùng cũng không trở lại dạ dày nên cũng không tạo thành các u, nhú ở dạ dày. Ấu
trùng thường di chuyển khắp các cơ quan, gây ra hội chứng ấu trùng di chuyển ngồi da và nội
tạng. Người cũng có thể bị nhiễm do ấu trùng chui qua da.
**) Kết quả thực nghiệm
- Số lượng thu được: 17 vật mẫu
- Vật chủ: 3 ếch, 2 chóc choc.
Trong 3 ếch có 2 con phơi nhiễm giun đầu gai ở đường ruột (mỗi con 3 con) tỷ lệ 66,66% t ỷ l ệ
phơi nhiểm trên tổng số ếch.
Cã 2 chóc choc đều nhiểm lượng lớn kst (8 và 3 giun đầu gai trên t ừng con) t ỷ l ệ nhi ểm 100%
trên lồi
Một số hình ảnh thu được:
Đánh giá: khu vực có tỷ lệ nhiểm giun đầu gai khá cao
*) Giun tròn
Kết quả thu được trên 3 ếch và 2 chóc choc: 5 giun trịn
Trong 3 ếch có 2 con bị phơi nhiểm (1 và 2 giun tròn trên 1 cá thể) tỷ lệ phơi nhi ểm 66,66% trên
tổng số
Cã 2 chóc choc đều phơi nhiểm (1 giun tròn trên từng cá thể)0 tỷ lệ phơi nhiểm 100% trên t ổng
số
Kết luận: vùng có tỷ lể nhiễm ký sinh trùng giun tròn cao.