Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

ĐẤT nước nguyễn khoa điềm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.3 KB, 11 trang )

ĐẤT NƯỚC
(Trích trường ca “Mặt đường khát vọng”)
-

Nguyễn Khoa Điềm –

I.GIỚI THIỆU:
1.Tác giả:
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại Thừa Thiên – Huế. Ông thuộc thế hệ nhà
trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi
cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về non sông, đất nước và con
người Việt Nam.
2.Hồn cảnh sáng tác:
Đất nước trích phần đầu, chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”.
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Bình Trị
Thiên 1971, in lần đầu 1974 với nội dung thức tỉnh tuổi trẻ thành thị, vùng địch tạm
chiếm miền Nam, có ý thức về đất nước và sứ mệnh của thế hệ mình mà đấu tranh
chống đế quốc Mĩ.
3.Chủ đề:
Bài thơ thể hiện cái nhìn mới mẻ về đất nước – đất nước là sự hội tụ, kết tinh
công sức và khát vọng của nhân dân. Qua đó vẻ đẹp của đất nước được tác giả phát
hiện có chiều sâu, trên nhiều bình diện: Lịch sử, địa lí và văn hóa.
4.Đặc điểm nổi bật:
a.Về nội dung:
Tác giả hịa quyện giữa lí trí và tình cảm, giữa trí tuệ và cảm xúc khi nói về đất
nước. Tác giả tìm về truyền thống để thấy rõ bản chất con người và dân tộc Việt Nam.
Ơng khơng nhìn đất nước qua dáng vẻ bề ngoài mà hướng vào bên trong tâm hồn. Đất
nước xuất hiện gần gũi, thiêng liêng.
b.Về nghệ thuật:
Giọng thơ trữ tình – chính luận. Thể thơ tự do, giàu nhạc điệu. Từ “ Đất Nước” là
danh từ chung nhưng được viết hoa như danh từ riêng, nhằm thể hiện thái độ thành


kính của tác giả. Vận dụng thành công, sáng tạo nhiều yếu tố văn học dân gian.
5.Khái quát chung về bài thơ:
Tác giả mượn hình thức trị chuyện, tâm tình với người con gái mà mình u
thương. Đó là nhân vật “em”, cùng với những dòng thơ tự do, giàu nhạc điệu để giúp
người đọc có điều kiện suy ngẫm về đất nước. Đặc biệt, tồn bài thơ được bao bọc bởi
khơng khí văn hóa dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các
chất liệu của văn hóa dân gian như ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, truyền thuyết,
phong tục tập quán và văn hóa sinh hoạt trong đời sống hàng ngày của nhân dân.
Những chất liệu này đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi thân quen, vừa kì
diệu: Đó là sức mạnh gợi lên hồn thiêng sông núi.


II.PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:
1. Đất Nước là những gì gần gũi thân quen trong cuộc sống hàng ngày ( 9 câu
đầu):
Đất Nước có từ lâu đời và gần gũi, gắn bó thân thương đối với mỗi con người:
“ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Cả một q trình bốn ngàn năm lịch sử của đất nước được tác giả thể hiện ở hàng loạt
cấu trúc thơ: “Đất Nước đã có rồi, Đất Nước bắt đầu, Đất Nước có từ ngày ấy”, nhằm
thể hiện cả một chiều dài đất nước sinh ra, lớn lên, trưởng thành và trường tồn cho đến
ngày hôm nay. Câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, lời khẳng định rất
tự nhiên, thể hiện sự hình thành lâu đời và bền vững của đất nước ta.
Đất nước hình thành và phát triển từ những phong tục tập quán, văn hóa ngàn đời
của dân tộc:
“ Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa…mẹ thường hay kể”
Đất nước có từ nền văn hóa dân gian ơng cha ta để lại. Đất nước gắn liền với
những câu chuyện cổ tích mà thuở ấu thơ ai cũng từng đôi lần nghe bà, nghe mẹ kể.
Những câu chuyện cổ tích ấy, thường bắt đầu bằng cụm từ không xác định thời gian
“ngày xửa ngày xưa”.
“ Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”

Đất nước gắn liền với phong tục tập quán riêng của dân tộc Việt Nam. Đất nước
là hình ảnh “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Hình ảnh miếng trầu gợi cho ta nhiều liên
tưởng. Trong giao tiếp của người Việt xưa, miếng trầu là đầu câu chuyện. Miếng trầu
còn gợi đến sự tích trầu cau, sự tích này đề cao tình nghĩa vợ chồng, tình cảm anh em.
Miếng trầu còn gợi nhớ phong tục cưới xin của người Việt.
“ Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Đất nước cịn là thuần phong mĩ tục quen thuộc của người Việt qua hình ảnh “tóc mẹ
bới sau đầu”. Điều đáng tự hào là từ thuở dựng nước cho đến nay, nước ta thường
xuyên có giặc ngoại xâm. Giặc ngoại xâm ln ni ý đồ đồng hóa dân tộc ta về ngơn
ngữ, về văn hóa, thế mà thuần phong đẹp “tóc mẹ thì bới sau đầu” lại khơng bao giờ
bị đồng hóa.
Đất nước ta từ xa xưa ln có truyền thống đánh giặc ngoại xâm “giặc đến nhà
đàn bà cũng đánh”, điều này được thể hiện qua câu thơ:
“ Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc”
Đất nước được cảm nhận qua truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng của
dân tộc. Câu thơ gợi nhớ đến bốn ngàn năm lịch sử chống giặc ngoại xâm. Nó cịn gắn
liền với truyền thuyết Thánh Gióng và ghi lại giai đoạn dân tộc ta thông minh, sáng
tạo biết chống giặc ngoại xâm bằng vũ khí làm từ tre: gậy tre, đuốc tre, chơng
tre…Ngồi ra, tre cịn gần gũi với đời sống thường ngày của người Việt Nam: đũa tre,
giường tre, rổ tre…
Đất nước còn bắt nguồn từ những đạo lý tốt đẹp:
“ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”


Đất nước gắn liền với những đạo lí tốt đẹp của dân tộc đó là tình cảm vợ chồng,
càng gian lao khổ ải thì càng phải sắt son, chung thủy, được thể hiện qua thành ngữ
“gừng cay muối mặn”. Thành ngữ này gợi nhớ đến bài ca dao:
“ Tay bưng chén muối dĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”.
Đất nước gắn liền với việc hình thành nên ngơn ngữ:

“ Cái kèo, cái cột thành tên”
Ngơn ngữ được hình thành từ những vật gần gũi, quen thuộc “cái kèo, cái cột”.
Cụm từ “cái kèo, cái cột” là tên gọi những vật dùng để làm nhà – những ngôi nhà tre,
nhà lá mà cha ông ta dùng để che mưa, che nắng.
Đất nước ta có truyền thống cần cù lam lũ:
“ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng”
Đất nước là truyền thống cần cù, lam lũ trong sản xuất. Đất nước gắn liền với hạt
gạo vì gạo là lương thực chính của người Việt. Nhưng hạt gạo lại được sản xuất theo
quy trình rất Việt Nam, được thể hiện ở hàng loạt động từ “xay, giã, dần, sàng” và
thành ngữ “một nắng hai sương”, chỉ hạt gạo được làm ra bởi bàn tay cần cù, tần tảo
của nhân dân. Bàn tay ấy làm nên sự sống cho đất nước.
*Sơ kết: Đoạn thơ là sự kết tinh đặc sắc giữa chất liệu văn hóa dân gian, với hình thức
thơ trữ tình – chính luận. Chữ “Đất Nước” được viết hoa và lặp lại nhiều lần như một
điệp khúc vừa thể hiện ý nghĩa cao cả, thiêng liêng của đất nước, vừa thể hiện tình
cảm yêu quý, trân trọng đất nước. Từ đó, khắc sâu hình ảnh đất nước vào tâm trí
người đọc. Đất nước khơng là những khái niệm trừu tượng, mà đất nước là những gì
gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày.
2.Cảm nhận đất nước qua phương diện thời gian – lịch sử, không gian – địa lí và
văn hóa phong tục ( Câu 10 – 29 ):
Trong những năm tháng Mĩ – Ngụy chiếm đóng, các đơ thị miền Nam chịu ảnh
hưởng nặng nề về tư tưởng, văn hóa nơ dịch và phản động, thì việc nhận thức lại khái
niệm đất nước là vơ cùng cần thiết. Khi nói về đất nước, tác giả khơng giải thích, cắt
nghĩa chung chung, mà dùng cách phân hợp khái niệm nhiều lần: “ Đất Nước là…,
Đất là…, Nước là…” để làm rõ đất nước được tạo bởi hai yếu tố “Đất” và “Nước”.
Sáu câu đầu, đất nước là khơng gian địa lí.
Khơng gian địa lí hẹp:
“ Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Đất nước là những khơng gian thân quen, gần gũi, gắn bó với cuộc sống mỗi
người. Đất nước chính là con đường anh đến trường, là cái ao em tắm. Đất nước còn
là nơi gieo mầm hạt giống tình yêu, là nơi mang nỗi tương tư của người con gái “em


đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Câu thơ gợi ta liên tưởng đến nỗi nhớ người
yêu trong bài ca dao:
“ Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt…”
Khơng gian địa lí rộng:
“ Đất là nơi con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ơng móng nước biển khơi”
Đất là núi, sơng, rừng, biển, khái niệm này thật là quen thuộc. Nhưng Nguyễn
Khoa Điềm rất độc đáo trong việc sử dụng hình ảnh “con chim phượng hồng, con cá
ngư ơng”. Hình ảnh này nhắc ta nhớ đến câu chuyện cổ tích “ hai anh em và cây khế”
có con chim phượng hồng ăn khế trả vàng. Câu thơ này còn gợi nhớ đến câu hị Bình
Trị Thiên:
“ Con chim phượng hồng bay ngang hịn núi bạc
Con cá ngư ơng móng nước ngồi biển khơi”
Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tạo, thay cụm từ “bay ngang hòn núi bạc”
thành “bay về hòn núi bạc”, “móng nước ngồi biển khơi” thành “móng nước biển
khơi” để người đọc dễ dàng cảm nhận niềm tự hào, gắn bó với núi sơng hùng vĩ của
đất nước.
Bảy câu tiếp theo, đất nước là thời gian lịch sử:
“Thời gian đằng đẳng
Khơng gian mênh mơng

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Cụm từ chỉ thời gian không xác định “thời gian đằng đẳng”, nhưng người Việt ai
cũng hiểu đó là chiều dài lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc Việt. Chiều dài lịch sử này
đã trải qua biết bao thăng trầm trước nạn ngoại xâm. Đi suốt chiều dài của “thời gian
đằng đẳng, không gian mênh mông”, ta sẽ hiểu rằng đất nước là báu vật, tổ ấm của nòi
giống tiên rồng. Truyền thuyết “Lạc Long Quân và Âu Cơ” là bản khai sinh vinh
quang cho nguồn gốc dân tộc Việt. Dải đất này là đất lành nên “chim về”, đất thiêng
nên “rồng ở”, sự kết hợp vĩ đại của rồng tiên đã khai sinh ra dân tộc Việt. Từ đó đến


nay đất nước vẫn che chở và nuôi dưỡng biết bao thế hệ rồng tiên, đất nước là ngôi
nhà chung của người Việt “đất là nơi dân mình đồn tụ”.
Bảy câu tiếp theo, trách nhiệm của người Việt đối với đất nước:
“ Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Đất nước là sự sinh tồn của bao cộng đồng người Việt, trải qua nhiều thế hệ, được thể
hiện ở cặp kết cấu cú pháp “ Những ai đã khuất – Những ai bây giờ”. Vì vậy, mỗi
người đều phải có trách nhiệm bảo tồn nòi giống bằng cách yêu nhau và sinh con đẻ
cái. Ngồi ra cịn phải có trách nhiệm, nhắc nhở con cháu hướng về cội nguồn, Tổ tiên
với lịng thành kính thể hiện ở cụm từ “cúi đầu” trong câu thơ “cũng biết cúi đầu nhớ
ngày giỗ Tổ”. Câu thơ này gợi đến bài ca dao:

“ Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”.
*Sơ kết: Đoạn thơ sử dụng nhiều chất liệu văn hóa dân gian: ca dao, dân ca, truyện cổ
tích…tạo chiều sâu, định nghĩa sâu sắc và hoàn chỉnh về đất nước, thể hiện sự gắn bó
của mỗi con người đối với đất nước. Đất nước được cảm nhận trên nhiều phương
diện: Từ chiều dài của lịch sử, chiều rộng của khơng gian địa lí, đến chiều sâu của văn
hóa dân tộc. Đặc biệt, đất nước được cảm nhận trong sự thống nhất, hài hòa giữa cái
riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa thế hệ này và thế hệ khác nối tiếp
nhau…Đó là cách cảm nhận mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước bằng quan
niệm của tuổi trẻ, vừa riêng biệt, vừa hết sức độc đáo.
3.Trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước. Đất nước là mối quan hệ giữa cá
nhân và cộng đồng ( Câu 30 – 42 ):
“ Trong anh và em hơm nay
Đều có một phần Đất Nước”
Câu khẳng định “Trong anh và em hơm nay, đều có một phần Đất Nước”, nhằm
khẳng định, đất nước không phải là khái niệm xa lạ, mà ở ngay trong máu thịt của ta.
Bởi mỗi người Việt Nam sinh ra đều được hưởng một phần di sản vật chất, tinh thần
của đất nước: Ăn hạt gạo quê hương, lớn lên bằng lời ru yêu thương của bà, của mẹ
cũng là của dân tộc, bập bẹ nói ngơn ngữ Việt…Nên phải có trách nhiệm giữ gìn và
truyền lại cho thế hệ sau.
“ Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người


Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
Cấu trúc song hành “ Khi hai đứa cầm tay – Khi chúng ta cầm tay mọi người” và
hàng loạt tính từ “hài hịa, nồng thắm, vẹn tròn, to lớn” để chỉ mối quan hệ giữa cá
nhân và cộng đồng, giữa cái riêng và cái chung. Cụm từ “khi hai đứa cầm tay” thể
hiện tình u đơi lứa, tình u đơi lứa mang đậm dáng dấp quê hương nên “hài hòa

nồng thắm”, là cội nguồn để chúng ta “cầm tay mọi người”. Khi ấy mối quan hệ giữa
tình u đơi lứa và tình u đất nước sẽ làm nên sức mạnh đoàn kết dân tộc trong bốn
ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
“ Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Hình ảnh ẩn dụ “tháng ngày mơ mộng” nhằm chỉ một tương lai sáng ngời của đất
nước mà thế hệ cha ông hằng mơ ước về thế hệ con cháu mai sau “mai này con ta lớn
lên” sẽ đưa đất nước vươn lên tầm cao mới. Ước mơ này của cha ông là lời nhắn nhủ
về trách nhiệm, bổn phận của người Việt và phải luôn tin tưởng vào thế hệ mai sau.
“ Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước mn đời…”
Cách gọi thân thương “em ơi em” và câu khẳng định “Đất Nước là máu xương
của mình”, nhằm khẳng định để có đất nước hôm nay, ông cha ta phải đổ biết bao
xương máu để giữ gìn và bảo vệ. Điệp ngữ “phải biết”, cùng với các động từ “gắn bó,
san sẻ, hóa thân”, nhằm chỉ ra trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam đối với đất
nước. “Gắn bó” là biết đồng cam cộng khổ với nhân dân, đứng về phía nhân dân
chống lại kẻ thù. Cố gắng vươn lên từ trong gian khó, cống hiến hết sức lực, tài năng
để góp phần xây dựng, bảo vệ đất nước. “San sẻ” là biết chia sẻ ngọt bùi, biết sống
tình nghĩa “lá lành đùm lá rách”, yêu thương giúp đỡ mọi người lúc khó khăn. Sẵn
sàng chia sẻ một phần đời sống vật chất và tinh thần khi Tổ quốc cần. Từ “hóa thân” ở
đây có thể hiểu là sự hi sinh của mỗi con người để làm nên hình hài, dáng vẻ, sự
trường tồn vĩnh cửu của đất nước.
*Sơ kết: Với phong cách thơ trữ tình – chính luận, lời thơ ngọt ngào, tha thiết. Đoạn
thơ thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận sâu sắc về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
Tác giả đã nhìn thấy mối quan hệ khăng khít giữa cá nhân và cộng đồng, giữa hiện tại
và tương lai. Từ đó khơi gợi trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước. Đoạn thơ
khơng là những lời giáo lí khơ khan mà là những lời tâm tình của đơi lứa yêu nhau

“em ơi em” và hình ảnh “khi hai đứa cầm tay”. Lời tâm tình này làm lay động hàng
triệu trái tim độc giả.
4.Tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra và do nhân dân cảm thụ
( Câu 43 – câu 89 ):
a.Nhân dân là người làm ra danh lam thắng cảnh ( Câu 43 – Câu 54):
“ Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những hòn Vọng Phu


Cặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lại
Chín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm
Những học trị nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ơng Đốc, Ơng Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha
Ơi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta…”
Theo cách nhìn mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước chính là những danh
lam thắng cảnh đẹp, kì thú, được tác giả liệt kê: hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi
Bút, non Nghiên…Những danh lam thắng cảnh này, không chỉ là tặng vật của thiên
nhiên, mà còn phản ánh đời sống của nhân dân và được cảm thụ bằng chính tâm hồn,
tình cảm của họ.
Nếu khơng có những người vợ Việt Nam mịn mỏi chờ chồng đến hóa đá thì làm
sao có núi Vọng Phu
“Cặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lại
Chín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm

Những học trị nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà q hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”
Vậy đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm
hồn, máu thịt của nhân dân. Tác giả đã quy nạp hàng loạt những danh lam thắng cảnh,
để đưa đến một kết luận: Mỗi danh lam thắng cảnh đều mang “một dáng hình, một ao
ước, một lối sống ơng cha”. “Một dáng hình” phải chăng đó là dáng hiên ngang của
ông cha ta không chịu khuất phục bất cứ kẻ thù nào? “Một ao ước” của ông cha ta,
phải chăng là một ao ước về cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc? “Một lối sống”
phải chăng là lối sống cần cù, giản dị, thật thà và thủy chung, tình nghĩa?
*Sơ kết: Đoạn thơ có cấu trúc quy nạp, đi từ liệt kê các hiện tượng cụ thể, đến khái
quát manh tính triết lí sâu sắc. Dường như nhà thơ không thể kể ra hết những danh
lam thắng cảnh, đồng thời cũng là nét đẹp văn hóa của dân tộc nên đã khẳng định:
Trên khơng gian địa lí đất nước, mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa, được làm ra
bởi sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn con người Việt Nam.
b.Nhân dân đã làm nên tiến trình lịch sử bốn ngàn năm của đất nước ( Câu 55 –
câu 72):


“ Em em ơi
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước”
“ Em em ơi” cách xưng hô thân thương, trìu mến và giọng điệu tâm tình như lời
nhắc nhở thế hệ trẻ ngày nay “hãy nhìn rất xa, vào bốn nghìn năm Đất Nước”. Câu thơ
hàm nghĩa, thế hệ trẻ Việt Nam hãy nhìn vào quá khứ, lịch sử bằng cách lật những
trang sử vàng của đất nước với niềm say mê, tự hào.
“ Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng”
Khi Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở thanh niên hãy nhìn về quá khứ lịch sử bốn
ngàn năm, tác giả không nhắc đến những triều đại hùng mạnh như Lý, Trần, Lê…với

những người anh hùng nổi tiếng như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ…mà
chỉ muốn nhấn mạnh đến vai trị của nhân dân – những người bình thường trong xã
hội, bằng câu so sánh “con gái, con trai bằng tuổi chúng ta”. Bởi lẽ trong giai đoạn đất
nước hịa bình, họ quanh năm suốt tháng “năm tháng nào”, họ cũng cần mẫn, chịu
thương, chịu khó lao động trên mặt trận sản xuất, để làm ra của cải làm giàu cho bản
thân và đất nước, được thể hiện ở cụm động từ “cần cù làm lụng”.
“ Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con”
Cụm từ “khi có giặc” để chỉ đất nước trong thời chiến. Khi đất nước có ngoại
xâm, nhân dân tự giác phân công trách nhiệm gánh vác một cách hợp lí “người con
trai ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con”. Câu thơ thể hiện khi Tổ quốc lâm
nguy, người con trai phải gánh trách nhiệm bảo vệ đất nước, còn người phụ nữ đảm
trách vai trị hậu phương: ni con và sản xuất lương thực.
“ Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”
Câu khẳng định “ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” nhằm nhấn mạnh khi
Tổ quốc lâm nguy thì người phụ nữ cũng tham gia giết giặc một cách dũng cảm, kiên
cường, mưu trí. Điệp từ “nhiều”, “anh hùng” trong câu thơ “nhiều người trở thành anh
hùng, nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ” đã khẳng định những người phụ nữ bình
thường, quanh năm đầu tắt mặt tối lo ruộng đồng, nhưng khi Tổ quốc gọi họ đã dũng
cảm cầm vũ khí giết giặc và đã trở thành những người anh hùng của đất nước như bà
Trưng, bà Triệu, Lê Chân, Võ Thị Sáu…
“ Nhưng em biết khơng
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết


Giản dị và bình tâm”

Câu hỏi tu từ “nhưng em biết không” và cặp từ đối “sống – chết”, như một lời tự
bạch đầy tự hào về quan niệm sống chết của người Việt “chết vinh cịn hơn sống
nhục”. Vì vậy cuộc sống đối với họ thật giản dị, áo nâu chân đất “gái trai cũng một áo
nâu nhuộm bùn”, “canh rau muống cà dầm tương”, nhưng là cuộc sống do chính bàn
tay cần cù lao động của họ làm ra với tình yêu quê hương đất nước. Khi Tổ quốc lâm
nguy, họ không chấp nhận cuộc sống nô lệ, nên họ tình nguyện cầm vũ khí đánh giặc,
nếu phải hi sinh họ cũng xem đó là chuyện bình thường “bình tâm”.
“Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Cấu trúc câu phủ định mà ý khẳng định “ Không ai nhớ mặt đặt tên, nhưng họ đã
làm ra Đất Nước”, cho thấy tác giả đề cao sự hi sinh thầm lặng của nhân dân, họ là
những chiến sĩ bình dị, vơ danh trong suốt bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Họ
tuy không để lại tên tuổi, nhưng chính họ là những người làm ra bốn ngàn năm lịch sử
của đất nước.
“ Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dân”
Điệp từ “họ” kết hợp với phép liệt kê, hình thức lặp cấu trúc cùng các động từ
“giữ, chuyền, truyền, gánh, đắp đập, be bờ”, nhằm nhấn mạnh vai trò của nhân dân.
Trong quá trình sinh sống, các thế hệ bằng sự cần cù, lịng u nước đã tạo ra, gìn giữ
và truyền lại cho thế hệ sau những giá trị vật chất (hạt lúa, cách tạo lửa, giữ lửa bằng
than, con cúi, đắp đập, be bờ…), cùng các giá trị tinh thần (ngôn ngữ, tên xã, tên
làng…). Những điều ấy, đã góp phần bảo tồn văn hóa dân tộc và để lại cho thế hệ sau
truyền thống chống giặc ngoại xâm, nội thù để bảo toàn bờ cõi, được thể hiện qua
động từ “vùng lên”, trong lối điệp cấu trúc “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm, có nội

thù thì vùng lên đánh bại”, để cuối cùng nhà thơ đi đến sự khẳng định đầy tự hào “để
Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”.
*Sơ kết: Tác giả đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, vừa cụ thể, gần
gũi với đời sống, vừa có ý nghĩa khái quát, giàu sức suy tư. Bằng giọng thơ trữ tình –
chính luận sâu lắng, thiết tha. Đoạn thơ là bức tượng đài kì vĩ khẳng định, ca ngợi vai
trị chủ thể của nhân dân trong cơng cuộc dựng nước và giữ nước. Từ đó góp phần làm
nỗi bật tư tưởng chủ đạo của đoạn trích: Đất nước là của nhân dân.
c.Nhân dân là người làm ra kho tàng văn học dân gian ( Câu 80 – câu 89):
“ Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”


Câu thơ gồm hai vế song song “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao
thần thoại”, nhằm đưa người đọc về với cội nguồn văn hóa dân gian.
“ Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà khơng sợ dài lâu
Ơi những dịng sơng bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sơng xi”
Cả một kho tàng văn hóa dân gian, nhưng tác giả chỉ chọn ba câu, nhằm thể hiện ba
phương diện quan trọng nhất trong truyền thống của người Việt Nam: Người Việt nam
say đắm trong tình yêu được thể hiện ở câu thơ: “ Yêu em từ thuở trong nôi”. Câu thơ
này gợi nhớ đến bài ca dao:
“Yêu em từ thuở trong nơi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”
Người Việt Nam quý trọng tình nghĩa, xem nhẹ vật chất được thể hiện ở câu thơ:
“ Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Câu thơ này gợi nhớ đến bài ca dao:
“ Cầm vàng mà lội qua sông

Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”
Người Việt Nam quyết liệt trong căm thù và chiến đấu được thể hiện ở câu thơ: “
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy, đi trả thù mà không sợ dài lâu”, được tác giả lấy ý
từ bài ca dao:
“ Thù ấy ắt hẳn đợi lâu
Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh quàng”
*Sơ kết: Đoạn thơ có sự đan dệt của những câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, vơ vàn
phong tục tập quán một cách sáng tạo. Điều có ý nghĩa nhất là chất liệu này được nhà
thơ tái sinh bằng cảm xúc mảnh liệt của người nghệ sĩ am hiểu và vô cùng yêu quý,
trân trọng kho tang văn hóa, văn học do chính nhân dân tạo nên. Tất cả cảm xúc được
thể hiện trong nguồn ánh sáng mới của tư tưởng: Quần chúng nhân dân làm nên lịch
sử, văn hóa của đất nước.
III.TỔNG KẾT:
Đoạn trích thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp
được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hóa…Đóng góp
riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” bằng hình
thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha. Các


chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn cho
đoạn trích.



×