Tải bản đầy đủ (.pdf) (204 trang)

Đổi mới và phát triển Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam: Phần 2 - TS. Nguyễn Thị Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1002.22 KB, 204 trang )

Chương 4:
Sự ra ĐỜI, PHÁT TrIểN BHYT ở VIỆT NaM
1. Cơng tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân những
năm đầu đổi mới
Tháng 12/1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra đường
lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. đại hội vi đã đánh giá, phân tích chỉ
rõ ngun nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội từ nhiều
năm trước, đề ra các định hướng lớn đưa đất nước vượt khó khăn,
thách thức.
để ổn định tình hình và đưa cách mạng nước ta tiếp tục đi
lên. nghị quyết đại hội xác định “đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh
vực”, “trọng tâm trước mắt là đổi mới chính sách kinh tế”, giữ
vững ổn định chính trị là tiền đề để bảo đảm thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới. Phải đổi mới tư duy, “trước hết là tư duy kinh
tế”, “từ đổi mới tư duy mà có chủ trương chính sách mới”, đồng
thời “đổi mới về tổ chức, về cán bộ” để thực hiện tốt những nhiệm
vụ đã đề ra.
Tình hình kinh tế sau vài năm đầu đổi mới gặp vô vàn khó
khăn. Từ giữa năm 1988 trở đi, các chủ trương, chính sách đổi mới
bắt đầu mang lại kết quả rõ rệt, tình hình kinh tế và đời sống nhân
145


ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM

dân dần dần được cải thiện, lòng tin của nhân dân vào công cuộc
đổi mới tăng lên.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, đã xuất hiện nhiều
hiện tượng tiêu cực. Lối làm ăn chạy theo lợi nhuận bất kể giá nào,
dẫn đến vi phạm pháp luật, lừa đảo, hối lộ, làm hàng giả, buôn lậu,


trốn thuế, xâm phạm nghiêm trọng tài sản xã hội chủ nghĩa và công
dân... Xu hướng chạy theo bn bán nhiều hơn sản xuất, thương
mại hóa tràn lan, xâm nhập vào cả các cơ quan văn hóa, y tế, giáo
dục...; kỷ luật, kỷ cương và pháp luật khơng nghiêm, bất cơng xã
hội tăng lên.
việc thực hiện chính sách xã hội tuy có một số tiến bộ nhưng
chưa được quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó và cịn nhiều
thiếu sót. đời sống của một bộ phận nhân dân so với 05 năm trước
ổn định hơn, có được cải thiện nhưng nhìn chung cịn khó khăn,
vẫn có khoảng trên dưới 10% hộ nơng dân cịn thường xun khó
khăn, túng thiếu. Ở những vùng hay bị thiên tai, một số vùng núi
và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, ở những nơi có nhiều gia
đình thuộc diện chính sách, các gia đình neo đơn thì tỷ lệ trên cịn
cao hơn. một bộ phận khơng nhỏ nhân dân ta cịn sống dưới nhu
cầu tối thiểu. khó khăn gay gắt và mức sống bị giảm sút nhiều
nhất là ở những đối tượng mà nguồn thu nhập chính dựa vào tiền
lương và trợ cấp xã hội.
Trong tình hình đổi mới, chống quan liêu bao cấp, đẩy mạnh
cơ chế thị trường, ngành y tế nói chung và bệnh viện nói riêng gặp
nhiều khó khăn, bất cập do cơ chế cũ cần xóa bỏ và cơ chế mới
chưa hình thành, các cơ sở khám, chữa bệnh (kCB) lâm vào tình
trạng khó khăn trầm trọng về kinh phí duy trì hoạt động, khơng có
146


Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam

điều kiện để củng cố và phát triển. Tâm lý người bệnh cũng dần
thay đổi và trở nên thực dụng hơn, địi hỏi chăm sóc y tế thiết thực,
nhanh chóng và có hiệu quả, để có nhiều thời gian đầu tư cho hoạt

động kinh tế. Cơng tác chăm sóc sức khỏe ban đầu có một số tiến
bộ nhưng cịn nhiều vấn đề phải giải quyết. đa số các bệnh viện
từ Trung ương đến tỉnh, huyện xuống cấp nhiều. Bệnh sốt rét phát
triển ở một số huyện, xã miền núi. kinh phí của nhà nước khơng
đủ cho nhu cầu của y tế, nhưng chưa có những hình thức và biện
pháp thích hợp để giải quyết. vệ sinh môi trường như cung cấp
nước sạch, giải quyết chất thải công nghiệp, bảo vệ môi trường
sống là những vấn đề tồn tại lớn.
Trong khi đó, chi phí khám, chữa bệnh ngày một tăng do áp
dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật y tế, các trang thiết bị máy
móc hiện đại đắt tiền sử dụng trong chẩn đoán, điều trị. việc sử
dụng các biệt dược, thuốc men đắt tiền, đa dạng trong điều trị cũng
là một trong các nhân tố làm tăng nhanh chi phí khám, chữa bệnh.
Các cơ sở khám, chữa bệnh ở nước ta đứng trước những khó khăn
rất lớn do nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng, trong khi đó
khả năng tài chính nhà nước cấp cho ngành y tế tăng khơng kịp
với tình hình trượt giá và lạm phát. ngân sách nhà nước dành cho
y tế chỉ đủ để trả lươg duy trì và vận hành bộ máy hoạt động của
các cơ sở y tế. Các cơ sở y tế tiếp tục xuống cấp, đời sống cán bộ,
nhân viên y tế gặp nhiều khó khăn.
do thiếu kinh phí cho hoạt động y tế, nhà nước phải giảm
phát triển sự nghiệp y tế, giường bệnh không tăng, nhu cầu kCB
nhiều mặt bị cắt giảm, kìm hãm sự phát triển y học: các dịch vụ y
tế giảm nhanh dẫn đến tình trạng bệnh nhân tự chi trả dịch vụ
147


ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM

kCB, nảy sinh nhiều tiêu cực trong y tế và nhân dân; lãng phí lao

động xã hội; y tế ở nơng thơn chưa được chăm sóc tốt; các tuyến
y tế bị phá vỡ, người bệnh “tràn” lên tuyến trên, làm cho y tế các
tuyến hoạt động kém hiệu quả, luôn thụ động đối phó với yêu cầu
trước mắt. Cũng một phần do thiếu kinh phí nên y học chuyên sâu
phát triển chậm, chưa phục vụ đắc lực cho nhu cầu phòng bệnh,
chữa bệnh cho nhân dân. Tình hình sức khỏe, bệnh tật của nhân
dân có nhiều vấn đề đáng lo ngại. những tiêu cực trong y tế làm
xói mịn lương tâm và trách nhiệm của một bộ phận cán bộ y tế.
Có khơng ít nơi người bệnh bị phân biệt đối xử, tạo ra những bất
công xã hội, làm cho người dân ngày càng giảm lòng tin đối với
cơ sở kCB.
Theo thống kê 05 năm 1986-1990, nhu cầu khám, chữa bệnh
của một cán bộ cơng nhân viên tại chức bình qn là 2,5 lần/năm,
của người nghỉ hưu, mất sức là 16 lần/năm, chí phí kCB bình qn
cho một người/năm lúc đó khoảng 50.000đ. Trong khi đó ngân
sách nhà nước cấp cho ngành y tế hàng năm có hạn. Từ 1991, mặc
dù đầu tư của ngân sách nhà nước tăng nhanh (từ 130 tỷ đồng năm
1991 đến 650 tỷ đồng năm 1992) nhưng so với nhu cầu chi phí
thực tế của ngành y tế cũng mới chỉ đáp ứng được từ 50 - 54%,
do vậy ngân sách y tế bị thiếu hụt rất lớn.
Thực hiện chủ trương đổi mới trên lĩnh vực y tế với phương
châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” theo tinh thần nghị
quyết đại hội vi của đảng. để bổ sung nguồn kinh phí và giảm
bớt sức ép căng thẳng của các cơ sở khám, chữa bệnh, ngày
24/04/1989, hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành
Quyết định số 45/HĐBT cho phép các cơ sở khám, chữa bệnh thu
148


Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam


một phần viện phí. ngày 15/06/1989, liên Bộ y tế - Tài chính ban
hành Thơng tư số 14 hướng dẫn thực hiện Quyết định số
45/hđBT nêu rõ: “Ở những nơi có điều kiện, có thể áp dụng thử
chế độ bảo hiểm sức khỏe hoặc ký hợp đồng khám, chữa bệnh với
các tổ chức y tế trong quốc doanh và ngoài quốc doanh, lập các
quỹ bảo trợ y tế địa phương hoặc y tế cơ sở giúp đỡ người bệnh
khơng có khả năng trả một phần viện phí”. đó là những dấu hiệu
quan trọng ban đầu của quá trình đổi mới, tìm tịi một giải pháp
phù hợp địi hỏi của thực tiễn cơng tác chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe nhân dân.
do nhiều năm được nhà nước bao cấp, nên ngành y tế lúng
túng trước cơ chế thu một phần viện phí. Biểu hiện rõ nhất là cơng
suất giường bệnh các tuyến đều thấp. vào thời điểm này, có địa
phương cơng suất giường bệnh tuyến huyện chỉ đạt 30%, ở tuyến
thành phố đạt 50 - 60% kế hoạch năm.
đánh giá về tình hình cơng tác bảo vệ sức khỏe những năm
đầu đổi mới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII ngày 14/01/1993 đã chỉ rõ về những
vấn đề cấp bách trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân
dân: “... Những năm gần đây, Ngành Y tế có nhiều biểu hiện xuống
cấp, có mặt khá nghiêm trọng. Cơng tác vệ sinh phịng bệnh kém,
chưa quan tâm đầy đủ các hoạt động mang tính quần chúng. Y tế
cơ sở suy yếu. Nhiều bệnh viện xuống cấp cả về cơ sở vật chất, tổ
chức quản lý, điều trị và tinh thần phục vụ.
Một số chủ trương như thu viện phí, cho các cơ sở y tế nhà
nước KCB ngồi giờ... tuy có giải quyết được một phần khó khăn,
nhưng lại làm nảy sinh những vấn đề mới, những tiêu cực, việc
149



ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM

thu viện phí cịn tùy tiện, gây nhiều khó khăn, phiền hà cho nhân
dân, nhất là cho những bệnh nhân nghèo. Các cơ sở y tế tư nhân
phát triển nhanh, giúp cho nhân dân KCB thuận lợi hơn, nhưng
quản lý không chặt chẽ nên cũng gây ra những ảnh hưởng xấu
đến việc chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Những biểu hiện tiêu cực trên đây đã làm tổn hại đến đạo
lý, uy tín của Ngành Y tế và đạo đức của người thầy thuốc dưới
chế độ ta, gây bất bình trong nhân dân”.
những nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém trong
công tác bảo vệ sức khỏe nhân dân được Ban Chấp hành Trung
ương nêu ra là: “Ngành Y tế chậm đổi mới. Cơng tác quản lý
cịn nhiều yếu kém, ít quan tâm đến các giải pháp xã hội như
giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe, tuyên truyền vệ sinh phòng
bệnh. Chưa động viên tốt các tiềm năng của cộng đồng, của nền
y học cổ truyền dân tộc; chưa có các biện pháp hữu hiệu để
ngăn ngừa các biểu hiện tiêu cực. Các cấp bộ đảng và chính
quyền cịn xem nhẹ việc lãnh đạo, chỉ đạo cơng tác chăm sóc
sức khỏe. Cơ cấu các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội chưa
chú trọng tổ chức và vận động nhân dân tham gia các phong
trào vệ sinh phòng bệnh, rèn luyện thân thể, bảo vệ sức khỏe.
Đầu tư của Nhà nước còn hạn chế. Khơng kịp thời có chính sách
hỗ trợ cho y tế cơ sở ở nông thôn khi thực hiện cơ chế khốn
mới trong nơng nghiệp. Tâm lý ỷ lại, hậu quả của nhiều năm
thực hiện các chính sách bao cấp còn khá phổ biến. Kinh tế phát
triển chậm, dân số tăng nhanh, hậu quả chiến tranh và thiên tai
nặng nề, là những khó khăn đối với sự nghiệp chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe nhân dân”.

150


Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam

Thực hiện Quyết định 45 của hội đồng Bộ trưởng, các
bệnh viện khắc phục được một phần nào khó khăn. nhưng thực
tế giải pháp thu một phần viện phí chỉ đáp ứng được một phần
nhu cầu khám, chữa bệnh của một số đối tượng, chủ yếu là
những người có thu nhập khá. Cịn đại bộ phận những người có
thu nhập thấp không được bao cấp như trước, khi ốm đau khơng
có điều kiện tài chính để được khám, chữa bệnh, đặc biệt đối
với những trường hợp bệnh nặng chi phí cao. người có cơng với
cách mạng, người hưu trí mất sức, người thu nhập thấp, người
nghèo là các đối tượng gặp nhiều khó khăn nếu chẳng may ốm
đau, bệnh tật.
Làm gì và làm như thế nào để thực hiện chủ trương nhà
nước và nhân dân cùng làm trong sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ
nhân dân là câu hỏi lớn đặt ra trong thời điểm lúc đó. yêu cầu
của thực tiễn đã tới lúc đòi hỏi phải đổi mới tư duy, nhanh chóng
cần có cơ chế chính sách mới cho tất cả các bệnh viện trong cả
nước. Qua kinh nghiệm của thế giới, rất ít nước để cho một
người phải gánh chịu mọi chi phí về khám, chữa bệnh, nhất là
những lúc ốm đau (trừ những người có khả năng muốn chữa
bệnh theo yêu cầu) mà thường là nhiều người góp tiền để giúp
01 người qua hình thức BhyT, coi đó là nghĩa vụ của mọi người
với đồng loại và rồi đến lúc mình ốm lại được mọi người giúp
đỡ. Cùng một nguyên lý như vậy, không một nhà nước nào lại
bao cấp tồn bộ chi phí khám, chữa bệnh, làm như vậy sẽ dẫn
đến trì trệ, xuống cấp, gây ra tình trạng ỷ lại. Các nước có nền

kinh tế phát triển, phần nhà nước đầu tư cho y tế không quá
60%, còn 40% là qua BhyT.
151


ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM

Xuất phát từ ý nghĩ như vậy, một số cấp ủy, chính quyền và
y tế địa phương đã mạnh dạn tìm cách tháo gỡ khó khăn để duy trì
hoạt động của bệnh viện địa phương bằng cách vận động, quyên
góp trong nhân dân dưới nhiều hình thức để có thêm nguồn tài
chính cho y tế phục vụ cho nhu cầu chữa bệnh cho dân và hướng
tới tổ chức BhyT. đặc biệt là ở các nơi dân cư còn nghèo đã xuất
hiện giải pháp này sớm nhất như huyện sông Thao (vĩnh Phú),
krôngBông (đắc Lắc), Cầu ngang (Trà vinh)...
năm 1987, nhằm quán triệt nghị quyết đại hội đảng lần thứ
vi, nghiên cứu đường lối đổi mới của đảng, vụ y tế - Ban khoa
giáo Trung ương đã nghiên cứu từ thực tiễn phong trào “Nhà nước
và nhân dân cùng làm” và giới thiệu đề án thí điểm bảo hiểm sức
khỏe do Bs.Trần khắc Lộng, Phó vụ trưởng vụ y tế chủ trì. Tạp
chí Thông tin khoa giáo số tháng 4/1987 của Ban khoa giáo Trung
ương đã công bố bài viết của Bs.Trần khắc Lộng nêu vấn đề phải
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong y tế, thực hiện phương châm
nhà nước và nhân dân cùng làm, huy động tiềm năng của xã hội,
tiến tới bảo hiểm sức khỏe nhân dân… được lãnh đạo Ban khoa
giáo cho phép bàn với Bộ y tế xin phép hội đồng bộ trưởng triển
khai tổ chức thí điểm ở một số vùng miền để tổng kết, rút kinh
nghiệm tiến tới tổ chức chính sách BhyT ở việt nam.
Theo đề nghị của Bộ Trưởng Bộ y tế, ngày 26/10/1990, hội
đồng Bộ trưởng ra Thông tri số 3504/KG chỉ đạo uBnd các tỉnh,

thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương, Bộ y tế tổ chức thí
điểm BhyT và yêu cầu chỉ đạo chặt chẽ, từ đó tổng kết đúc rút
kinh nghiệm để tổ chức BhyT phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện
nước ta.
152


Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam

2. Vĩnh Phú xây dựng Quỹ khám, chữa bệnh nhân đạo
tự nguyện ở Bệnh viện huyện Sông Thao
Bệnh viện huyện sông Thao vĩnh Phú là huyện khởi xướng
thành lập Quỹ bảo hiểm khám chữa bệnh nhân đạo có sự chỉ đạo của
giám đốc sở y tế vĩnh Phú. Công việc đã triển khai và đi vào hoạt
động được một thời gian thì chủ trương thí điểm BhyT được cơng
bố. Tháng 05/1989, theo đề nghị của Bộ y tế, sở y tế vĩnh Phú (sau
này chia tách thành Phú Thọ và vĩnh Phúc) và Thường vụ huyện ủy
sông Thao đã bàn bạc và thống nhất chỉ đạo tổ chức thí điểm Bảo
hiểm y tế theo đề án hướng dẫn chung .. Là cơng việc hồn tồn mới
nên huyện uỷ sơng Thao cùng với lãnh đạo sở y tế dưới sự chỉ đạo
của Tỉnh ủy và uBnd tỉnh đã nghiên cứu tham khảo tài liệu về
BhyT, các định hướng của Trung ương, cùng với hoàn cảnh thực
tiễn của địa phương để xây dựng dự án và quy chế hoạt động.
sông Thao là một huyện vùng rừng núi, chiêm trũng, cách
biệt với tỉnh bởi con sơng hồng, đi lại hết sức khó khăn. khi đó,
huyện có 41 xã, dân số 27 nghìn người. Trong đó có 17 xã có đồng
bào cơng giáo. đời sống nơng dân gặp rất nhiều khó khăn. Thu
nhập bình qn đầu người khơng nổi 200 kg thóc/năm. kinh phí
định mức theo giường bệnh thấp, trả lương cho CBCnv y tế đã
khó khăn, nhưng tiền phụ cấp, tiền trực cho cán bộ, nhân viên cịn

khó khăn hơn. Làm thế nào để nâng được định mức giường bệnh
lên và làm thế nào để chăm sóc tốt hơn sức khỏe cho người bệnh,
đặc biệt với những người nghèo là những suy nghĩ trăn trở của
Ban lãnh đạo Trung tâm y tế sông Thao.
ngày 22/08/1989, huyện ủy sông Thao ban hành Nghị
quyết số 56/NQ-HU thành lập Ban vận động xây dựng Quỹ bảo
153


ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM

hiểm khám, chữa bệnh nhân đạo, do đồng chí nguyễn văn Lịch,
Phó Bí thư Thường trực huyện ủy làm Trưởng ban, đồng chí Phó
Chủ tịch phụ trách khối vhXh làm Phó Trưởng ban và bác sỹ Tô
hạ, giám đốc TTyT huyện sông Thao làm Phó Trưởng ban
Thường trực, cùng với một số thành viên đại diện các ngành hữu
quan như cơng đồn, nơng dân, phụ nữ, thanh niên, thơng tin văn
hóa, tài chính...
Bước đầu huyện sơng Thao làm điểm tại 03 xã Tuy Lộc,
Phương Xá, sai ngạ. đó là 03 xã đơng dân, điều kiện kinh tế có
khá hơn, sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng, chính quyền xã
chặt chẽ và thống nhất cao. Cách vận động là phân tích cho nơng
dân rõ kinh phí của nhà nước dùng cho y tế cịn nhiều khó khăn.
Cho nên phải huy động thêm sức dân để chăm lo sức khỏe cho
mình và cho cộng đồng. mức đóng góp tỷ lệ thuận với mức được
hưởng, quy định cụ thể cho các mức khác nhau. Tất cả những
nội dung đó đều được đưa xuống tận thơn, xóm để người dân họp
thảo luận, đề đạt ý kiến, nguyện vọng, thống nhất thực hiện. sau
một tuần tuyên truyền vận động tại 03 xã, Ban Chỉ đạo mở hội
nghị rút kinh nghiệm và triển khai ra 11 xã khác cùng với tất cả

các cơ quan đóng trên địa bàn huyện. Từ tháng 08/1989 đến
tháng 11/1990, huyện sông Thao phát hành loại phiếu cho cá
nhân với mức mua là 1.200 đồng và 600 đồng. mức bảo hiểm tối
đa là 20.000 đồng cho phiếu 1.200 đồng và 10.000 đồng cho
phiếu 600 đồng. Phiếu cá nhân chỉ dùng cho chính người có
phiếu. sau khi nghiên cứu xem xét nhu cầu của bà con nông dân,
từ tháng 12/1990, Ban Chỉ đạo Bảo hiểm khám, chữa bệnh sông
Thao phát hành loại phiếu theo hộ gia đình với 03 loại: loại hộ
154


Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam

độc thân mức mua 2.000 đồng, được hưởng bảo hiểm gấp 10 lần,
loại 2-4 khẩu mức mua 4.000 đồng, được hưởng bảo hiểm gấp
10 lần, loại từ 05 khẩu trở lên mức mua 5.000 đồng, được hưởng
bảo hiểm gấp 12 lần. Quyền lợi và trách nhiệm thực hiện là 12
tháng kể từ ngày mua bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm đảm bảo tiền
thuốc, vật tư dạng thuốc cho bệnh nhân điều trị nội trú. kết quả
sau 03 đợt thực hiện từ tháng 08/1989 đến 31/12/1991, tỷ lệ
người mua bảo hiểm cá nhân bằng 4,59% dân số trong huyện và
mua theo hộ gia đình bằng 7,4% dân số. Tổng thu cả 03 đợt là
16.960.660 đồng, tổng chi là 8.580.432 đồng, còn dư 8.380.220
đồng (bằng 49,9%).
Qua thực tế làm điểm ở 03 xã và nhân diện rộng trên quy
mơ tồn huyện, cán bộ và nhân dân nhận thức được bảo hiểm
khám, chữa bệnh là một chủ trương đúng, cần thiết, phù hợp tình
hình thực tiễn. nhân dân thấy rõ lợi ích của bảo hiểm là mọi
người chủ động lo kinh phí cho mình đi bệnh viện từ khi còn
khỏe. so sánh 03 nguồn: nguồn ngân sách của nhà nước, nguồn

viện phí và nguồn thu từ bảo hiểm khám, chữa bệnh lúc đó, thì
nguồn kinh phí của bảo hiểm chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 46%,
nguồn thu viện phí là 16,38%, nguồn định mức nhà nước cấp là
37,2%. Bảo hiểm khám, chữa bệnh mang lại giá trị cao về mặt
kinh tế, ý nghĩa nhân đạo giúp đỡ lẫn nhau của mọi người trong
cộng đồng, đóng góp nguồn tài chính quan trọng để mua thuốc,
mua vật tư y tế phục vụ bệnh nhân.
Tiếp theo sông Thao, huyện vĩnh Lạc, vĩnh Phú cũng tiến
hành triển khai thí điểm bảo hiểm khám, chữa bệnh ở 04 xã (vũ
dy, Tứ Trung, ngũ kiên, Bình dương). Ngày 09/11/1990,
155


ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM

UBND tỉnh Vĩnh Phú ra Quyết định số 752/QĐ-UB thành lập
Ban Chỉ đạo xây dựng Quỹ BhyT tỉnh vĩnh Phú. Ông nguyễn
kim Trân, Phó Chủ tịch uBnd tỉnh làm Trưởng ban, Bs.
nguyễn kim Chất, giám đốc sở y tế, Phó ban Thường trực, các
thành viên khác thuộc hội nơng dân, Liên đồn Lao động, hội
Phụ nữ tỉnh. Ban chỉ đạo có nhiệm vụ chỉ đạo thí điểm có kết
quả ở huyện sơng Thao và huyện vĩnh Lạc về xây dựng Quỹ
BhyT; thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc triển khai thực hiện,
sơ kết rút kinh nghiệm ở điểm chỉ đạo, báo cáo uBnd tỉnh và
Bộ y tế trước khi mở rộng ở các địa phương trong tỉnh. Tình hình
thực hiện thí điểm ở sơng Thao đã cho thấy nhờ có nguồn quỹ
đóng góp của nhân dân mà nhiều người mắc phải những căn bệnh
nặng đã được chữa trị kịp thời. nguồn Quỹ khám, chữa bệnh
BhyT cũng đã đóng góp đáng kể vào việc nâng cấp các cơ sở
khám, chữa bệnh, tinh thần thái độ phục vụ người bệnh tốt hơn,

được nhân dân tin tưởng. Công suất hoạt động của Trung tâm y
tế tăng đáng kể.
năm 1991, thực hiện Nghị quyết 04 của Hội đồng Nhân
dân tỉnh Vĩnh Phú, mơ hình “Quỹ Bảo hiểm y tế” đã được triển
khai ở 78 xã và các cơ sở quan trọng trong toàn tỉnh, qua một thời
gian thực hiện đã thu được những kết quả nhất định. Phó Chủ tịch
hội đồng Bộ trưởng nguyễn khánh đã về thăm, kiểm tra đánh giá
tình hình. Bộ trưởng Bộ y tế trong một báo cáo trước Chính phủ
chuẩn bị cho việc hoạch định chính sách BhyT năm 1991 đã nhận
định: “việc thí điểm mơ hình BhyT ở vĩnh Phú và ở các địa
phương khác đã cho kết quả rất tốt, đáng khích lệ, cho phép mở ra
một chính sách mới trong việc khám, chữa bệnh của toàn dân”.
156


Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam

3. Thí điểm xây dựng Quỹ Bảo hiểm sức khỏe ở Hải
Phòng
Trong cuộc họp giao ban của Ban giám đốc sở y tế hải
Phòng giữa năm 1989, bài báo “Hiểu và thực hiện đúng việc thu
một phần viện phí để tiến tới bảo hiểm khám chữa bệnh” của
Bộ trưởng Bộ y tế Phạm song (đăng trên báo nhân dân số ra ngày
01/06/1989) được đưa ra bàn luận sôi nổi. Bài báo nêu tình hình
khó khăn về kinh phí, sự cần thiết thu viện phí tại các bệnh viện
và trong tương lai vấn đề BhyT cần được đặt ra. Ban giám đốc
sở y tế hải Phòng đã trao đổi và đi đến thống nhất đăng ký với
Bộ y tế nghiên cứu triển khai vấn đề này.
nhận thức của lãnh đạo sở y tế hải Phịng khi đó là cần
sớm cụ thể hóa chủ trương “nhà nước và nhân dân cùng làm”

theo tinh thần nghị quyết đại hội vi của đảng. Theo đó, cần
phải hiểu chăm lo sức khỏe cho nhân dân là trách nhiệm của các
cấp chính quyền, đồng thời cũng là nhiệm vụ của mỗi người.
Làm tốt Bảo hiểm sức khỏe sẽ tăng cường được mối quan hệ
cộng đồng, tương thân tương ái, đẩy mạnh nền y tế nhân dân.
Làm tốt chủ trương này sẽ có Quỹ Bảo hiểm sức khỏe thường
trực, giải quyết được khó khăn cho người nghèo khi đau ốm,
cũng như những khó khăn của bệnh viện về thu viện phí. Ban
Lãnh đạo sở y tế hải Phòng cũng lường đến trở ngại lớn nhất là
sự hiểu biết về cơng tác bảo hiểm cịn hạn chế, nên việc đưa ra
chủ trương này chưa chắc đã được sự hưởng ứng rộng rãi của
các ngành, các cấp, và mọi tầng lớp nhân dân. Câu hỏi được đặt
ra là nếu chờ thuận lợi mới làm thì biết đến bao giờ? vấn đề mấu
chốt là có cán bộ nhiệt tình, hiểu biết về quản lý kinh tế và thấy
157


ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM

được lợi ích của vấn đề, có quyết tâm cao, với tinh thần vừa làm,
vừa tìm hiểu, khó khăn đến đâu giải quyết đến đó.
đồng chí Bùi Thành Chi, Trưởng phịng hành chính - Tổng
hợp của sở y tế hải Phịng lúc đó được Ban giám đốc giao nhiệm
vụ khẩn trương nghiên cứu ,tiếp thu đề án nàyđể triển khai thí điểm
ở hải Phịng. hội nghị cử thêm đồng chí Lê đình Cúc, Phó giám
đốc sở y tế và một số cán bộ khác cùng tham gia.
Trong phương án: “những công tác y tế cấp bách” trình với
Thường vụ Thành ủy, Bảo hiểm sức khỏe cũng được đặt ra và được
Ban Thường vụ Thành ủy, thường trực uBnd phê duyệt, được
đưa vào nghị quyết của Thành ủy, hđnd thành phố.

ngày 29/08/1989, Ban Thường vụ Thành ủy họp dưới sự chủ
trì của Bí thư Thành ủy Lê danh Xương, bàn toàn diện về công
tác y tế và cho phép triển khai Bảo hiểm sức khỏe ở hải Phòng.
ngày 23/09/1989, Quyền Chủ tịch uBnd thành phố Cao văn, ký
Quyết định số 976/TCCQ thành lập Trung tâm Bảo hiểm sức khỏe
hải Phòng, làm nhiệm vụ quản lý và chỉ đạo phát triển Bảo hiểm
sức khỏe trên địa bàn tồn thành phố. đồng chí Bùi Thành Chi
được thành phố bổ nhiệm là giám đốc Trung tâm.
ngày 27/09/1989, Trung tâm Bảo hiểm sức khỏe thành phố
triển khai cơng tác với sự có mặt của giáo sư Phạm song, Bộ
trưởng Bộ y tế; Bs Trần khắc Lộng Phó vụ trưởng vụ y tế Ban
khoa giáo trung ương; Quyền Chủ tịch uBnd thành phố Cao
văn; Phó Chủ tịch uBnd thành phố nguyễn Thị Bảy; đại diện
các cơ quan, ban ngành ở Trung ương và địa phương; các đồng
chí lãnh đạo các quận huyện; Ban giám đốc sở y tế và các đơn vị
trong tồn ngành y tế hải Phịng.
158


Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam

Trung tâm Bảo hiểm sức khỏe hải Phòng bắt tay vào triển
khai làm thí điểm. khi đó có ý kiến nên triển khai đại trà, song
ngành y tế đã thận trọng chọn phương án thực hiện ở phạm vi một
huyện để rút kinh nghiệm. huyện Thủy nguyên được chọn làm
thí điểm. để phát huy sự tập trung chỉ đạo tối đa và sự thống nhất
cao trong lãnh đạo huyện, nhân một cuộc họp của Ban Thường vụ
huyện ủy, các cán bộ bảo hiểm đã “đột kích” xin hội nghị dành
cho một số thời gian để làm việc. sau khi trao đổi một số ý kiến
ngắn, Ban Thường vụ đã nhất trí thực hiện cơng tác Bảo hiểm sức

khỏe và u cầu sở y tế giúp đỡ.
Quỹ Bảo hiểm sức khỏe Thủy nguyên được uBnd huyện
quyết định thành lập ngày 28/12/1989, sau 03 tháng Trung tâm
Bảo hiểm sức khỏe hải Phòng ra đời, được chọn triển khai thí
điểm Bảo hiểm sức khỏe tự nguyện. huyện Thủy nguyên lúc
bấy giờ có 36 xã, thị trấn với 25 vạn dân, có 36 trạm y tế. Buổi
đầu thành lập còn bỡ ngỡ về phương pháp chỉ đạo, quản lý và
phát hành thẻ bảo hiểm. nhưng được uBnd huyện hỗ trợ cho
03 triệu đồng tiền mặt cùng với Bảo hiểm sức khỏe thành phố
cấp cho 02 vạn thẻ đã in nội dung sẵn và một xe Babetta, nhờ đó
chi nhánh đã có kinh phí và phương tiện xuống các xã vận động
nhân dân mua thẻ Bảo hiểm sức khỏe. Bệnh viện huyện Thủy
nguyên được mượn làm trụ sở của chi nhánh. Trong một tháng
làm điểm tại xã đông sơn, Quỹ Bảo hiểm sức khỏe Thủy
nguyên đã thực hiện các bước hoạt động: kết hợp với Ban Tuyên
giáo huyện ủy xây dựng chương trình tuyên truyền vận động,
phát trên loa đài của xã liên tục vào các giờ nghỉ trưa và tối của
nhân dân; họp với đảng bộ, các đoàn thể nhân dân, uBnd xã
159


ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM

về mục đích, ý nghĩa và quyền lợi của người có thẻ Bảo hiểm
sức khỏe; quy định mức mua mỗi thẻ cá nhân là 3.000 đồng, nếu
gia đình từ 02 người trở lên mua thì giảm dần cho 1/3 số tiền.
Thẻ cá nhân mỗi năm mua một lần liên tục đến năm thứ 04 nếu
khơng sử dụng kCB lần nào thì cấp miễn phí thẻ năm đó, gia
đình mua liên tục 02 năm thì đến năm thứ 03 được cấp thẻ miễn
phí; khám bệnh ở bệnh viện và trạm y tế xã đông sơn không mất

tiền khám nhưng thuốc chữa ngoại trú phải mua. nằm điều trị ở
trạm y tế được từ 05-07 ngày không mất tiền thuốc chữa bệnh và
giường nằm. Ở bệnh viện huyện thì chữa bệnh khơng mất tiền,
bệnh nhân chuyên khoa hoặc quá nặng chuyển sang thành phố
chữa bệnh, được Bảo hiểm sức khỏe thành phố thanh toán tồn
bộ viện phí. Tai nạn giao thơng, tự tử, chó dại cắn, dịch vụ thẩm
mỹ bản thân, bệnh nhân tự túc, Quỹ Bảo hiểm sức khỏe khơng
thanh tốn.
nói về nỗi khổ của người cán bộ Bảo hiểm sức khỏe khi đi
tuyên truyền vận động, Bs.vũ Quang điềm, nguyên giám đốc
Trung tâm y tế Thủy nguyên đã có lần kể lại đây là việc làm khó
khăn nhất, vất vả nhất, đơi lúc khổ nhục bởi những lời mỉa mai:
“có tiền tơi mời thầy thuốc về nhà chữa bệnh hoặc đi bệnh viện
tự trả viện phí, cần gì mảnh giấy của các người ...”, thậm chí họ
khơng thèm tiếp, khát nước họ khơng cho uống hoặc xua chó
trong nhà ra đuổi cắn. đội quân vận động là cả ban giám đốc,
cán bộ các khoa phòng của bệnh viện chia ra các mũi vào từng
đội sản xuất, từng nhà để vận động mua thẻ bảo hiểm sức khỏe.
Trời mưa to, gió lớn là lúc người dân khơng ra đồng, ở nhà, đồn
cán bộ vận động phải che mưa đi chân đất vào từng nhà, có người
160


Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam

bị ngã bẩn hết quần áo, có người bị chó cắn rách quần áo, chảy
máu phải về tiêm phòng dại. người nhận tấm thẻ bảo hiểm sức
khỏe đầu tiên của huyện Thủy nguyên là Chủ tịch đào Xuân
Thạo. Qua một tháng vất vả đội nắng, dầm mưa mới phát hành
được 30% số dân trong xã mua bảo hiểm sức khỏe. khi có thẻ

bảo hiểm sức khỏe mọi người đua nhau đi kCB tại trạm y tế xã,
và bệnh viện. Bệnh nhân vào nằm điều trị thì địi hỏi thuốc nhiều,
thuốc ngoại theo ý thích khơng theo phác đồ điều trị. nếu khơng
được thì nói xấu là “lừa đảo lấy tiền, cho ít thuốc đểu...”. đáng
buồn là có người có chức sắc, có học nhưng cũng nói năng thiếu
trách nhiệm. Thầy thuốc, y tá phải cực nhọc, chỉ còn biết nhẫn
nhục chịu đựng. kết thúc 01 tháng thí điểm, uBnd huyện đã tổ
chức sơ kết và mời đại diện 36 xã gồm Bí thư, Chủ tịch uBnd,
Trưởng trạm y tế xã, Chủ nhiệm hTX, các ban, ngành của huyện
nghe báo cáo kết quả đã làm ở huyện đông sơn, uBnd huyện
quyết định phát hành thẻ bảo hiểm sức khỏe trên cả 36 xã và các
cơ quan xí nghiệp đóng trên địa bàn huyện.
ngày 30/03/1990, đoàn đại biểu Quốc hội do gs.Tâm đan,
Phó Chủ nhiệm ủy ban y tế - Xã hội của Quốc hội làm Trưởng
đồn đến tìm hiểu về Bảo hiểm sức khỏe hải Phịng. đồn đã gặp
Chủ tịch, Phó Chủ tịch uBnd thành phố, hoan nghênh cách làm
của hải Phòng và mong muốn hải Phòng rút ra được nhiều kinh
nghiệm cho cả nước.
Từ kết quả ban đầu của Quỹ Bảo hiểm sức khỏe Thủy
nguyên, ngày 18/05/1990, Chủ tịch uBnd TP.hải Phòng đào an
ký Chỉ thị số 30/CT-vX của uBnd thành phố về việc phát triển
Bảo hiểm sức khỏe ra toàn thành phố. sau Chỉ thị của uBnd
161


ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM

thành phố lần lượt các quận nội thành, thị xã kiến an, đồ sơn và
các huyện an Lão, an hải, Tiên Lãng và hàng trăm cơ quan, xí
nghiệp, trường học tham gia.

ngày 09-10/11/1990, đồng chí nguyễn khánh, ủy viên
Trung ương đảng, Phó Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) kiểm tra tình hình thực hiện cơng tác Bảo hiểm sức khỏe của
TP. hải Phịng.
để có cơ sở thực tế cho việc quyết định chủ trương chính
sách Bảo hiểm sức khỏe trên phạm vi cả nước, đồng chí nguyễn
khánh trực tiếp tìm hiểu tình hình thực hiện Bảo hiểm sức khỏe ở
huyện Thủy nguyên, Bệnh viện hữu nghị việt Tiệp; nghe cán bộ
chính quyền và y tế các địa phương khác như an Lão, Lê Chân,
hồng Bàng, ngô Quyền báo cáo tình hình đã và đang thực hiện.
đồng chí nguyễn khánh hoan nghênh và biểu dương các
cấp, các ngành của TP.hải Phịng có quyết tâm cao, cố gắng triển
khai cơng việc mới và khó khăn này. Trong điều kiện cụ thể, công
tác Bảo hiểm sức khỏe là cần thiết, ưu việt nhưng thực hiện không
phải là dễ dàng. đây thực sự là một phương thức mới, có ảnh
hưởng sâu rộng đến chính sách kinh tế - xã hội của đất nước. vì
vậy, phải được nghiên cứu kỹ, đầy đủ và tồn diện nhất là trước
khi áp dụng trên phạm vi rộng ra cả nước.
đồng chí Phó Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng nhắc nhở các
cấp, ngành hải Phòng tiếp tục nghiên cứu triển khai công tác Bảo
hiểm sức khỏe rộng rãi trong toàn dân. đồng thời, cơ quan Bảo
hiểm sức khỏe các cấp cần chấn chỉnh lại công tác quản lý, sử
dụng Quỹ sao cho đúng mục đích, đạt yêu cầu, tránh khuynh
hướng kinh doanh. đồng chí nguyễn khánh chỉ đạo: hải Phòng
162


Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam

tiếp tục thí điểm triển khai cơng tác Bảo hiểm sức khỏe này trong

toàn dân và kịp thời rút kinh nghiệm báo cáo Bộ y tế, hội đồng
Bộ trưởng để sớm có những chủ trương chính sách phù hợp trên
phạm vi cả nước.
4. Mở rộng thí điểm BHYT tới các miền và một số ngành
Thí điểm BHYT tự nguyện ở Mỏ Cầy, Bến Tre
mỏ Cầy là một huyện lớn của tỉnh Bến Tre, diện tích tự
nhiên là 34.447 ha, dân số 175.725 người (12/1994). Trong kháng
chiến chống mỹ, mỏ Cầy là cái nôi của phong trào đồng khởi,
mặc dù chiến tranh qua đi, song hậu quả để lại cho nơi đây rất
nặng nề. sau tháng 04/1975, đời sống người dân rất nghèo, đa
số sống bằng nghề nông, đường sá giao thơng khó khăn, trình độ
dân trí ở nơng thơn cịn thấp. Thực hiện Quyết định số 45/hđBT
của hội đồng Bộ trưởng về việc thu một phần viện phí, trước
nhu cầu bức thiết trong cơng tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
nhân dân, Tỉnh ủy, uBnd tỉnh Bến Tre đã sớm quan tâm chỉ đạo
việc thành lập Quỹ BhyT tự nguyện trên địa bàn địa phương.
để thực hiện nhiệm vụ trên, hội nghị hđnd tỉnh khoá vi lần
iii ngày 17/08/1990 quyết định thí điểm thành lập Quỹ BhyT
tự nguyện huyện mỏ Cầy, với sự chỉ đạo của sở y tế Bến Tre,
do đồng chí Phạm Thanh Phong, giám đốc sở y tế làm Trưởng
ban chỉ đạo. đồng thời, hội đồng quản trị BhyT huyện được
thành lập do đồng chí Lê văn Tâm, Phó Chủ tịch uBnd huyện
làm Trưởng ban; đồng chí Lương văn Chiến, giám đốc Trung
tâm y tế huyện làm Phó Trưởng ban Thường trực cùng với 11
thành viên là đại diện các ban, ngành, đoàn thể huyện. Tổ chuyên
163


ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM


trách BhyT được thành lập với 03 đồng chí, thuộc biên chế của
Trung tâm y tế huyện.
Tháng 09/1990, đề án xây dựng Quỹ BhyT tự nguyện
huyện mỏ Cầy được thông qua hđnd huyện và công tác vận
động tuyên truyền về BhyT được tiến hành rộng khắp trên mọi
phương tiện thông tin đại chúng trong toàn huyện. đồng thời, sở
y tế kết hợp với hội đồng Quản trị BhyT huyện cử nhiều đoàn
cán bộ xuống tận hộ gia đình để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và
triển khai công tác tuyên truyền, vận động. Tài liệu tuyên truyền
hỏi - đáp về quyền lợi BhyT, phạm vi bảo hiểm, trách nhiệm
của các cơ sở điều trị với bệnh nhân BhyT được phổ biến tới
các tầng lớp nhân dân. Tháng 12/1990, BhyT tự nguyện ở mỏ
Cầy triển khai bán phiếu trên phạm vi toàn huyện theo đề án
được hđnd phê duyệt. đề án nêu rõ, đối tượng phát hành phiếu
BhyT tự nguyện bao gồm tất cả cán bộ cơng nhân viên và nhân
dân có hộ khẩu thường trú trong huyện. Phạm vi bảo hiểm chỉ
thực hiện đối với trường hợp điều trị nội trú; mức độ quyền lợi
bảo hiểm được hưởng theo giá trị 02 loại phiếu: phiếu 4.000 đồng
được bảo hiểm cao nhất là 100.000 đồng; phiếu 2.000 đồng được
bảo hiểm cao nhất là 50.000 đồng. không bảo hiểm những hành
vi vi phạm pháp luật gây thương tích, những trường hợp thuộc
phạm vi bảo hiểm tai nạn giao thông, tai nạn lao động, thẩm mỹ...
Thời gian sử dụng phiếu là 12 tháng và phiếu có giá trị sử dụng
sau khi mua 01 tháng.
Ngày 15/08/1992, Nghị định 299/HĐBT được ban hành,
ở Bến Tre thực hiện từ ngày 01/01/1993, BhyT tự nguyện mỏ
Cầy được sáp nhập vào chi nhánh BhyT huyện mỏ Cầy (diện
164



Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam

bắt buộc), đồng thời tiếp tục đảm nhiệm thí điểm BhyT tự
nguyện. đến đầu năm 1995, chi nhánh BhyT huyện mỏ Cầy
tạm ngừng thí điểm để chờ kế hoạch triển khai BhyT tự
nguyện của BhyT tỉnh. Qua 04 năm thực hiện BhyT tự
nguyện ở huyện mỏ Cầy (1991-1994), kết quả tham gia BhyT
hàng năm không quá 5% dân số trong tồn huyện; tỷ lệ thâm
hụt quỹ bình qn hàng năm là 10% tổng tiền thu được từ bán
phiếu bảo hiểm.
để giúp cho cơng việc thí điểm BhyT, Ban dự thảo Pháp
lệnh BhyT có sự tài trợ của tổ chúc sida Thuy điển. đã mời
chuyên gia về BhyT của tổ chức y tế thế giới sang trao đổi kinh
nghiệm và đã đến vĩnh Phú và Bến Tre khảo sát thực tế. Các
chuyên gia này hầu hết chưa hiểu nhiều về văn hoá, đới sống
của nhân dân việt nam, khi tổng kết chuyến thăm các chuyên
gia đều chưa tin tưởng việt nam có thể làm được BhyT trong
thời điểm đó.
Thí điểm BHYT tự nguyện ở Quảng Trị
Ở Quảng Trị, Trung tâm BhyT được thành lập ngày
27/11/1990 theo Quyết định số 1308/QĐ-UB của UBND tỉnh.
Trung tâm BhyT tỉnh là đơn vị sự nghiệp lấy thu bù chi, chịu sự
quản lý trực tiếp của sở y tế và sự chỉ đạo chuyên môn của Bộ
y tế. Trung tâm xây dựng quỹ qua phát hành phiếu BhyT, thanh
tốn viện phí cho các đối tượng tham gia khi đi khám, chữa bệnh
tại các cơ sở y tế trên địa bàn. Trung tâm BhyT là đơn vị có tư
cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng để giao dịch, có
nhiệm vụ chỉ đạo chun mơn, định hướng hoạt động, giúp
uBnd các huyện thành lập các trung tâm BhyT từ cấp huyện
165



ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM

đến cơ sở. Trung tâm BhyT được xây dựng và quản lý theo
nguyên tắc tập trung thống nhất: Trung tâm BhyT tuyến tỉnh
trực thuộc sở y tế; Trung tâm BhyT tuyến huyện thuộc Trung
tâm y tế huyện; Quỹ BhyT xã, phường do Trung tâm, Phòng y
tế huyện trực tiếp quản lý.
ngày 12/07/1990, hđnd tỉnh Quảng Trị ra Nghị quyết số
03a/NQ-HĐ về lập Quỹ BhyT thay viện phí. ngày 01/02/1991,
uBnd tỉnh Quảng Trị ra Quyết định số 170/Qđ-uB lập Quỹ
BhyT thay viện phí, thống nhất triển khai kế hoạch thí điểm
BhyT trên địa bàn toàn tỉnh Quảng Trị từ Quý ii năm 1991. người
tham gia BhyT được khám, chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở
khám, chữa bệnh của nhà nước. mỗi năm chỉ được khám và điều
trị 03 lần, mức chi tối đa một lần 150 ngàn đồng. mức đóng bảo
hiểm mỗi năm tương đương 10kg thóc một nhân khẩu. do hồn
cảnh khó khăn, trước mắt tạm thời thu 5.000 đồng (năm 1991).
suốt gần 02 năm thí điểm số phiếu bán ra được 3% dân số, số tiền
thu được là 80 triệu đồng.
Xây dựng Quỹ khám, chữa bệnh ở bệnh viện ngành
Đường sắt.
Thực hiện chủ trương đường lối của đảng và nhà nước
trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, khi chế độ bao cấp
trong khám, chữa bệnh khơng cịn, một vấn đề hết sức khó khăn
đối với y tế ngành đường sắt phải tìm cách trả lời, đó là tìm nguồn
kinh phí để thực hiện chi phí khám, chữa bệnh cho người lao động
trong ngành. Có sự hướng dẫn của Ban dự thảo Pháp lệnh và
hướng dẫn thí điểm BhyT của Bộ y tế; với tinh thần dám nghĩ

dám làm, ngay từ những năm đầu 1990, y tế đường sắt đã đề xuất
166


Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam

với lãnh đạo ngành thành lập Quỹ khám, chữa bệnh. ngày
22/11/1991, Tổng giám đốc Liên hiệp đường sắt việt nam ra
Quyết định số 421/ĐS-TS thành lập Quỹ khám, chữa bệnh đường
sắt, nhằm huy động sự đóng góp tự giác của cộng đồng cán bộ,
công nhân viên giúp đỡ những người không may ốm đau bệnh
nặng trong phạm vi ngành giao thông - vận tải. Trong những
ngày đầu thành lập, Quỹ khám, chữa bệnh đường sắt gặp vơ vàn
khó khăn. Bộ máy chỉ có 05 người, chưa có một văn bản hướng
dẫn, quy định nào của nhà nước. Cơ sở vật chất khơng có, nhận
thức, hiểu biết về BhyT của cán bộ, công nhân viên trong ngành
rất hạn chế, đã phải vất vả đi đến từng đơn vị, kiên trì thuyết phục,
vận động từ lãnh đạo đơn vị đến người lao động tham gia. Bên
cạnh đó phải phối hợp chặt chẽ với hệ thống y tế ngành để tổ chức
khám, chữa bệnh chu đáo cho người tham gia. kết quả thí điểm
Quỹ khám, chữa bệnh đường sắt có 40.000 người tham gia, với
số thu trên 400 triệu đồng. vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, Quỹ
khám, chữa bệnh đường sắt không những tồn tại mà ngày càng
lớn mạnh, đóng góp những kinh nghiệm để thử nghiệm mơ hình
đặc thù là chế độ khám chữa bệnh theo BhyT thực tế hết sức quý
báu cho ngành y tế tham mưu xây dựng chính sách BhyT bắt
buộc sau này.
Quỹ bảo trợ y tế ở Bệnh viện Bưu điện
Cuối năm 1989, được sự hỗ trợ của Ban dự thảo Pháp lệnh
và hướng dẫn thí điểm BhyT; lãnh đạo Bệnh viện Bưu điện, thuộc

ngành Bưu chính viễn thông đã trăn trở suy nghĩ làm thế nào để
bệnh viện trụ vững được trong bối cảnh mới. Câu trả lời thật đơn
giản: “cạnh tranh” bằng chất lượng và hiệu quả mới tồn tại và phát
167


ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM

triển được. muốn vậy phải trên cơ sở khám, điều trị bao cấp hoàn
toàn sang khám, điều trị theo chế độ BhyT. đón bắt trước tình
hình, tháng 06/1992, Bệnh viện Bưu điện nhanh chóng triển khai
BhyT, lúc đó gọi là Bảo trợ y tế, nhờ đó Bệnh viện Bưu điện đã
được nâng cấp cơ sở vật chất khá hơn trước nhiều. với Quy chế
quản lý mới nghiêm túc và chất lượng phục vụ bệnh nhân tốt hơn
đã làm cho bộ mặt của bệnh viện thay đổi rõ rệt để chuẩn bị sẵn
sàng về mọi mặt để có thể thực hiện tốt chính sách BhyT khi được
Chính phủ ban hành.
5. Đóng góp của hoạt động thí điểm đối với việc hình
thành chính sách BHYT ở nước ta
Thực hiện đường lối đổi mới của đảng, huy động mọi nguồn
lực đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân trong tình
hình mới, với phương châm là BhyT “mình vì mọi người, mọi
người vì mình”, từ cuối năm 1989 đến tháng 06/1991 đã có 03
tỉnh, thành phố tổ chức thí điểm BhyT tồn tỉnh: hải Phịng,
Quảng Trị, vĩnh Phú; 04 tỉnh có cơ quan BhyT cấp tỉnh: hải
Phòng, Quảng Trị, Bến Tre và 24 quận, huyện của 14 tỉnh, thành
phố trong cả nước thí điểm BhyT khơng kể các hình thức bảo
hiểm chữa bệnh do một số bệnh viện tổ chức.
để chuẩn bị triển khai thí điểm BhyT ra cả nước, từ ngày
30/05 - 01/06/1991, được phép của Bộ y tế và sự tài trợ của tổ

chức hợp tác Phát triển Quốc tế Thụy điển (sida), Ban dự thảo
Pháp lệnh - Bộ y tế tổ chức tập huấn cán bộ lãnh đạo thí điểm
BhyT tồn quốc tại hải Phịng, gồm 21 tỉnh phía Bắc và các cơ
quan cục, vụ, viện trực thuộc dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Phạm
168


Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam

song nhằm tăng cường nhận thức, thống nhất quan điểm, trao đổi
kinh nghiệm, phương pháp tiến hành thí điểm BhyT, chuẩn bị các
điều kiện cần thiết để thực hiện trên diện rộng khi nhà nước chính
thức ban hành chính sách BhyT. hội nghị thống nhất đánh giá
chủ trương làm thí điểm BhyT là đúng đắn, chứng tỏ một hướng
mới không chỉ tạo thêm nguồn tài chính mà cịn tạo điều kiện để
từng bước chuyển đổi cơ chế khám, chữa bệnh phù hợp với điều
kiện mới, hiệu quả và chất lượng. BhyT là một chính sách xã hội
mới mẻ, nhưng có khả năng đi vào cuộc sống, mặc dù chưa được
đông đảo nhân dân hoan nghênh nhưng vẫn nhìn thấy triển vọng,
đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh cơ bản, lâu dài với chất lượng
ngày một tốt hơn. số lượng các đơn vị làm thí điểm có kết quả
ngày càng tăng đã nói lên một xu thế, hướng đi đúng và có triển
vọng của BhyT.
Qua thực hiện thí điểm, bước đầu có tác động và chuyển biến
về tổ chức quản lý y tế. để thí điểm BhyT, một số trung tâm y tế
huyện, quận đã sắp xếp lại tổ chức các khoa phịng hợp lý hơn, có
nơi đã giảm số giường bệnh từ 50 giường xuống 30 giường để tăng
cường chất lượng điều trị cho người bệnh; chuyển bớt cán bộ ở
Trung tâm y tế huyện về phòng khám đa khoa hoặc về cơ sở để
phù hợp với việc phục vụ nhu cầu khám, chữa bệnh của người

tham gia BhyT. đặc biệt qua thí điểm BhyT là một bước tập
dượt chuyển dần sang cơ chế quản lý y tế bằng biện pháp kinh tế.
Có nơi ở vĩnh Phú đã tổ chức khám bệnh theo vùng dân cư thuận
tiện cho người được BhyT.
nhiều nơi đã từng bước đi vào hạch toán kinh tế trong
quản lý bệnh viện để nâng cao hiệu quả quản lý, tiết kiệm lao
169


×