Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Vai trò lãnh đạo của đảng trong lĩnh vực quốc phòng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.53 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Đề tài:
VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRÊN LĨNH VỰC QUỐC
PHÒNG, AN NINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY”


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................3
I. Các quan niệm và nhìn nhận chung về quốc phòng, an ninh hiện nay ở nước
ta...........................................................................................................................3
1.1 Khái niệm quốc phịng, an ninh......................................................................3
1.2. Tình hình thế giới và trong nước ảnh hưởng đến quốc phòng an ninh Việt
Nam......................................................................................................................4
II. Sự cần thiết phải có sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực quốc phòng, an
ninh.......................................................................................................................6
III. Nội dung cơ bản về vai trị lãnh đạo của Đảng trong cơng tác quốc phòng an
ninh trong giai đoạn hiện nay...............................................................................7
IV. Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay..................................................................12
4.1

Kết hợp trong xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội..................12

4.2

Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng -

an ninh trong phát triển các vùng lãnh thổ.........................................................13


V. Một số định hướng cơ bản về tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo
vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo trong thời kỳ mới.........................................18
KẾT LUẬN …………………………………………………………………...25
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………..……………………….26


MỞ ĐẦU
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười năm 1917 là một bước ngoặt vĩ
đại trong lịch sử nhân loại đã dẫn đến sự ra đời một tổ quốc kiểu mới – Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, gắn liền với sự xuất hiện một nền quốc phòng kiểu mới – nền
quốc phịng tồn dân do Đảng cộng sản lãnh đạo. V.I.Lê-nin là người đầu tiên
xây dựng và phát triển học thuyết về quốc phịng bảo vệ Tổ quốc XHCN, trong
đó nhấn mạnh Đảng Cộng sản phải trực tiếp lãnh đạo tồn diện sự nghiệp quốc
phịng. Đây là một ngun tắc chiến lược, liên quan trực tiếp đến sự hưng thịnh
hay suy vong của quốc gia dân tộc và chế độ XHCN.
Đối với Việt Nam, từ đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước thống nhất
cùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, Đảng ta luôn khẳng định nhất quán
những nguyên tắc chiến lược: Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc
gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng và Nhà
nước, của toàn dân và toàn quân ta; Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong thời kì mới, nghiên cứu dự báo những nguy cơ liên quan đến quốc
phòng bảo vệ Tổ quốc XHCN, đáng chú ý là sự điều chỉnh chiến lược của các
thế lực thù địch cho thấy “Diễn biến hịa bình” là vấn đề chủ yếu nổi lên trong
chiến lược chống phá độc lập dân tộc và CNXH ở Việt Nam, cũng không loại
trừ khả năng chúng tiến hành chiến tranh xâm lược kiểu mới đối với nước ta.
Đồng thời những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, về tài nguyên và các vấn đề
liên quan đến lợi ích quốc gia dân tộc tiếp tục diễn ra gay gắt và phức tạp, tiềm
ẩn nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ, nhất là khi các nước
lớn có sự mặc cả và thỏa hiệp về lợi ích gây phương hại đến lợi ích của dân tộc

Việt Nam. Do đó, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc XHCN của
chúng ta trong thời kì mới cần tập trung đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ
đoạn “Diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch, đồng thời chủ động phòng
ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những yếu tố bất lợi có thể dẫn đến xung đột
1


vũ trang, chiến tranh cục bộ và sẵn sàng đối phó thắng lợi với chiến tranh xâm
lược kiểu mới của địch. Chính từ những phân tích trên đã thơi thúc tác giả
nghiên cứu đề tài tiểu luận: “Vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực quốc
phòng, an ninh trong giai đoạn hiện nay”.

2


NỘI DUNG
I. Các quan niệm và nhìn nhận chung về quốc phòng, an ninh hiện nay ở
nước ta
1.1 Khái niệm quốc phịng, an ninh
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, tiềm ẩn những yếu tố khó lường. Đối với nước ta, các
thế lực thù địch vẫn ráo riết chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta,
chủ yếu bằng chiến lược diễn biến hồ bình, nhằm xố bỏ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chuyển hoá cách
mạng nước ta đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Các hành động xâm hại chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức, âm
mưu và với các thủ đoạn hết sức tinh vi. Điều đó đặt ra vai trị lãnh đạo của
Đảng trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh để bảo vệ tổ quốc là rất nặng nề.
Quốc phịng là cơng cuộc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể các hoạt
động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học của

Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh tồn diện, cân
đối, trong đó sức mạnh qn sự làm nịng cốt, nhằm giữ vững hịa bình, đẩy lùi,
ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến
tranh xâm lược dưới mọi hình thức, mọi quy mơ. Quốc phịng bao gồm các hoạt
động của cả nước, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nịng cốt. Kẻ thù
xâm lược từ bên ngồi thường câu kết với các lực lượng phản động bên trong,
do đó quốc phịng phải kết hợp chặt chẽ với an ninh để bảo vệ đất nước, bảo vệ
chế độ XHCN. Tổ chức quốc phòng của mỗi nước phụ thuộc trực tiếp vào chế
độ xã hội, vào truyền thống dân tộc, vào điều kiện khách quan, chủ quan cụ thể.
An ninh được hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp tùy từng trường hợp. Theo
nghĩa rộng, an ninh bao gồm an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội. An ninh
quốc gia được biểu hiện ở sự ổn định trong quan hệ chính trị giữa các giai cấp,
khẳng định vị trí lãnh đạo của giai cấp cầm quyền đối với các giai cấp khác và
3


vị trí độc lập, tự chủ của chính quyền nhà nước đối với các Nhà nước khác trên
thế giới. An ninh quốc gia bao gồm sự ổn định của hai mặt, hai nội dung đối
nội, đối ngoại và mối quan hệ giữa đối nội và đối ngoại; an ninh quốc gia phản
ánh quan hệ chính trị trong phạm vi một nước và quan hệ chính trị quốc tế. Bảo
vệ an ninh quốc gia là bảo vệ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ cơ sở kinh tế và hệ thống chính trị của chế độ XHCN, bảo vệ quan
hệ đối nội và đối ngoại của nước Cộng hịa XHCN Việt Nam. An ninh gắn bó
chặt chẽ với quốc phịng.
Hịa bình, ổn định, khơng bị bất ngờ trong mọi tình huống, có đủ sức chống
lại mọi âm mưu thủ đoạn phá hoại của kẻ địch, đủ sức đánh thắng mọi cuộc
chiến tranh của các thế lực phản động gây ra với đất nước ta luôn là điều kiện,
là yêu cầu đối với toàn Đảng, toàn dân, các lực lượng vũ trang. Đây cũng là yêu
cầu trực tiếp, thường xuyên của Đảng trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh trong
tình hình mới.

1.2. Tình hình thế giới và trong nước ảnh hưởng đến quốc phòng an ninh
Việt Nam
Cơ sở của việc tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, xuất phát từ đòi hỏi của sự phát triển phức tạp của tình hình thế giới và
diễn biến mới của tình hình trong nước có liên quan đến quốc phòng và an ninh
quốc gia.
Sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ làm cho CNXH hiện thực
tạm thời lâm vào thoái trào, so sánh tương quan lực lượng hiện nay có lợi cho
chủ nghĩa Đế quốc. Nhân cơ hội này, chủ nghĩa đế quốc càng điên cuồng chống
phá cách mạng thế giới. Đế quốc Mỹ âm mưu thiết lập một trật tự "thế giới một
cực” do Mỹ đứng đầu, khẳng định ưu thế tuyệt đối của Mỹ về quân sự, chính trị
và kinh tế, đe doạ độc lập chủ quyền các quốc gia. Mỹ ngang nhiên can thiệp
thô bạo vào công việc nội bộ các nước, kích động chủ nghĩa ly khai. Lợi dụng
tình hình xung đột tơn giáo, sắc tộc, dân tộc, chống khủng bố để can thiệp và

4


tiến hành chiến tranh ở nhiều nơi, tạo ra tiền lệ nguy hiểm đe doạ an ninh, hồ
bình thế giới.
Nằm trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam với một vị trí địa - chính trị,
quân sự, kinh tế quan trọng là điều kiện thuận lợi để chúng ta mở rộng quan hệ
với các nước; tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn tìm mọi thủ đoạn chống phá
nước ta. Với mục tiêu "chiến thắng không cần chiến tranh”, thực hiện "triệt để
kẻ thù cũ”, Mỹ và các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược "Diễn biến hồ
bình”, bạo loạn lật đổ chống cách mạng nước ta bằng thủ đoạn thâm hiểm. Vì
vậy, Đảng ta xác định: "Diễn biến hồ bình” là một trong bốn nguy cơ lớn đối
với cách mạng nuớc ta.
Ở Việt Nam, qua hơn 20 năm đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng cụ thể là: Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn

lãnh thổ đất nước được giữ vững, vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN;
Bên cạnh đó vẫn cịn có những biểu hiện, thách thức mà chúng ta phải giải
quyết. Cụ thể như: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư
tưởng, đạo đức, lối sống, giảm sút ý chí chiến đấu, tham nhũng, quan liêu, mơ
hồ, mất cảnh giác. Mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân xảy ra ở nhiều địa phương
làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và ổn định xã hội, việc tranh chấp khiếu
kiện, mất đoàn kết nội bộ ở một số địa phương dễ bị kẻ thù lợi dụng; Bọn phản
động gây rối, chống Đảng và Nhà nước … đó là những nhân tố có thể gây khó
khăn khơng nhỏ cho sự nghiệp ổn định và phát triển đất nước. Mặt khác, sự phát
triển tư duy trong xác định đường lối xây dựng nền quốc phịng tồn dân cịn do
địi hỏi của chính thực trạng nền quốc phịng tồn dân và thế trận quốc phịng
tồn dân của ta những năm qua đặt ra.
Theo đánh giá của Đảng ta tại Đại hội IX, nhiệm vụ quốc phòng an ninh
những năm qua đã đạt những ưu điểm, kết quả là: Tình hình chính trị - xã hội cơ
bản ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường. Các lực lượng vũ trang
nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo
đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phịng tồn dân và nền
5


an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lợi, biên giới, biển đảo được
phát huy. Tổ chức Quân đội và Công an được điều chỉnh theo yêu cầu mới. Việc
kết hợp quốc phòng và an ninh với phát triển kinh tế và cơng tác đối ngoại có sự
phát triển tốt.
Đứng trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới. Sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội còn bộc lộ những
yếu kém và khuyết điểm cần khắc phục là: Nền quốc phịng tồn dân, thế trận
quốc phịng tồn dân, tuy được củng cố nhưng chưa toàn diện và chưa thật vững
chắc. Chậm hình thành thống nhất chiến lược gắn quốc phòng - an ninh với phát
triển kinh tế - xã hội...Khả năng, sức mạnh, trình độ sẵn sàng chiến đấu, sức cơ

động chưa cao.
Qua phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây chúng ta có thể thấy:
Tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN là đòi hỏi khách quan trong cơng cuộc đổi mới.
II. Sự cần thiết phải có sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực quốc phòng,
an ninh
Ðối với nước ta, quốc phịng là cơng cuộc giữ nước của quốc gia độc lập
có chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, là hoạt động của cả nước, lấy lực lượng vũ
trang làm nòng cốt nhằm giữ vững hòa bình, răn đe, ngăn chặn và đẩy lùi các
hoạt động chống phá của kẻ thù, đồng thời sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm
lược dưới mọi hình thức, quy mơ. Vì thế, xây dựng và đấu tranh quốc phịng
ln thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa tính giai cấp - nhân dân - dân tộc;
mang đậm dấu ấn của cuộc đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới, hoàn cảnh
mới; phong phú về nội dung, linh hoạt, sáng tạo về hình thức và phương pháp;
tập trung, thống nhất về lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
Trong khi tình hình an ninh chính trị có những diễn biến phức tạp mới, thì
tình hình tội phạm cũng có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất
nghiêm trọng. Xuất hiện nhiều loại tội phạm mới như: rửa tiền, tội phạm lợi

6


dụng công nghệ cao, buôn bán phụ nữ, trẻ em... Tệ nạn xã hội còn nghiêm
trọng, nhất là tệ nạn ma túy, mại dâm vẫn là mối lo lắng của tồn xã hội.
Vị trí, vai trị nhiệm vụ trọng yếu, thường xun của lĩnh vực quốc phịng có
nguồn gốc từ mối quan hệ biện chứng giữa quốc phòng, an ninh đối ngoại với
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội; giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nếu
quốc phòng được giữ vững và tăng cường, tất yếu sẽ góp phần quan trọng vào
việc tạo lập, giữ gìn mơi trường hịa bình, ổn định đất nước, phát triển kinh tếxã hội, chủ động hội nhập kinh tế và mở rộng quan hệ đối ngoại... tạo nền tảng

vững chắc thực hiện khát vọng của nhân dân, sự lựa chọn đúng đắn của Ðảng ta
vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Quốc phịng tồn dân là quan điểm cơ bản của Ðảng, Nhà nước ta trong lãnh
đạo, chỉ đạo, tổ chức, xây dựng nền quốc phòng của đất nước. Xác định đúng vị
trí, vai trị quốc phịng phản ánh tầm nhìn chiến lược của Ðảng về sự cần thiết
phải tiếp tục củng cố, tăng cường quốc phòng, đồng thời chỉ rõ mối quan hệ
khơng thể tách rời giữa quốc phịng, an ninh, đối ngoại, kinh tế...
Văn kiện đại hội XI của Ðảng đã xác định một trong nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên của Ðảng, Nhà nước và toàn dân là tăng cường quốc phòng, giữ
vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Luận điểm ấy vừa nêu bật vị trí
nổi trội, vai trị, tầm quan trọng của quốc phòng, đồng thời khẳng định ý thức
trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ của mọi công dân, mọi tổ chức phải đóng góp
tài năng và trí tuệ vào việc thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
III. Nội dung cơ bản về vai trò lãnh đạo của Đảng trong cơng tác quốc
phịng an ninh trong giai đoạn hiện nay
Chăm lo củng cố quốc phòng và an ninh là yêu cầu khách quan trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam, đó là sự vận dụng trung thành và sâu sắc lý luận
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa xây dựng
Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ thành quả cách mạng. Qua đó, khẳng định vai trị to
7


lớn của nền quốc phòng – an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa. Lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của dân tộc ta
luôn gắn liền và tuân theo quy luật: Dựng nước đi đôi với giữ nước, Xây dựng
đất nước đi đôi với bảo vệ Tổ quốc. Trong công cuộc đổi mới cùng với nhiệm
vụ xây dựng đất nước theo con đường XHCN phải luôn luôn coi trọng nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, về
xây dựng nền quốc phịng tồn dân ln được Đảng ta quan tâm coi trọng. Qua

20 năm đổi mới, tư duy bảo vệ Tổ quốc của chúng ta đã có sự phát triển và đổi
mới mạnh mẽ. Chúng ta ngày càng nhận thức sâu sắc, đẩy đủ và toàn diện hơn
về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình; về những yếu tố cấu thành và
những chủ trương, biện pháp tạo nên sức mạnh quốc phòng của đất nước trong
điều kiện mới. Chúng ta cũng ngày càng thấy rõ hơn vai trò quan trọng của an
ninh và đối ngoại, sự cần thiết kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh và
đối ngoại, giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại với xây dựng kinh tế. Bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa khơng chỉ là đối phó với hành động vũ trang xâm lược
của kẻ địch từ bên ngoài, mà còn phải đặc biệt chăm lo xây dựng và giữ vững
bên trong, đối phó với những thủ đoạn phi vũ trang của địch. Sức mạnh bảo vệ
Tổ quốc không chỉ là sức mạnh của lực lượng vũ trang mà là sức mạnh tổng
hợp của quốc gia và chế độ, lấy sức mạnh kinh tế, chính trị làm cơ sở.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta dưới sự lãnh đạo của đảng, trong đó đổi mới
tư duy trong xây dựng nền quốc phịng tồn dân bảo vệ Tổ quốc XHCN làm cơ
sở đề ra quan điểm mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Do đó,
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN ở nước ta sau hơn 20 năm đã thu được những
thành tựu to lớn: giữ vững ổn định về chính trị, ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh, từng bước làm thất bại âm mưu "diễn biến hồ bình", bạo loạn lật
đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, nền quốc phịng tồn dân, thế
trận quốc phịng tồn dân và nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân
ngày càng được củng cố vững chắc. Những thành tựu đó dã tạo ra mơi trường
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH trong công cuộc đổi mới.
8


Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc
XHCN trong thời kì mới, trước hết và chủ yếu quyết định là giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phịng, trong đó cần tập
trung thực hiện tốt những chủ trương, giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, tiếp tục bổ sung phát triển, cụ thể hóa đường lối và phương thức

lãnh đạo của Đảng, hệ thống luật pháp và chính sách của Nhà nước đối với sự
nghiệp quốc phòng bảo vệ Tổ quốc XHCN. Chủ động nghiên cứu bổ sung phát
triển hai chiến lược trọng yếu, mang tính tổng hợp và toàn diện nhất của đất
nước là Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, trên
cơ sở đó xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các chiến lược cơ bản của quốc gia
(Chiến lược quốc phòng, Chiến lược an ninh, Chiến lược ngoại giao và các
chiến lược chuyên ngành khác), các kế hoạch mang tính chiến lược của quốc gia
(Kế hoạch phân vùng chiến lược về quốc phòng gắn với phân vùng chiến lược
về kinh tế-xã hội theo nguyên tắc kết hợp chặt chẽ xây dựng với bảo vệ; Kế
hoạch chiến lược về phòng thủ dân sự; Kế hoạch chiến lược tổng thể về xây
dựng cơng trình quốc phịng từ thời bình gắn chặt với bổ sung, điều chỉnh
Phương án phịng thủ chiến lược; Kế hoạch xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương…).
Tiếp tục đổi mới, bổ sung hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, điều hành đối với
lĩnh vực quốc phịng, nhất là khi xử trí các tình huống khẩn cấp về quốc phịng
hoặc chiến tranh theo nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí điều hành
tập trung thống nhất; Bộ Quốc phịng chủ trì phối hợp với các cơ quan, ban,
ngành, đồn thể chính trị-xã hội làm tham mưu và tổ chức thực hiện theo chức
năng nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm và quyền làm chủ của nhân dân trong thực
hiện nhiệm vụ quốc phịng. Tích cực đổi mới, cụ thể hóa và thực hiện nghiêm
túc phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực quốc phịng thơng qua hệ
thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở, lãnh đạo bộ máy chính quyền các
cấp quản lí điều hành cơng tác quốc phòng, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các

9


đồn thể chính trị-xã hội để động viên và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
trong xây dựng nền quốc phịng tồn dân.
Hai là, xây dựng và phát huy vai trị của hệ thống chính trị đối với sự

nghiệp quốc phòng bảo vệ Tổ quốc XHCN. Cần thường xuyên chăm lo xây
dựng hệ thống chính trị, nhất là các tổ chức đảng và bộ máy chính quyền từ
Trung ương đến cơ sở thực sự trong sạch vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân
dân, lãnh đạo và quản lí điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội có uy tín và
hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Luôn coi trọng hàng đầu việc xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, thực sự là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị và của toàn xã
hội. Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ
sở đảng, tổ chức đảng ở cơ quan cấp chiến dịch-chiến lược; tăng cường giáo
dục, quản lí rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và lối
sống, năng lực trí tuệ và trình độ tổ chức hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ
đảng viên, khắc phục nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta.
Tích cực đấu tranh làm trong sạch và lành mạnh hóa bộ máy chính quyền các
cấp, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân và tính nhân dân, thực
hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ quản lí điều hành xã hội của Nhà
nước pháp quyền XHCN, khắc phục nguy cơ tha hóa biến chất do tệ quan liêu,
nạn tham nhũng, đặc quyền đặc lợi, sách nhiễu và xa dân của bộ máy chính
quyền. Chăm lo củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị-xã hội, phát huy vai trị là cơ sở chính trị
của Đảng và chính quyền nhân dân, động viên và tổ chức nhân dân tích cực
tham gia xây dựng tiềm lực và sức mạnh quốc phòng, nhất là xây dựng “Thế
trận lòng dân” vững chắc.
Ba là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Đảng đối với quân đội, bảo đảm thực sự trung thành và tin cậy về chính trị,
làm nịng cốt trong quốc phịng tồn dân bảo vệ Tổ quốc. Về bản chất, quốc
phịng là cơng cuộc giữ nước của quốc gia dân tộc có độc lập chủ quyền, bằng
10


sức mạnh toàn diện của Nhà nước và của nhân dân, trong đó sức mạnh quân sự

là đặc trưng, quân đội là lực lượng nịng cốt.
Bốn là, tích cực bồi dưỡng nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực
tổ chức thực hiện cơng tác quốc phịng của đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành
và các địa phương, tập trung vào các vấn đề cơ bản và đang đặt ra cấp thiết là:
Tư duy mới về đối tượng và đối tác, về hợp tác và đấu tranh theo tinh
thần: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, quan hệ hữu nghị và
hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác. Bất kể thế lực nào
có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH đều là đối tượng đấu tranh. Chủ động giải quyết tốt các quan hệ giữa đối
tượng và đối tác, giữa hợp tác và đấu tranh, không để sơ hở và thua thiệt trong
hợp tác, không bị bất ngờ trước những âm mưu và hành động xâm hại lợi ích
quốc gia.
Tư duy mới về phương thức chiến lược quốc phòng bảo vệ Tổ quốc, nhất
là kết hợp chặt chẽ Chiến lược quốc phòng với Chiến lược an ninh và Chiến
lược ngoại giao, dựa chắc trên cơ sở Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, lấy
giữ vững hịa bình và ổn định, xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt và phát
triển bền vững, “giữ cho trong ấm, ngoài êm”, chủ động giữ nước ngay từ thời
bình, ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh là phương thức tối ưu để bảo vệ
Tổ quốc, đúng với bản chất của quốc phòng Việt Nam là hịa bình và tự vệ.
Năm là, phát huy trách nhiệm và quyền làm chủ của nhân dân đối với xây
dựng nền quốc phịng tồn dân, đặc biệt coi trọng xây dựng “Thế trận lòng dân”
vững chắc.
Trong thời kì mới, trước những phát triển của tình hình và nhiệm vụ cần
tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự
nghiệp quốc phịng. Đó là nhân tố chủ yếu quyết định trong cơ chế vận hành của
nền quốc phịng tồn dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Có thực hiện tốt
nguyên tắc chiến lược đó mới bảo đảm cho đất nước ln chủ động về chiến
lược trong mọi tình huống và phát triển bền vững.
11



IV. Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng,
an ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay
4.1 Kết hợp trong xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh phải được thể hiện ngay trong việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế
của quốc gia. Mục tiêu và phương hướng tổng quát phát triển kinh tế - xã hội nước
ta từ năm 2006 - 2010 là "... Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh tồn
diện cơng cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước ; phát triển văn hoá ; thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối
ngoại ; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế ; giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển ; tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại"(1).
Như vậy, trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã bao quát
toàn diện các vấn đề của đời sống xã hội, trong đó nổi lên ba vấn đề lớn là : tăng
trưởng kinh tế gắn với tiến bộ xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh và mở
rộng quan hệ đối ngoại nhằm giải quyết hài hoà hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng,
an ninh trong chiến lược phát triển kinh tế được thể hiện ngay trong việc hoạch
định mục tiêu phát triển quốc gia, trong huy động nguồn lực, trong lựa chọn và
thực hiện các giải pháp chiến lược.
Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh sẽ
phát huy sức mạnh của từng lĩnh vực, kết hợp với nhau tạo thành sức mạnh tổng
hợp, quy tụ mọi nguồn lực, lực lượng trong nước và quốc tế nhằm hoàn thành
thắng lợi mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020.

(


12


4.2

Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng
- an ninh trong phát triển các vùng lãnh thổ
Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an

ninh theo vùng lãnh thổ là sự gắn kết chặt chẽ phát triển vùng kinh tế chiến
lược, với xây dựng vùng chiến lược quốc phòng, an ninh, nhằm tạo ra thế bố trí
chiến lược mới cả về kinh tế lẫn quốc phòng, an ninh trên từng vùng lãnh thổ,
trên địa bàn tỉnh, thành phố, theo ý đồ phòng thủ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam bền vững trên toàn cục và mạnh ở từng trọng điểm.
Hiện nay, nước ta đã phân chia thành các vùng kinh tế lớn và các vùng chiến
lược, các quân khu (sự phân vùng chiến lược quốc phòng, an ninh là sự phân
vùng theo ý đồ phòng thủ và tác chiến bảo vệ Tổ quốc trên từng chiến trường,
từng hướng chiến lược của đất nước). Mỗi vùng đều có vị trí chiến lược về phát
triển kinh tế và chiến lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, về lâu dài đều
phải quan tâm chỉ đạo kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế xã hội với xây
dựng lực lượng, thế trận quốc phòng - an ninh trên từng vùng lãnh thổ và giữa
các vùng với nhau, trong thế trận phòng thủ chung.
Các vùng chiến lược khác nhau có sự khác nhau về đặc điểm và yêu cầu
nhiệm vụ phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh, nên nội dung kết hợp cụ thể
trong mỗi vùng có thể có sự khác nhau. Song việc kết hợp phát triển kinh tế –
xã hội với quốc phòng, an ninh ở các vùng lãnh thổ, cũng như ở địa bàn mỗi
tỉnh, thành phố phải được thể hiện những nội dung chủ yếu sau :
Một là, kết hợp trong xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh của vùng, cũng như trên địa bàn từng

tỉnh, thành phố.
Hai là, kết hợp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu kinh
tế địa phương với xây dựng các khu vực phòng thủ then chốt, các cụm chiến
đấu liên hoàn, các xã (phường) chiến đấu trên địa bàn của các tỉnh (thành phố),
huyện (quận).

13


Ba là, kết hợp trong q trình phân cơng lại lao động của vùng, phân bố lại
dân cư với tổ chức xây dựng và điều chỉnh, sắp xếp bố trí lại lực lượng quốc
phòng, an ninh trên từng địa bàn, lãnh thổ cho phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế xã hội và kế hoạch phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm ở đâu có đất, có
biển, đảo là ở đó có dân và có lực lượng quốc phòng, an ninh để bảo vệ cơ sở,
bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với xây dựng các
cơng trình quốc phòng, quân sự, phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trường... Bảo
đảm tính "lưỡng dụng" trong mỗi cơng trình được xây dựng.
Năm là, kết hợp xây dựng các cơ sở, kinh tế vững mạnh toàn diện, rộng
khắp với xây dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần, kĩ thuật và hậu
phương vững chắc cho mỗi vùng và ở các địa phương để sẵn sàng đối phó khi
có chiến tranh xâm lược.
Trên cơ sở kết hợp quan điểm toàn cục nói trên, xuất phát từ sự phân tích
đặc điểm tiềm năng phát triển kinh tế cũng như vị trí địa chính trị, qn sự, quốc
phịng, an ninh của các vùng lãnh thổ trong cả nước, hiện nay Đảng ta xác định
phải chú trọng nhiều hơn cho các vùng kinh tế trọng điểm, vùng biển đảo và
vùng biên giới.
Đối với các vùng kinh tế trọng điểm
Hiện nay, nước ta xác định 3 vùng kinh tế trọng điểm : phía Bắc (Hà Nội, Hải
Phịng, Quảng Ninh) ; phía Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu) ; miền Trung (Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Dung Quất  Quảng

Ngãi). Các vùng kinh tế trọng điểm nói trên đều là nòng cốt cho phát triển kinh
tế của từng miền và cho cả nước (theo tính tốn đến năm 2010, GDP của 3 vùng
kinh tế trọng điểm chiếm khoảng 60% tổng thu nhập quốc dân của cả nước).
Về kinh tế, các vùng kinh tế trọng điểm là nơi có mật độ dân cư và tính chất
đơ thị hố cao, gắn liền với các khu công nghiệp lớn, đặc khu kinh tế, các liên
doanh có vốn đầu tư nước ngồi. Đây cũng là nơi tập trung các đầu mối giao
thông quan trọng, các sân bay, bến cảng, kho tàng, dịch vụ...
14


Về quốc phòng - an ninh, mỗi vùng kinh tế trọng điểm thường nằm trong
các khu vực phòng thủ và phịng thủ then chốt của đất nước, nơi có nhiều đối
tượng, mục tiêu quan trọng phải bảo vệ ; đồng thời cũng là nơi nằm trên các
hướng có khả năng là hướng tiến công chiến lược chủ yếu trong chiến tranh
xâm lược của địch ; hoặc đã và đang là địa bàn trọng điểm để địch thực hiện
chiến lược "Diễn biến hồ bình", bạo loạn lật đổ với nước ta. Vì vậy, phải thực
hiện thật tốt phát triển kinh tế gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh
trên các vùng này.
Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau :
- Trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các thành phố, các khu công nghiệp
cần lựa chọn quy mơ trung bình, bố trí phân tán, trải đều trên diện rộng, không
nên xây dựng tập trung thành những siêu đô thị lớn, để thuận lợi cho quản lí,
giữ gìn an ninh chính trị trong thời bình và hạn chế hậu quả tiến công hoả lực
của địch khi có chiến tranh.
- Phải kết hợp chặt chẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với kết cấu hạ
tầng của nền quốc phịng tồn dân. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với
xây dựng các công trình phịng thủ, các thiết bị chiến trường, các cơng trình
phịng thủ dân sự... Về lâu dài, ở các thành phố, đơ thị, các khu kinh tế tập
trung, cần có quy hoạch từng bước xây dựng hệ thống "cơng trình ngầm lưỡng
dụng". Phải bảo vệ, bảo tồn các địa hình, địa vật, các khu vực có giá trị về

phịng thủ, khi bố trí các cơ sở sản xuất, các cơng trình kinh tế, phê duyệt dự án
đầu tư nước ngồi. Khắc phục tình trạng chỉ chú ý quan tâm đến lợi thế, hiệu quả
kinh tế trước mắt mà quên đi nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và ngược lại khi bố
trí các khu vực phịng thủ, các cơng trình quốc phòng, chỉ chú ý đến các yếu tố
bảo đảm quốc phịng, an ninh mà khơng tính đến đến lợi ích kinh tế.
- Trong quá trình xây dựng các khu cơng nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế
phải có sự gắn kết với quy hoạch xây dựng lực lượng quốc phịng - an ninh, các
tổ chức chính trị, đồn thể ngay trong các tổ chức kinh tế đó. Lựa chọn đối tác

15


đầu tư, bố trí xen kẽ, tạo thế đan cài lợi ích giữa các nhà đầu tư nước ngồi
trong các khu công nghiệp, đặc khu kinh tế, khu chế xuất.
- Việc xây dựng, phát triển kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm phải nhằm
đáp ứng phục vụ nhu cầu dân sinh thời bình và cả cho việc chuẩn bị đáp ứng
nhu cầu chi viện cho các chiến trường khi chiến tranh xảy ra. Kết hợp phát triển
kinh tế tại chỗ với xây dựng căn cứ hậu phương của từng vùng kinh tế trọng
điểm để sẵn sàng chủ động di dời, sơ tán đến nơi an tồn khi có tình huống
chiến tranh xâm lược.
Đối với vùng núi biên giới
Vùng núi biên giới của nước ta có chiều dài tiếp giáp với Trung Quốc, Lào,
Campuchia. Đây là địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc ít người,
mật độ dân số thấp (trung bình khoảng 20 - 40 người/1km 2), kinh tế chưa phát
triển, trình độ dân trí thấp, đời sống dân cư cịn nhiều khó khăn. Vùng núi biên
giới có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc.
Trước đây các vùng này đã từng là căn cứ địa kháng chiến, hậu phương chiến
lược của cả nước. Ngày nay, trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, các vùng núi biên
giới vẫn là vùng chiến lược hết sức trọng yếu. Trong khi đó, ở đây cịn nhiều
khó khăn, yếu kém về kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng, an ninh dễ bị kẻ thù

lợi dụng để lơi kéo, kích động đồng bào, thực hiện âm mưu chiến lược "Diễn
biến hồ bình", bạo loạn lật đổ, nhiều nơi tình hình rất phức tạp. Vì vậy, trước
mắt cũng như lâu dài, việc kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh ở
vùng núi biên giới là cực kì quan trọng.
Việc kết hợp cần tập trung vào các nội dung sau :
- Phải quan tâm đầu tư phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh ở các
vùng cửa khẩu, các vùng giáp biên giới với các nước.
- Phải tổ chức tốt việc định canh, định cư tại chỗ và có chính sách phù hợp
để động viên, điều chỉnh dân số từ các nơi khác đến vùng núi biên giới.

16


- Tập trung xây dựng các xã trọng điểm về kinh tế và quốc phòng, an ninh.
Trước hết, cần tập trung xây dựng phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, mở mới và
nâng cấp các tuyến đường dọc, ngang, các tuyến đường vành đai kinh tế.
- Thực hiện tốt chương trình xố đói, giảm nghèo, chương trình 135 về phát
triển kinh tế - xã hội đối với các xã nghèo.
- Đối với những nơi có địa thế quan trọng, vùng sâu, vùng xa cịn nhiều khó
khăn, cần kết hợp mọi nguồn lực, mọi lực lượng của cả Trung ương và địa
phương để cùng giải quyết.
- Đặc biệt với các địa bàn chiến lược trọng yếu dọc sát biên giới, cần có
chính sách động viên và sử dụng lực lượng vũ trang, lực lượng quân đội làm
nòng cốt xây dựng các khu kinh tế quốc phòng hoặc các khu quốc phòng - kinh
tế, nhằm tạo thế và lực mới cho phát triển kinh tế, xã hội và tăng cường sức
mạnh quốc phịng, an ninh.
Đối với vùng biển đảo
Nước ta có vùng biển vừa dài vừa rộng, với diện tích hơn 1 triệu km 2 (gấp
hơn 3 lần diện tích đất liền). Vùng biển đảo nước ta có nhiều tiềm năng về hải
sản và khống sản, là cửa ngõ thơng thương giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư

nước ngồi, có khả năng phát triển một số ngành mũi nhọn của đất nước trong
tương lai. Tuy nhiên, việc khai thác lợi thế đó của ta cịn nhiều hạn chế, đặc biệt
vùng biển đảo của ta hiện nay đang có nhiều tranh chấp rất phức tạp, chứa đựng
nguy cơ đe doạ chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc và rất dễ bùng nổ xung đột.
Trong khi đó, chúng ta lại chưa có chiến lược tổng thể hồn chỉnh về phát triển
kinh tế biển và bảo vệ biển, đảo. Lực lượng và sức mạnh tổng hợp trên biển cịn
q mỏng. Vì vậy, việc quan tâm thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế xã hội
với tăng cường quốc phòng, an ninh trên vùng biển, đảo là đòi hỏi bức bách và
rất quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài, nhằm nhanh chóng tạo ra thế và
lực đủ sức bảo vệ, làm chủ tồn diện vùng biển, đảo, góp phần thúc đẩy các
ngành kinh tế biển phát triển nhanh làm giàu cho Tổ quốc.
Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau :
17


- Tập trung trước hết vào xây dựng, hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế
và xây dựng thế trận quốc phịng, an ninh bảo vệ biển, đảo trong tình hình mới,
làm cơ sở cho việc thực hiện kết hợp kinh tế xã hội với quốc phòng, an ninh
một cách cơ bản, toàn diện, lâu dài.
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch từng bước đưa dân ra vùng ven biển và các
tuyến đảo gần trước để có lực lượng xây dựng căn cứ hậu phương, bám trụ phát
triển kinh tế và bảo vệ biển, đảo một cách vững chắc, lâu dài.
- Nhà nước phải có cơ chế chính sách thoả đáng động viên, khích lệ dân ra
đảo bám trụ làm ăn lâu dài.
- Phát triển các loại hình dịch vụ trên biển, đảo, tạo điều kiện cho dân bám
trụ, sinh sống, làm ăn.
- Xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện mở rộng liên kết làm ăn kinh tế
ở vùng biển, đảo thuộc chủ quyền nước ta với các nước phát triển. Thơng qua
đó, vừa thể hiện chủ quyền của nước ta, vừa hạn chế âm mưu bành trướng lấn
chiếm biển đảo của các thế lực thù địch, tạo thế và lực để giải quyết hồ bình

các tranh chấp trên biển, đảo.
- Chú trọng đầu tư phát triển chương trình đánh bắt xa bờ, thơng qua đó xây
dựng lực lượng dân quân biển, các hải đoàn tự vệ của ngành Hàng hải, Cảnh sát
biển, kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn kịp thời những hoạt động vi phạm chủ
quyền biển, đảo của nước ta,... Xây dựng một số đơn vị kinh tế - quốc phòng
mạnh trên biển, đảo để làm nòng cốt cho phát triển kinh tế biển và tạo thế bảo
vệ biển, đảo vững chắc.
- Xây dựng phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra ở vùng biển,
đảo nước ta. Mạnh dạn đầu tư xây dựng lực lượng nòng cốt và thế trận phòng
thủ trên biển, đảo, trước hết là phát triển và hiện đại hoá lực lượng Hải Quân
nhân dân Việt Nam để đủ sức mạnh canh giữ, bảo vệ vùng biển đảo của Tổ
quốc.
V. Một số định hướng cơ bản về tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh
bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo trong thời kỳ mới
18


Là một quốc gia ven biển, nằm dọc Biển Đông với 3260 km bờ biển, Việt
Nam có lợi thế và khả năng để tiến ra biển, trở thành một nước mạnh về biển
vào năm 2020 như mục tiêu mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X đã vạch ra. Bên cạnh việc xây dựng Luật Các vùng
biển Việt Nam để xác định khung pháp lý cơ bản cho việc tiến ra biển của đất
nước, phù hợp với pháp luật và thực tiễn quốc tế, tạo điều kiện phát triển và xây
dựng đất nước; cơng tác tăng cường củng cố quốc phịng - an ninh, bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển đảo là những giải pháp quan trọng để thực hiện chính sách
biển trong tình hình mới.
Biển, đảo là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vai trị
quan trọng trong quá trình tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam. Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã ra Nghị quyết về
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, trong đó có nội dung rất quan trọng

định hướng chiến lược quốc phòng, an ninh và đối ngoại để bảo vệ vững chắc
chủ quyền vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hướng ra biển,
tiến ra biển đã và đang trở thành xu thế chung của mỗi quốc gia có biển. Do lợi
ích về kinh tế - xã hội, chính trị, quốc phịng, an ninh mà biển đem lại cho các
quốc gia ngày càng lớn và đa dạng, nên đã phát sinh nhiều mâu thuẫn về quyền
lợi giữa các nước có biển, những nước khơng có biển, gây ra những tranh chấp
phức tạp, quyết liệt về chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích
trên biển, đảo. Các nước có biển, nhất là các nước lớn đã có chiến lược biển,
tăng cường tiềm lực về biển. Hoa Kỳ, Nga, Ca-na-đa, Ốt-xtrây-lia, Trung Quốc
và nhiều nước khác đều đã công bố chiến lược biển. Các nước vùng Biển Đông
cũng rất quan tâm đến biển và xây dựng chiến lược biển nhằm tăng cường mọi
mặt về biển.
Việt Nam là một quốc gia ven biển, chúng ta có bờ biển dài 3.260 km,
nằm trong số 10 nước trên thế giới có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển, mở
ra ba hướng Đông, Nam và Tây; có vùng biển và thềm lục địa rộng lớn, diện
19


tích vượt quá 1 triệu km2, lớn gấp 3 lần diện tích đất liền; có hơn 3.000 hịn đảo
lớn, nhỏ, gần bờ và xa bờ, chạy suốt từ Vịnh Bắc Bộ tới Vịnh Thái Lan. Vị trí
địa lý tự nhiên và tiềm năng kinh tế của vùng biển nước ta có tầm quan trọng
chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhận
thức rõ đặc điểm và vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, quốc phịng, an ninh
của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Đảng và
Nhà nước ta đã sớm đề ra nhiều nghị quyết, chỉ thị về phát triển kinh tế biển gắn
với tăng cường củng cố QP-AN để quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh
thổ trên biển, đảo của Tổ quốc.
Ngày 6/5/1993, Bộ Chính trị (khố VII) đã ra Nghị quyết số 03/NQ-TƯ
“Về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt”; tiếp

đó, ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị (khố VIII) ra Chỉ thị số 20/CT-TƯ “Về đẩy
mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước”; ngày 9/2/2007, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá X đã ra Nghị quyết “Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”1. Đây
là tư duy mới của Đảng ta về vị trí, vai trị của biển, đảo trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới; thể hiện rõ
quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành
quốc gia mạnh từ biển và giàu lên từ biển, đảm bảo vững chắc chủ quyền,
quyền chủ quyền quốc gia trên biển. Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung
ương 4 (khố X), vấn đề đang đặt ra cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là phải
làm thế nào bảo vệ vững chắc chủ quyền trên biển, đảo, tạo ra mơi trường hồ
bình, ổn định để phát triển kinh tế, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng sẵn có
trên biển, phục vụ cho cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước trong
khi nguồn tài nguyên trên đất liền ngày càng cạn kiệt. Bởi vậy, trong tình hình
hiện nay chúng ta cần làm tốt một số nội dung cơ bản sau:
5.1 Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao hơn nữa nhận thức của các
cấp, các ngành, toàn dân và lực lượng vũ trang về vị trí vai trị, tầm quan
trọng chiến lược của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
20


Trên cơ sở quán triệt sâu sắc và quyết tâm thực hiện hiệu quả những quan
điểm, tư tưởng, mục tiêu về phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng - an ninh,
bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc trong tình hình mới,
cơng tác tuyên truyền, giáo dục trong nước cần được tiến hành thường xuyên,
làm cho các cấp, các ngành, toàn dân và lực lượng vũ trang nhận thức sâu sắc
về quan điểm, lập trường của Đảng và Nhà nước ta đối với các vấn đề liên quan
đến Biển Đông, đến các quần đảo, hải đảo của Việt Nam. Nội dung tuyên
truyền, giáo dục cần triển khai một cách tồn diện, trong đó tập trung vào mấy
vấn đề cơ bản:

Một là, tuyên truyền, giáo dục làm cho mọi người dân, nhất là đội ngũ
cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, các địa phương nắm vững các quan điểm
của Đảng trong phát triển kinh tế biển. Nhận thức rõ vùng biển, hải đảo, thềm
lục địa và ven biển là địa bàn chiến lược có vị trí quyết định đối với sự phát
triển của đất nước ta, kinh tế biển và kinh tế đất liền có liên quan chặt chẽ với
nhau, tác động và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển.
Hai là, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức, trách nhiệm công dân
trong việc quản lý, bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo. Biển, đảo là một địa bàn
chiến lược có tính chất đặc thù và có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nơi hằng ngày diễn ra công cuộc xây dựng và đấu
tranh rất phức tạp, căng thẳng, nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, quyền tài phán
quốc gia thiêng liêng của Tổ quốc. Vì vậy, nội dung giáo dục tăng cường quốc
phịng, an ninh trên biển, đảo đang đặt ra những yêu cầu mới, với sự chuẩn bị
kỹ càng về mặt tư tưởng, nhận thức và bảo đảm vật chất cho các lực lượng quốc
phòng, an ninh làm nhiệm vụ quản lý, thực thi pháp luật, bảo vệ chủ quyền và
lực lượng khai thác kinh tế biển, đảo. Về mặt tư tưởng, cần tuyên truyền, giáo
dục cho các cấp, các ngành, toàn dân và lực lượng vũ trang nhận thức sâu sắc
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là phát triển kinh tế biển, đảo phải đi đôi
với với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế biển là tạo
cơ sở, nền tảng xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng tồn
21


dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên biển, đảo ngày càng vững mạnh.
Ngược lại, chỉ có tăng cường quốc phòng, an ninh tốt mới quản lý, bảo vệ vững
chắc chủ quyền vùng biển, đảo, tạo điều kiện cho kinh tế biển phát triển, nhất là
ở vùng biển xa bờ.
Ba là, những thay đổi to lớn về địa vị chính trị, kinh tế, trật tự pháp lý
quốc tế diễn ra trên biển và đại dương, nhất là từ khi Công ước Liên hợp quốc
về Luật biển 1982 ra đời, cùng sự tăng cường mạnh mẽ các hoạt động khai thác

tiềm năng biển đã ngày càng nảy sinh nhiều vấn đề mới và mâu thuẫn về chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán, về quyền lợi và lợi ích giữa các
quốc gia; đồng thời nhu cầu về hợp tác cũng như đấu tranh trên biển giữa các
nước ngày càng lớn; hơn nữa, các vấn đề về biển, đảo có quan hệ trực tiếp đến
hầu hết các lĩnh vực của đời sống quốc gia trong mối quan hệ với các quốc gia
khác của cộng đồng quốc tế và luật pháp quốc tế, nên việc tuyên truyền góp
phần đẩy mạnh cuộc đấu tranh về pháp lý và ngoại giao, tạo dư luận quốc tế ủng
hộ Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo và quyền lợi quốc gia trên
biển là hết sức quan trọng. Năm 2010, Việt Nam lại phải hoàn thành trọng trách
là Chủ tịch ASEAN, nên việc tuyên truyền các quan điểm, lập trường của Đảng
và Nhà nước ta đối với các vấn đề liên quan đến Biển Đông, đến các quần đảo,
hải đảo của Việt Nam để bạn bè quốc tế hiểu rõ là rất cần thiết.
5.2. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại
giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng trong quản lý và bảo vệ quyền và chủ
quyền trên biển là nhiệm vụ quan trọng của quốc phòng, an ninh thời kỳ mới
Định hướng trên yêu cầu sớm luật hóa các vấn đề liên quan đến chủ
quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Kết hợp các hình thức, biện pháp đấu tranh,
trong đó đấu tranh quốc phịng có vai trị đặc biệt quan trọng. Đồng thời, kiên trì
đấu tranh ngoại giao dựa trên cơ sở luật biển quốc tế; kết hợp giải quyết tranh
chấp với quyền được khai thác trên biển trong các hiệp định đã được ký kết, giữ
vững chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên biển, không để xảy ra
xung đột vũ trang, tạo môi trường ổn định để xây dựng đất nước. Cần xây dựng
22


đầy đủ hồ sơ, căn cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền và quyền chủ quyền của
ta trên biển Đơng, bao gồm cả Hồng Sa và Trường Sa.
Để thực hiện được nội dung trên, trước hết, phải kết hợp chặt chẽ phát
triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh, quản lý, bảo vệ chủ quyền
vùng biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Đặc biệt nghiên cứu vận dụng mơ

hình kinh tế với quốc phịng trên biên giới đất liền gắn với xây dựng các khu
kinh tế - quốc phòng trên các đảo, mà các lực lượng vũ trang làm nòng cốt (Hải
quân, Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phòng và lực lượng vũ trang địa phương), vừa
tham gia phát triển kinh tế - xã hội thu hút ngày càng nhiều dân cư đến làm ăn,
sinh sống, vừa kết hợp củng cố quốc phòng, an ninh, quản lý và bảo vệ chủ
quyền vùng biển đảo của Tổ quốc.
Đẩy mạnh xây dựng sức mạnh quốc gia trên biển (các lực lượng kinh tế,
nghiên cứu khoa học, quốc phòng, an ninh, đối ngoại) tương xứng với tầm quan
trọng của biển. Tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh trên
biển, nhất là xây dựng lực lượng Hải qn, Phịng khơng - Khơng qn vững
mạnh, đủ sức hồn thành nhiệm vụ và là lực lượng nịng cốt trong quản lý và
bảo vệ chủ quyền an ninh trên biển.
Tăng cường quản lý nhà nước trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc, phát
huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các ngành thuộc trung ương và địa
phương có liên quan để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển, đảm bảo
quản lý thống nhất, có phân cơng, phân nhiệm rõ ràng, có cơ chế phối hợp tốt,
khắc phục tình trạng phân tán, cục bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất,
khai thác, hoạt động trên biển của nước ta và giao lưu quốc tế.
5.3. Nghiên cứu xây dựng Luật về Các vùng biển Việt Nam tạo cơ sở pháp lý
cho quản lý và bảo vệ biển
Hiện nay, hệ thống pháp luật về biển của ta còn bộc lộ một số tồn tại. Đó
là: trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về biển hiện nay cịn nhiều loại
hình thức văn bản, chủ yếu là các văn bản điều chỉnh các quy phạm pháp luật về
các lĩnh vực chuyên ngành, vừa phân tán vừa chồng chéo lẫn nhau, gây khó
khăn cho việc áp dụng thực tiễn. Chúng ta chưa có một văn bản có tính pháp lý
23


×