Trường Đại học Giao Thông Vận Tải Thành Phố Hồ Chí Minh
Khoa Kinh Tế Vận Tải
Bài Tiểu Luận
Mơn: Kinh Doanh Quốc Tế
Đề tài: Phân Tích Mơi Trường Kinh Doanh tại Việt Nam
Giáo Viên : Nguyễn Thúy Hà
Sinh viên : Trần Anh Tài
Lớp QL13A
MSSV:1354030053
Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 5 năm 2016
MỤC LỤC
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chương I, Mơi trường chính trị xã hội
1, Dân số
1.1.1, Quy mô và tốc độ tăng dân số
1.1.2 Cơ cấu dân số: Theo độ tuổi giới tính
1.1.3 Thực trạng nguồn nhân lực
1.2. Một số điểm hạn chế, yếu kém trong chính trị- xã hội
1.3. Giáo dục, đào tạo
1.4. Những yếu tố rủi ro xã hội khác
Chương II, Môi trường pháp luật-pháp lý
2.1, Mơi trường hành chính Việt Nam
2.1.1
2.1.2
2.1.3
Một số điểm về thủ tục hành chính
Thủ tục đăng kí thành lập doanh nghiệp
Trong lĩnh vực hải quan
2.2. Môi trường pháp lý
2.2.1 Luật đầu tư
2.2.2 Luật đất đai
2.2.3 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
Chương III, Mơi trường văn hóa
3.1 Văn hóa dân tộc
3.2 Văn hóa thơng tin VH-TT
3.3 Văn hóa kinh doanh
Kết Luận
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cùng với xu thế hội nhập toàn cầu của thế giới, việc hợp tác và kinh doanh
quốc tế là một điều vô cùng quan trọng trong nền kinh tế chậm phát triển như
Việt Nam . Việc hợp tác và kinh doanh quốc tế có rất nhiều lợi ích như: giúp thay
đổi cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng có hiệu quả, giúp giải quyết những vẫn
đề khó khăn về kinh tế xa hội trong nước…
Môi trường kinh doanh là một cơ sở rất quan trọng để các nhà đầu tư lựa
chọn quốc gia tiếp nhận vốn phù hợp và mang đến lợi nhuận cao nhất cho mình.
Việt Nam, với những lợi thế so sánh sẵn có cùng với chính sách mở cửa hội nhập
của Đảng và Nhà nước, đã trở thành một quốc gia có mơi trường kinh doanh hấp
dẫn với nước ngòai. Tuy nhiên, nước ta vẫn phải đang đối mặt với những tồn tại
cần khắc phục của môi trường kinh doanh. Do đó, mục tiêu của đề tài chính là
nghiên cứu và đánh giá các khía cạnh trong mơi trường kinh doanhcủa Việt Nam,
tìm hiểu những bài học kinh nghiệm về đầu tư quốc tế của nước ngoài. Từ đó rút
ra bài học và những giải pháp cần phải thực hiện tiến tới hịan thiện mơi trường
kinh doanh quốc tế tại Việt Nam.
Tuy nhiên để thu hút được nguồn vốn đầu tư từ nước ngồi thì điều quan
trọng nhất mà nhà nước và doạnh nghiệp cần hợp tác đó là tạo ra một môi trường
đầu tư thuận lợi nhất, điều chỉnh hệ thống pháp luật ngày càng hiệu quả hơn
đồng thời phải đánh giá được hiện trạng của môi trường nước ta hiện nay để có
hướng đi thích hợp.
Chương I. Mơi trường chính trị xã hội
1.1, Yếu tố dân số:
1.1.1, Quy mô và tốc độ tăng dân số
2h45 sáng 1/11/2013 Việt Nam đón cơng dân thứ 90 triệu.
Với quy mô dân số như vậy, Việt Nam là quốc gai đông dân thứ 13 trên thế giới và
đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á, tốc độ tăng dân số tuy đã giảm nhiều song
quy mô dân số cịn khá lớn, đồng thời là nước nằm trong nhóm các nước có mật
độ dân số cao nhất thế giới.
Dân số Việt Nam sẽ đạt đỉnh vào năm 2050 và sẽ giảm dần sau đó. Đến năm 2025,
dân số Việt Nam đạt con số 100 triệu và sẽ đạt tối đa vào năm 2050 với 104 triệu.
Dự báo cho thấy sau năm 2050, dân số sẽ giảm dần đến năm 2100 là khoản 83
triệu tương đương với dân số năm 2005.
1.1.2 Cơ cấu dân số: Theo độ tuổi giới tính
Nhìn vào tháp dân số ta thấy dân số Việt Nam đang già hóa, tỉ lệ nam từ 15-28 cao
hơn các nhóm tuổi cịn lại của nam.
Năm 2016 số nam 43,92 triệu người tăng 1,09%; dân số nữ 44,86 triệu người tăng
1,04%.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2016 là 52,58 triệu người, tăng 2,3% so
với năm 2015, trong đó lao động nam chiếm 51,3%; lao động nữ chiếm 48,7%. Lao
động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2016 là 51,69 triệu người, tăng 2,7% so
với năm 2015.
Số người trong độ tuổi lao động lớn.
1.1.3 Thực trạng nguồn nhân lực
Đào tạo: Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều
này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo
nhân lực. Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng
là 2.058.922 người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường trung
cấp chuyên nghiệp là 421.705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo
ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa đồng nhất,
chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của
Nhà nước và xã hội.
Về trình độ chun mơn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ lực
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3
lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3%
đối với nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao (từ đại
học trở lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm 2010 là
5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ).
Từ những phân tích về yếu tố dân số ở Việt Nam, ta rút ra được những cơ
hội và thách thức đối với doanh nghiệp như sau:
Cơ hội
1. Nhu cầu lớn ( quy mô dân số lớn)
2. Nguồn lao động dồi dào, chất lượng nguồn lao động ngày
càng được nâng cao ( tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao,
nhà nước chú trọng phát triển trình độ nguồn nhân lực)
3. Dân số tập trung chủ yếu ở các thành thị và ngày càng có xu
hướng gia tăng
Thách thức
1. Dân số Việt Nam đang già hóa
2. Thị trường Việt Nam hấp dẫn thu hút nhiều doanh nghiệp
trong và ngoài nước khiến cho sự cạnh tranh trên thị trường ngày
càng khốc liệt cạnh tranh sản phẩm.
1.2. Một số điểm hạn chế, yếu kém trong chính trị- xã hội
Kiềm chế lạm phát vẫn chưa vững chắc, sức ép lạm phát cịn rất lớn, kinh tế vĩ mơ
ổn định nhưng còn nhiều tiềm ẩn, chưa vững chắc; tái cơ cấu gắn với 3 khâu đột
phá mặc dù đã tích cực thực hiện nhưng vẫn cịn chậm; mơi trường đầu tư kinh
doanh còn bị kêu ca, còn nhiều thủ tục lạc hậu, rườm rà, nhũng nhiễu; hạ tầng còn
yếu kém; thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao.
¬ Về tình trạng tham nhũng của Việt Nam Mức độ tham nhũng và sự quan
liêu của bộ máy điều hành có thể làm tăng chi phí hoạt động của nhà đầu tư. Do
đó tính minh bạch trong quản lý nhà nước của chính phủ nước nhận đầu tư luôn
là yếu tố mà nhà đầu tư cân nhắc, tìm hiểu kỹ lưỡng. Việt Nam là một trong số
những nước có nạn tham nhũng cao trên thế giới. Dù hiện nay đang có một số cải
thiện nhưng chưa thật sự đáng kể. Theo tổ chức minh bạch quốc tế (TI) thì năm
2011 Việt Nam được 2.9 trong thang điểm 10, đứng vị trí thứ 112 trong tổng số
176 nước. đến năm 2012 thì chỉ số này tăng lên 3.1, nhưng lại tụt xuống 11 bậc,
đứng vị trí thứ 123/176 nước. điều này chứng tỏ mơi trường Việt Nam cịn kém
minh bạch chưa có những cải thiện hiệu quả.
1.3. Giáo dục, đào tạo
Cuối năm 2015, cả nước có 60/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt
chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, trong đó 03 tỉnh/thành phố đã
được cơng nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2 và
63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung
học cơ sở. Cả nước có 215 trường đại học, trong đó 187 trường cơng lập; 204
trường cao đẳng, trong đó 150 trường cơng lập; 295 trường trung cấp chuyên
nghiệp. Tổng số sinh viên đại học, cao đẳng của cả nước là trên 2,2 triệu sinh viên;
số học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 623 nghìn học sinh. Cả nước có 142 trường
cao đẳng nghề, 316 trường trung cấp nghề, 850 trung tâm dạy nghề. Số học sinh
học nghề được tuyển mới trong năm nay là 1,9 triệu lượt người, trong đó cao
đẳng nghề và trung cấp nghề là 0,4 triệu lượt người; sơ cấp nghề 1,5 triệu lượt
người.
1.4. Những yếu tố rủi ro xã hội khác
Theo báo cáo, thiên tai xảy ra trong năm 2014 đã làm hơn 700 người chết, mất
tích và bị thương; hơn 100 nghìn ngơi nhà bị hư hỏng, cuốn trơi; hơn 80 nghìn ha
lúa và hoa màu bị mất trắng; gần 300 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng.
Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong năm 2014 ước tính trên 7 nghìn tỷ
đồng, trong đó Thái Bình thiệt hại khoảng 1,4 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 20% tổng
giá trị thiệt hại của cả nước. Theo báo cáo sơ bộ, tổng số tiền mặt cứu trợ các địa
phương bị ảnh hưởng thiên tai trong năm là gần 8,3 tỷ đồng. Tình trạng chặt phá
rừng lan rộng khiến diện tích rừng ngày càng giảm, những chính sách bảo vệ rừng
lỏng lẻo khiến người dân có thể lợi dụng chặt phá phục vụ mục đich trồng trọt, có
đất. Các sinh vật quý hiếm bị khai thác, săn bắn bừa bãi, nguồn sinh vật biển bị
khai thác quá mức gây ra tình trạng suy thối mơi trường biển. Việc giải quyết ơ
nhiễm mơi trường còn chậm như ở HàNội và TP HCM, nguồn nước thải trực tiếp
ra sông gây ra ô nhiễm nước nghiêm trọng. Trên thế giới thì Trung Quốc đã vượt
qua Nhật Bản và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Sự thành công này của
Trung Quốc đã giúp cho hàng trăm triệu người dân Trung Quốc thoát khỏi đói
nghèo. Bên cạnh đó, Ấn Độ được đánh giá là nền kinh tế năng động và đang kiến
tạo bước ngoặt lớn nhờ những sáng tạo trong kinh doanh và đổi mới chính sách
xã hội. Brazil đã trở thành một động lực lớn cho sự tăng trưởng của các nước Nam
bán cầu bởi các chương trình xố đói giảm nghèo và giảm bớt bất bình đẳng giới.
“Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan, Nam Phi, Mexico, Indonesia và các quốc gia đang phát triển
năng động khác đang đóng vai trị chính trên vũ đài thế giới ngày hôm nay. Các
quốc gia này là bài học quan trọng về chính sách và quan hệ đối tác mới cho các
nước Nam bán cầu cũng như cho toàn thế giới, kể cả các quốc gia kém phát triển
nhất”
Chương 2: Mơi trường hành chính- pháp lý
2.1, Mơi trường hành chính Việt Nam
2.1.1
Một số điểm về thủ tục hành chính
Hiện nay, nhà nước ta chủ trương giảm TTHC cho nhà đầu tư nước ngoài để thu
hút vốn đầu tư. Đây là chủ trương đơn giản hóa thủ tục, minh bạch hóa trong
quản lý của nhà nước ta.
¬Những điểm tích cực trong TTHC
• Cơng khai, minh bạch hóa các quy đinh về TTHC.
• Việt Nam đã xây dựng bộ TTHC thuộc 4 cấp chính quyền để cơng bố, cơng khai
trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC với hơn 5400 TTHC thuộc thẩm quyền giải
quyết của các cấp chính quyền được quy định trong tổng số trên 9.000 văn bản
pháp luật.
• Các quy định mới về TTHC được các bộ, ngành, địa phương phối hợp với Văn
phịng Chính phủ thường xuyên cập nhật. Hiện nay dữ liệu được công khai tại
CSDLQG là 102.911 hồ sơ TTHC và 9.855 hồ sơ văn bản có liên quan, trong đó, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đã công bố, công khai 52 TTHC thuộc lĩnh vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC số lượng truy cập để khai thác
CSDLQG ngày càng tăng, chỉ trong Quý II/2014 số lượng truy cập là hơn 560 nghìn
lượt.
• Rà sốt, đơn giản hóa quy định TTHC
Những điểm đạt được do chính sách cải cách TTHC trong những năm qua
Nhận thức của người dân, doanh nghiệp, cán bộ, công chức nhà nước về TTHC
và cải cách TTHC đã được nâng cao. Các tổ chức chính trị-xã hội, cộng đồng
doanh nghiệp và người dân đã tham gia một cách tích cực trong q trình rà
sốt các TTHC hiện hành và phản biện các quy định mới về TTHC với tư cách là
đối tượng chịu tác động. Cộng đồng quốc tế và các nhà đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong việc cải thiện môi trường
kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư thông qua việc thực
hiện công tác cải cách TTHC, nhất là về kết quả đơn giản hóa TTHC và thực hiện
công khai minh bạch TTHC thuộc tất cả các lĩnh vực ở các cấp chính quyền trên
cả nước.
Những điểm cịn hạn chế trong TTHC
• Quy định TTHC cịn thiếu tính đồng bộ, nhiều quy định về TTHC chưa đạt yêu
cầu về tính rõ ràng, minh bạch, nhất là các quy định về yêu cầu, điều kiện của
TTHC. Nhiều văn bản có quy định TTHC nhưng khơng xác định rõ các bộ phận
tạo thành thủ tục, dẫn đến khó cơng bố, công khai và áp dụng trên thực tế.
Một số quy định về TTHC vẫn còn mang dấu ấn của cơ chế quản lý cũ, rườm rà,
phức tạp, không phù hợp với điều kiện thực tiễn.
• Việc rà sốt, đánh giá TTHC cịn nặng tính hình thức, chưa khoa học, thiếu
khách quan... Do đó, cơng tác phát hiện, đềxuất loại bỏ hoặc sửa đổi TTHC
chưa thật sự hiệu quả.
• Nhiều cơ quan Nhà nước chưa chấp hành đúng các quy định về việc tiếp
nhận và giải quyết cơng việc, vẫn cịn tình trạng gây khó khăn, phiền hà cho
người dân, doanh nghiệp chưa bố trí cán bộ có phẩm chất, đủ trình độ làm
cơng việc tiếp nhận và giải quyết cơng việc. Khơng ít cơng chức có thái độ thiếu
tơn trọng nhân dân, cửa quyền, ban ơn, thậm chí sách nhiễu, địi hối lộ. Vì vậy,
tâm lý ngại tiếp xúc với cơ quan hành chính nhà nước của người dân vẫn chưa
được cải thiện
2.1.2 Thủ tục đăng kí thành lập doanh nghiệp
Theo bảng báo cáo của World Bank,một doanh nghiệp sẽ phải làm tổng cộng 10
thủ tục, tổng thời gian để làm xong thủ tục mở một doanh nghiệp tốn là 34 ngày
và chi phí cho các thủ tục này là lần 9% thu nhập trên đầu người. dưới đây là biểu
đồ tổng kết thời gian, chi phí cho việc làm thủ tục mở công ty ở Việt Nam
So với các nước trên thế giới, Việt Nam đứng thứ 108 về chỉ số dễ dàng bắt đầu
một doanh nghiệp. điều đó cho thấy thủ tục đăng kí kinh doanh của Việt Nam cịn
rườm rà, phức tạp, có thể gây khó khăn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi, từ đó hạn chế khả năng thu hút vốn đầu tư của mình. Ta có biểu đồ minh
họa dưới đây.
2.1.3 Trong lĩnh vực hải quan
Việt Nam Khi Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế quốcc tế và khu vưc thì
việc xây dựng cơ chế một cửa là một yêu cầu tất yếu, vừa đáp được cam kết trong
Hiệp định thư và Nghị định thư về thiết lập Cơ chế một cửa ASEAN (ASW) vừa tạo
ra một công cụ tiên tiến cho cộng đồng thương mại và các cơ quan quản lý. Theo
“Kế hoạch tổng thể triển khai cơ chế một cửa quốc gia và tham gia cơ chế một cửa
ASEAN giai đoạn 2010-2014”, Cơ chế một cửa quốc gia Việt Nam là hệ thống tích
hợp cho phép các bên tham gia hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, q cảnh
nộp/gửi thơng tin và chứng từ chuẩn hóa tới một điểm tiếp nhận duy nhất; các cơ
quan chính phủ xử lý dữ liệu, thông tin và ra quyết định dựa trên hệ thống các quy
trình, thủ tục thống nhất và đồng bộ; ra quyết định và gửi quyết định này tới hệ
thống dựa trên thỏa thuận cung cấp và trao đổi thông tin thống nhất giữa các cơ
quan chính phủ; cơ quan hải quan ra quyết định cuối cùng về việc thơng quan và
giải phóng hàng hóa xuất khẩu/nhập khẩu/quá cảnh; phương tiện vận tải xuất
cảnh/nhập cảnh/quá cảnh căn cứ trên các quyết định của các cơ quan chính phủ
có liên quan được hệ thống chuyển tới một cách kịp thời dựa trên quy định về
cung cấp dịch vụ cơng của các cơ quan chính phủ.
Vậy Cơ chế một cửa quốc gia Việt Nam sẽ là một hệ thống liên kết giữa sáu thành
phần chính trong hoạt động vận tải và thương mại quốc tế, bao gồm:
• Cơ quan Hải quan: chịu trách nhiệm về thông quan và giải phóng hàng hóa xuất
khẩu/nhập khẩu/quá cảnh; phương tiện vận tải xuất cảnh/nhập cảnh/q cảnh.
• Các cơ quan chính phủ tham gia quản lý nhà nước về hoạt động vận tải, thương
mại quốc tế. • Các thể chế tài chính, ngân hàng, cơ quan bảo hiểm.
• Cộng đồng vận tải, giao nhận.
• Cộng đồng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu...
• Các thành viên ASEAN và các đối tác thương mại khác trên toàn cầu.
2.2. Mơi trường pháp lý
Vì q trình đầu tư có liên quan rất nhiều đến các hoạt động của các tổ chức, cá
nhân và được tiến hành trong thời gian dài nên các nhà đầu tư nước ngồi rất cần
có một môi trường pháp lý hợp lý và ổn định của nước nhận đầu tư.
Một môi trường pháp lý được coi là hấp dẫn nếu có các chính sách, qui định hợp
lý và tính hiệu lực cao trong thực hiện. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng
không chỉ để đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư nước ngồi mà cịn là những
cơ sở cần thiết cho họ tính tốn làm ăn lâu dài ở nước nhận đầu tư.
2.2.1 Luật đầu tư
Luật đầu tư số 59/2005/QH11 được Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam thơng qua ngày 29/11/2005 có hiệu lực ngày 1/7/2006 gồm 10
chương, chứa đựng 89 điều khoản, được tóm tắt qua tên các chương như sau :
Chương 1: Những qui định chung
Chương này có 5 điều, nêu lên phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của luật
đầu tư, giải thích các ngữ, chính sách về đầu tư, vấn đề áp dụng luật đầu tư, điều
ước Quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế.
Ngay tại điều 1 của luật này có ghi: “Luật này quy định về hoạt động đầu tư nhằm
mục đích kinh doanh; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của nhà đầu tư; khuyến khích và ưu đãi đầu tư; quản lý nhà nước về
đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.Ngay điều này đã thể
hiện Việt Nam rất chú trọng khuyến khích đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngồi.
Chương 2: Đảm bảo đầu tư
Chương này gồm có 8 điều nêu lên các vấn đề về
Đảm bảo vốn và tài sản cho nhà đầu tư: nhà nước sẽ khơng quốc hữu
hóa vốn đầu tư và tài sản hợp pháp trừ những trường hợp đặc biệt.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: Việt Nam cam kết bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ, chống những hành vi vi phạm.
Luật cam kết mở cửa thị trường thực hiện các biện pháp thương mại:
Việt Nam cam kết sẽ mở của thị trường theo đúng cam kết và không bắt
buộc các nhà đầu tư phải thực hiện các yêu cầu về xuất khẩu hàng hóa hay
mua sản phẩm dịch vụ nội địa…
Đề cập đến chuyển vốn và tài sản ra nước ngoài: Sau khi thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam, nhà đầu tư nước
ngoài được chuyển ra nước ngoài các khoản theo quy định.
Vấn đề áp dụng giá, phí, lệ phí thống nhất giữa nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài;
Đề cập việc đảm bảo đầu tư trong trường hợp thay đổi luật, chính
sách mới gây bất lợi cho nhà đầu tư: nhà nước Việt Nam ln đảm bảo lợi
ích của nhà đầu tư khi có sự thay đổi về luật hay chính sách. Điều này giúp
các nhà dầu tư tránh những rủi ro có thể gặp sau này.
Ngồi ra cịn đề cập đến việc giải quyết tranh chấp có liên quan đến
hoạt động đầu tư của Việt Nam.
Chương 3 : Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư
Chương này chứa đựng 8 điều khoản, nêu các vấn đề: Quyền tự chủ đầu tư,
kinh doanh ; Quyền tiếp cận, sử dụng nguồn lực đầu tư; Nêu rõ: Quyền xuất khẩu,
Nhập khẩu, quảng cáo, tiếp thị, gia công và gia công lại liên quan đến hoạt động
đầu tư; Quyền mua ngoại tệ; Quyền chuyển nhượng điều chỉnh vốn hoặc dự án
đầu tư; Nêu: về thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, các quyền
khác và nêu rõ nghĩa vụ của Nhà đầu tư theo luật định.
Chương 4: Hình thức đầu tư
Chương này chứa đựng 6 điều khoản nêu về các vấn đề: 7 hình thức đầu tư
trực tiếp; vấn đề đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư theo hợp đồng; đầu tư
phát triển kinh doanh, đầu tư gián tiếp.
7 hình thức đầu tư trực tiếp là :
1.Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc
100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
2.Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và
nhà đầu tư nước ngoài
3.Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp
đồng BT.
4.Đầu tư phát triển kinh doanh.
5.Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
6.Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp
7.Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
Chương 5: Lĩnh vực, địa bàn đầu tư, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư
Đây là chương dài, chứa đựng đến 18 điều khoản, đề cập đến các vấn đề
sau:
- 7 lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư
- 2 nhóm địa bàn ưu đãi đầu tư - Các lĩnh vực đầu tư có điều kiện
- 4 nhóm dự án bị cấm đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam
- Vấn đề ban hành đanh mục các lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư: điều
kiện để được ưu đãi, ưu đãi thuế, ưu đãi về sử dụng đất, ưu đãi khi hoạt động tại
khu công nghiệp, khu chế xuất; thủ tục để thực hiện ưu đãi đầu tư.
- Ngồi ra, chương cịn nêu rõ các hình thức hỗ trợ đầu tư: Hỗ trợ chuyển
giao công nghệ, Hỗ trợ đào tạo, Hỗ trợ và khuyến khích dịch vụ đầu tư…
- Nêu vấn đề thị thực xuất nhập cảnh đối với Nhà đầu tư nước ngoài.
Chương 6: Hoạt động đầu tư trực tiếp
Chương này có 21 điều khoản, nêu các nội dung chủ yếu: Thủ tục đăng kí
đầu tư đối với nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Chương 7: Đầu tư kinh doanh vốn doanh nghiệp nhà nước
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam trong luật đầu tư có chương điều chỉnh
hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Ở chương 7 có 7 điều khoản
nói về cách thức quản lý kinh doanh ở các dự án có vốn của nhà nước.
Chương 8: Đầu tư ra nước ngoài
Cũng lần đầu tiên trong lịch sử kinh tế Việt Nam vấn đề đầu tư ra nước
ngoài cũng được thể chế hóa dưới dạng luật. Ở chương này có 6 điều khoản với
các nội dung chính là:
- Lĩnh vực khuyến khích và cấm đầu tư ra nước ngồi
- Quy định những điều kiện để được đầu tư ra nước ngoài
- Nêu quyền lợi và nghĩa vụ của nhà đầu tư ra nước ngoài
- Thủ tục để thực hiện đầu tư ra nước ngoài
Chương 9: Quản lý nhà nước về đầu tư
Chương này có 8 điều khoản nêu rõ các vấn đề
- Nội dung của quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư
- Trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư: Quản lý quy hoạch, xúc tiến đầu
tư, theo dõi đánh giá hoạt động đầu tư…vấn đề khiến nại khiếu tố và xử lí vi phạm
có liên quan đến hoạt động đầu tư
Chương 10: Điều khoản thi hành
Chương này có 2 điều khoản nên rõ 2 nội dung
- Vấn đề áp dụng Luật đầu tư này đối với các dự án được cấp giấy phép
trược khi Luật Đầu tư này ra đời
- Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày 1/7/2006
Qua một số nét cơ bản về luật đầu tư Việt Nam ta thấy vấn đề thu hút đầu
tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài được nước ta chú trọng vì khi được đầu tư từ
nước ngồi, kinh tế nước ta sẽ phát triển nhanh hơn. Ta thấy luật pháp của nước
ta khá ổn định, ít thay đổi từ năm 2005 cho đến nay. Điều này cũng tạo điều kiện
thuận lợi, giúp cho các nhà đầu tư yên tâm khi đầu tư ở đây vì luật pháp ít biến
động, hoạt động kinh doanh ít bị rủi ro hơn.
Tuy nhiên vì tình hình kinh tế thay đổi nhanh chóng, cần sửa đổi bổ sung
cho phù hợp với mơi trường kinh doanh hiện tại để việc quản lý hiệu quả hơn.
2.2.2 Luật đất đai
Luật Đất đai 2003 đã mở rộng nhiều quyền cho các nhà đầu tư nước ngoài,
cụ thể như: được lựa chọn hình thức thuê đất, đặc biệt là thuê đất trả tiền thuê
một lần cho cả thời gian thuê (lợi thế hơn các doanh nghiệp trong nước); được
thuê đất từ nhiều chủ thể khác nhau; các dự án có 100% vốn nước ngoài đều
được áp dụng cơ chế Nhà nước thu hồi đất,…
¬ Tác động tích cực
Theo quy định hiện hành, các quyền của người sử dụng đất được mở rộng và
được Nhà nước bảo đảm thực hiện đã làm cho người sử dụng đất gắn bó hơn với
đất đai, yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh để tăng hiệu quả sử dụng
đất, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài; việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã được quan tâm chỉ
đạo thực hiện. Thị trường bất động sản trong đó có quyền sử dụng đất đã tạo lập
được cơ chế hoạt động, phát triển tương đối đồng bộ. Chính sách tài chính đất
đai từng bước được hồn thiện theo hướng tiếp cận cơ chế thị trường, đưa đất
đai trở thành nguồn nội lực, nguồn vốn để phát triển đất nước.
Chính sách đất đai nói chung mà chủ yếu là Luật Đất đai năm 2003 đã quy định áp
dụng cơ chế một giá đất phù hợp với giá đất trên thị trường trong điều kiện bình
thường; xố bỏ cơ chế “xin-cho” về đất tạo điều kiện cho thị trường chuyển
quyền sử dụng đất hoạt động, thu hút vốn đầu tư của toàn xã hội và vốn đầu tư
nước ngoài để đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội ở đô thị cũng như nơng thơn;
hình thành hệ thống quản lý cơng khai, minh bạch trên cơ sở hệ thống đăng ký
đất đai thống nhất và các trình tự thủ tục hành chính rất rõ ràng; cơng khai hố từ
khâu quy hoạch sử dụng đất, cách tiếp cận quỹ đất để thực hiện dự án đầu tư,
trình tự bồi thường, hỗ trợ, tái định cư giải phóng mặt bằng; xử lý đúng bản chất
giá trị của việc chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích sản xuất kinh
doanh phi nơng nghiệp, bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư và quyền lợi của người
bị thu hồi đất, tạo được cơ chế bình đẳng thực sự giữa nhà đầu tư trong nước và
nhà đầu tư nước ngoài trong thực hiện các dự án phát triển bất động sản nhà ở.
Cơ chế đấu giá quyền sử dụng đất và đấu thầu dự án có sử dụng đất đã từng bước
hạn chế được bất cập trong việc giao đất; bảo đảm công khai và minh bạch. Sự kết
hợp hài hịa giữa chính sách tài chính đất đai với chính sách đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài đã giải quyết những vướng mắc về lợi ích giữa nhà nước với
nhà đầu tư; ổn định chi phí về đất đối với doanh nghiệp. Số liệu thống kê tình hình
sử dụng đất có vốn đầu tư nước ngồi thời kì 2005-2015 cụ thể như sau: Tổng
diện tích đất có vốn đầu tư nước ngồi đã tăng từ 35.068 ha năm 20010 lên
55.788 ha vào năm 2015, trong đó có 36.530 ha đất do các nhà đầu tư 100% vốn
nước ngoài. Bao gồm: đầu tư vào các khu công nghiệp năm 2005 là 4.285 ha, đến
năm 2010 tăng lên 5.196 ha và đến năm 2015 tăng mạnh đạt 12.317 ha; đầu tư
vào đất ở tại đô thị năm 2005 chỉ có 1 ha, nhưng đến năm 2005 đã đạt con số 405
ha và năm 2015 là 437 ha; đầu tư vào các cơ sở sản xuất kinh doanh: năm 2005 là
1.483 ha, năm 2005 đạt 4.768 ha và năm 2015 là 6.551 ha.
¬ Hạn chế
Bên cạnh những tác động tích cực thì chính sách đất đai vẫn tồn tại những hạn
chế nhất định làm ảnh hưởng đến thu hút đầu tư FDI, cụ thể như sau:
• Về giao đất, cho thuê đất: quy định hiện nay chỉ cho phép nhà đầu tư nước
ngoài được quyền lựa chọn hình thức thuê đất là chưa bình đẳng trong hồn cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời khó khăn trong việc xử lý cơ chế tài chính khi
nhà đầu tư thực hiện các dự án nhà ở để bán.
• Cơng tác thu hút đầu tư chậm do thiếu quỹ đất “sạch” hoặc tiến độ giải phóng
mặt bằng khó khăn kéo dài, nên tỷ lệ giải ngân vốn đăng ký ở nhiều địa phương
cịn thấp. Bên cạnh đó việc triển khai các quy định về đấu giá quyền sử dụng đất
và đấu thầu dự án cịn hạn chế.
• Pháp luật hiện nay chưa cho phép nhà đầu tư được thế chấp quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất tại ngân hàng ở nước ngoài, điều này cũng khó khăn cho
doanh nghiệp, đặc biệt đối với trường hợp doanh nghiệp đầu tư lớn cả về giá trị
quyền sử dụng đất và tài sản trên đất, rất cần vốn để mở rộng sản xuất. Vấn đề
này cũng làm hạn chế thu hút dịng tài chính từ các tổ chức tín dụng nước ngồi
vào Việt Nam.
2.2.3 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
Nước ta đã ban hành ra luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và có bổ sung theo số Số
36/2009/QH12 trong kì họp thứ 8, Quốc Hội khóa XI. Văn bản luật này đã quy định
những điều liên quan đến sở hữu trí tuệ, bản quyền, nâng cao tính cơng bằng,
minh bạch trong quản lí nguồn tài sản vơ hình này. Khi quyết định đầu tư vào một
đất nước, đặc biệt là đầu tư về công nghệ thì đây là một vấn đề mà các nhà đầu tư
rất quan tâm. Vì nếu quyền này bị xâm phạm có thể gây ra thiệt hại rất lớn cho
nhà đầu tư. Trước hết ta điểm qua nội dung của luật sở hữu trí tuệ đã có bổ sung
năm 2009 như sau:
Bộ luật này có 6 phần, 222 điều quy định cụ thể các vấn đề sau
Phần thứ nhất: Những quy định chung (Điều 1 - 12)
Phần thứ hai: Quyền tác giả và Quyền liên quan (Điều 13 - 57)
Phần thứ ba: Quyền sở hữu công nghiệp (Điều 58 - 156)
Phần thứ tư: Quyền đối với giống cây trồng (Điều 157 - 197)
Phần thứ năm: Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (Điều 198 - 219)
Phần thứ sáu: Điều khoản thi hành (Điều 220 - 222)
Những quy định trong vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được nhà
nước ta quy định như sau: những cá nhân, tổ chức nào bị thiệt hại hoặc có
nguy cơ bị thiệt hại do bị vi phạm quyền sở hữu trí tuệ thì có thể tự bảo vệ
bằng cách u cầu cơ quan có chức năng xử lí hành vi vi phạm. Các hình tức
xử phạt có thể nặng hay nhẹ tùy mức độ, có thể sử dụng biện pháp dân sự,
hành chính hay hình sự. mặc dù những quy định về sở hữu trí tuệ có mang
lại một số tích cực nhưng những mặt tiêu cực mà Việt Nam chưa làm được
cũng khá nhiều.
- Những thành công trong thực hiện quyền sở hữu trí tuệ: sau khi
Việt Nam gia nhập WTO, vấn đề sở hữu trí tuệ được quan tâm nhiều vì đây
là một cam kết của Việt Nam khi gia nhập vào WTO. Việt Nam thực hiện bảo
hộ quyền sở hữu được đăng kí bảo hộ, như thế giảm thiểu được tình trạng
vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
- Những hạn chế: không biết tự bảo vệ quyền SHTT của chính mình
cũng như việc vơ tình hay hữu ý vi phạm quyền SHTT của các đối tác, doanh
nghiệp khác ở nhiều khía cạnh khác nhau. Các cá nhân, tổ chức chua có ý
thức cao về thực hiện quyền này, chỉ luôn chú trọng vào lợi nhuận trước
mắt. Các cơ quan chính quyền có liên quan lại khơng chú trọng giải quyết
các vi phạm này mà để nó ngang nhiên diễn ra. Chính quyền vẫn chưa tuyên
truyền tốt luật này trong nhân dân. Những yếu kém này đã làm cho đất
nước chúng ta không đẹp trong mắt những nhà đầu tư, họ sẽ nghi ngờ rủi
ro bị vi phạm bản quyền, ăn cắp công nghệ. Ngồi ra nó cịn làm giảm uy tín
quốc gia trên trường thế giới.
** Đánh giá chung về môi trường pháp lý
Mặc dù pháp luật Việt Nam khá ổn định, không có nhiều sự thay đổi, những quy
định cũng có sửa dổi bố sung cho phù hợp; luật pháp Việt Nam ngày càng thơng
thống hơn, cơng bằng hơn và phù hợp với luật pháp quốc tế. Tạo điều kiện tốt
nhất cho các nhà đầu tư hoạt động, kinh doanh.
Tuy nhiên luật pháp Việt Nam cịn một số hạn chế sau:
• Cịn một số điểm chưa công bằng giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngồi
(Bất cơng bằng về th đất cho nhà đầu tư nước ngồi)
• Luật pháp Việt Nam còn chưa đồng bộ, một số điều luật chưa mở rộng, thơng
thống (chưa cho phép nhà đầu tư được thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất tại ngân hàng ở nước ngồi)
• Một số điều luật chưa thực hiện tốt (luật sở hữu trí tuệ)
Chương III, Mơi trường văn hóa
3.1 Văn hóa dân tộc
Bản sắc Văn hố Việt Nam được quy định bởi mơi trường sống với các đặc
điểm sau: Khu vực nhiệt đới nhiều sông nước, là điểm giao của nhiều nền văn
minh, là một trong các trung tâm sớm của loài người. Xuất phát từ các đặc điểm
địa lý và lịch sử trên, văn hoá Việt Nam gắn liền với các đặc thù của mình.
Nằm ở ngã ba của nền văn minh Trung Quốc, Ấn Độ và phương Tây (sau
này), tính giao lưu của văn hố Việt Nam thể hiện trong ngơn ngữ, văn tự (Hán
Nơm), trong hệ thống chính trị, trong tơn giáo-nghệ thuật...
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta đã khẳng định văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực để thúc đẩy kinh tế - xã
hội phát triển. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, mang nội dung cốt lõi là Độc lập dân tộc và CNXH, kết tinh
truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc vừa tiếp thu tinh hoa của văn hóa nhân
loại, khẳng định được tầm vóc, trình độ, bản lĩnh và bản sắc văn hóa Việt Nam
trong giao lưu và hợp tác quốc tế.
3.2 Văn hóa thơng tin VH-TT
Theo thống kê, ngành VH-TT sẽ mở cửa thị trường đối với tám dịch vụ mà
hầu hết liên quan đến mảng giải trí, nghe nhìn. Nói thế khơng có nghĩa là tám dịch
vụ trên sẽ “mở tung” để doanh nghiệp của tất cả các nước thành viên đều có thể
nhảy vào mà sẽ theo đúng lộ trình với các điều kiện khác đã ghi rõ trong cam kết:
8 dịch vụ được mở cửa thị trường liên quan đến lĩnh vực VH-TT gồm: Quảng cáo,
sản xuất phim, phát hành phim, chiếu phim, ghi âm, giải trí, kinh doanh trị chơi
điện tử và dịch vụ phân phối
• Đối với dịch vụ quảng cáo, kể từ khi gia nhập thì các nhà cung cấp dịch vụ
này ở nước ngồi được phép vào nhưng với hình thức tham gia hợp đồng hoặc
liên doanh với các đối tác VN đã được phép kinh doanh dịch vụ này, trong đó phần
vốn của phía nước ngồi khơng được vượt q 51%. Đến 1/1/2009 mới khơng
hạn chế tỷ lệ góp vốn của phía nước ngồi (lúc đó mới là “mở tung”).
• Đối với các dịch vụ sản xuất, phát hành, chiếu phim, phía nước ngồi cũng
phải vào dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh với đối tác
VN với tỷ lệ góp vốn khơng được vượt q 51%. Và hợp tác sản xuất phim, chiếu
phim… cũng khơng có nghĩa là muốn làm, muốn chiếu phim gì cũng được, mà tất
cả các phim đều phải được cơ quan có thẩm quyền của VN kiểm duyệt nội dung.
• Đối với các dịch vụ giải trí, bao gồm nhà hát, nhạc sống và xiếc cũng vậy.
Không phải là các đơn vị nước ngồi có thể thoải mái xây nhà hát mà phải đến
năm 2012 mới được thành lập liên doanh trong đó tỷ lệ vốn góp của phía nước
ngồi khơng vượt q 49%.
• Đối với dịch vụ phân phối, VN cam kết mở cửa dịch vụ này với các mặt
hàng, trong đó có các mặt hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành VH-TT, tuy nhiên
các mặt hàng “trọng yếu” là sách, báo, tạp chí và vật phẩm đã ghi hình thì đã được
loại trừ ra khỏi cam kết này.
Như vậy, có thể thấy rằng tốc độ “mở cửa” của ngành VH-TT là từ từ và có lộ
trình chắc chắn sẽ khơng thể dẫn đến nguy cơ “bóp chết” các dịch vụ về VH-TT
trong nước. Trái lại, nó sẽ trở thành “ngoại lực” cho các dịch vụ này phát triển.
Cịn đối với đơng đảo người dân - những đối tượng hưởng thụ văn hóa - thì có
thể thấy rằng sẽ khơng thể có một cú sốc nào đó đối với họ. Bộ mặt của đời sống
văn hố thời hội nhập khơng hề “Tây hoá” một cách đáng lo ngại như nhiều người
nghĩ. Bởi các lĩnh vực trọng yếu về văn hoá như văn hố - tư tưởng, truyền thơng,
và các văn hoá phẩm thuộc diện “nhạy cảm” vẫn được kiểm soát tốt. Các sản
phẩm mê tín dị đoan, đồi trụy, phản động, các loại đồ chơi trẻ em có hại tới giáo
dục nhân cách, sức khoẻ hoặc an ninh trật tự an tồn xã hội… sẽ khơng được phép
nhập khẩu vào VN.
3.3 Văn hóa kinh doanh
Về văn hóa kinh doanh, vẫn cịn một số bất cập của văn hóa kinh doanh
trong tiến trình hội nhập: Thứ nhất là cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thói quen tùy tiện.
Các doanh nghiệp Việt Nam vốn bị kém thế cạnh tranh trên thương trường quốc
tế do cung cách làm ăn manh mún, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà ít nghĩ đến
cục diện chung. Việc liên kết để đáp ứng những đơn đặt hàng lớn chỉ thuận lợi
trong những bước đầu, sau đó, các doanh nghiệp thường tìm cách xé lẻ, giành
riêng hợp đồng cho mình để rồi dẫn đến tình trạng ln nghi kỵ, đối phó lẫn nhau
và sẵn sàng giành giựt quyền lợi riêng cho cơng ty mình mà khơng nghĩ đến cục
diện chung. Nhiều doanh nghiệp khơng có khả năng tổ chức thực thi sản xuất và
kinh doanh ở qui mô lớn cho cùng loại sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Theo báo cáo mới nhất của UNDP về 200 doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam thì
chúng ta chưa có doanh nghiệp lớn tầm cỡ thế giới. Những doanh nghiệp hàng
đầu Việt Nam cũng chỉ mới tương đương với những doanh nghiệp vừa và nhỏ của
các nước phát triển.
Một hạn chế lớn khác đã bộc lộ rõ nét trong văn hóa kinh doanh của các
doanh nghiệp khi hội nhập là sự hạn chế về tầm nhìn cũng như khát vọng của các
doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam. Xuất thân từ nền kinh tế tiểu nông, con
người Việt Nam thường có tầm nhìn thấp, ngắn hạn, hay thay đổi và muốn đi
đường tắt, thay vì kiên nhẫn chờ đợi kết quả lâu dài. Muốn có và đạt được những
mục tiêu dài hạn, địi hỏi doanh nhân phải có tầm nhìn dài hạn. Vì khơng có tầm
nhìn dài hạn nên các doanh nhân Việt Nam thường không xây dựng mục tiêu dài
hạn và có kế hoạch đầu tư thích hợp. Đa số các doanh nhân khi lập doanh nghiệp
chỉ nghĩ đến việc xây dựng một công ty hàng đầu Việt Nam, ít khi nghĩ xa hơn tới
việc xây dựng các thương hiệu toàn cầu, tham gia vào giải quyết các bài tốn tiêu
dùng cho tồn thế giới. Có thể thấy được tầm nhìn của doanh nhân Việt Nam hiện
đang ở đâu qua bảng xếp hạng 200 doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam của Chương
trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) cơng bố: những doanh nghiệp được xem
là lớn nhất của Việt Nam chỉ gần tương đương với các doanh nghiệp nhỏ và vừa
trên thế giới, và các doanh nghiệp hàng đầu này cũng “phải còn rất lâu nữa mới
vươn tới được chuẩn quốc tế”. Cũng vì thiếu tầm nhìn nên doanh nghiệp không
đầu tư vào những vấn đề cốt lõi, lâu dài và lao theo xu hướng “ăn xổi”, đầu tư cả
vào những lĩnh vực khơng thuộc chun mơn của mình. Trong khi các doanh
nghiệp nước ngồi nỗ lực tìm kiếm cơ hội đầu tư và lợi ích kinh doanh dài hạn tại
Việt Nam thì nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam đang tìm kiếm lợi nhuận từ
các khoản đầu tư mang tính đầu cơ - như kinh doanh bất động sản, kinh doanh
chứng khoán - mà quên đi các lĩnh vực kinh doanh cốt lõi.
Theo nhiều nhà kinh doanh nước ngoài, các nhà kinh doanh Việt Nam
khơng coi trọng chữ tín, hay viện dẫn các lý do khách quan để khước từ việc thực
hiện cam kết, gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các đối tác nước ngoài. Từ cá
nhân đến cơ chế, phải đau lòng nhận ra là người Việt chưa tin người Việt. Nếu có
chọn lựa thì người Việt sẽ làm ăn với các công ty ngoại quốc, nhất là của Âu Mỹ,
hơn là Việt Nam. Đây là hiểm họa cho các cơ sở kinh tế Việt Nam về lâu về dài khi
mà các hiệp ước kinh tế mở cửa thị trường Việt Nam cho các cơ sở kinh tế Âu Mỹ
như ngân hàng, bảo hiểm, tín dụng, hàng không... ồ ạt vào kinh doanh ở Việt
Nam. Chừng nào các nhà quản lý và doanh nhân Việt Nam cịn chưa nhận ra tầm
quan trọng của chữ tín trong mọi mối quan hệ, thì chúng ta cịn khó lấy được
niềm tin của đối tác. Thậm chí, về lâu dài, sẽ có ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của
Việt Nam trên thị trường thế giới.
Ngoài những bất cập, trở ngại trên, trong văn hóa kinh doanh của người
Việt Nam, nhiều thói quen, cung cách làm ăn cũ, lạc hậu, tùy tiện vẫn đang tồn tại,
phong cách làm việc chuyên nghiệp và tính sáng tạo, sẵn sàng hợp tác chưa định
hình rõ nét. Sự gian dối trong kinh doanh vẫn còn tồn tại, khơng ít những doanh
nhân thẳng thắn bộc lộ, "bn bán thật thà thì chỉ có ăn cám", vì thế họ tìm mọi
cách trốn lậu, phi pháp, lách luật để làm ăn. Như đối với thủy sản xuất khẩu, có
doanh nghiệp đã thêm các hóa chất hoặc chất kháng sinh bị cấm vào để sản phẩm
thêm tươi mà thời gian gần đây đã bị phía Nhật Bản cấm nhập khẩu. Tất cả những
điều này tạo nên những rào cản, những bất cập khá lớn trong quá trình hội nhập
và thường gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các đối tác nước ngoài.
Kết Luận
** Những mặt tích cực của mơi trường kinh doanh Việt Nam
Một là, môi trường kinh doanh tại Việt Nam hiện nay khá hấp dẫn, an tồn
và có lợi thế lâu dài trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Hai là, công cuộc đổi mới, cải cách nền kinh tế theo hướng hội nhập, mở
cửa cả bên trong và bên ngồi đã tạo mơi trường kinh doanh ngày càng
thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Ba là, chính sách thu hút đầu tư trong và ngồi nước của Việt Nam có nhiều
ưu đãi, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài kinh
doanh có hiệu quả
** Những mặt hạn chế
Mặc dù đã có những bước phát triển mạnh mẽ song về cơ bản Việt Nam
vẫn là một nước nông nghiệp, quy mô của nền kinh tế cịn nhỏ bé, các cơ sở
cơng nghiệp và trình độ kỹ thuật - cơng nghệ cịn thấp, cơ cấu kinh tế còn
chuyển biến chậm, hiệu quả đầu tư chưa cao, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội còn chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển.
Việt Nam có lợi thế về giá nhân cơng rẻ nhưng lại thiếu thốn nguồn nhân
lực có trình độ cao do hệ thống giáo dục đào tạo chưa đáp ứng được những
nhu cầu về nguồn nhân lực và do nạn chảy máu chất xám ra nước ngoài.
Cơ sở hạ tầng của Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều hạn chế và yếu kém gây
cản trở cho các nhà đẩu tư. Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải trên cả bốn
phương thức vận chuyển (hàng không, đường sắt, đường bộ và đường
biển) đều chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. - Hệ thống luật pháp về
kinh tế của Việt Nam cịn đang trong q trình hồn thiện, chưa đảm bảo
tính bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; tính ổn
định và minh bạch chưa cao, mức độ rủi ro pháp luật còn lớn và khó dự
báo; hệ thống văn bản pháp luật cịn nhiều bất cập...
Q trình cải cách hành chính cịn chuyển biến chậm, các thủ tục liên quan
đến hoạt động đầu tư còn phức tạp; nạn tham nhũng còn phổ biến và chưa
có biện pháp ngăn chặn, loại bỏ hữu hiệu; các chi phí dịch vụ về cơ sở hạ
tầng hỗ trợ kinh doanh, chi phí trung gian, chi phí gia nhập thị trường của
các doanh nghiệp còn lớn so với các nước trong khu vực. Sự phối hợp trong
các hoạt động cải cách cơ cấu kinh tế, cải cách thế chế với chiến lược hội
nhập kinh tế quổc tế còn chưa nhịp nhàng, động bộ.