Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Khóa luận giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD thực trạng và giải pháp (qua khảo sát tại trường THPT bùi thị xuân, quận 1, TP hồ chí minh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.23 KB, 77 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1) Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................... 1
2) Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................................ 2
3) Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 4
4) Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................... 4
5) Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 5
6) Cấu trúc của khóa luận........................................................................................... 6
B. NỘI DUNG ........................................................................................................... 7
Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG, YÊU CẦU GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY ................................................................................................................ 7
1.1. Đạo đức và tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong
giai đoạn hiện nay ...................................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm đạo đức ........................................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức ............................................................................. 9
1.2. Vị trí, vai trị của học sinh THPT đối với sự phát triển đất nước........................ 11
1.3. Vai trò, nội dung của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai đoạn
hiện nay ................................................................................................................... 14


1.3.1. Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự hình thành, phát triển nhân cách
cho học sinh trung học phổ thông............................................................................. 14
1.3.1.1. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT.................................................... 14
1.3.1.2. Sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai
đoạn hiện nay ........................................................................................................... 17
1.4. Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng........................... 21
1.5. Vai trị của môn Giáo dục công dân trong giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT ....................................................................................................................... 29
Kết luận chương 1 .................................................................................................... 33
Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở


TRƯỜNG THPT BÙI THỊ XUÂN, QUẬN 1, TP. HỒ CHÍ MINH ......................... 34
2.1. Vài nét về trường THPT Bùi Thị Xuân, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. ......... 34
2.2. Thành tựu và hạn chế trong giáo dục đạo đức ở trường THPT Bùi Thị Xuân,
Quận 1, TP. Hồ Chí Minh. ....................................................................................... 35
2.2.1. Thành tựu ....................................................................................................... 35
2.2.2. Những hạn chế .............................................................................................. 39
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ................................... 43
Kết luận chương 2 .................................................................................................... 51


Chương 3: CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC
SINH THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT BÙI THỊ
XUÂN, QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. .................................................. 52
3.1. Các nguyên tắc cơ bản định hướng cho việc giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT Bùi Thị Xuân, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. ........................................... 52
3.1.1. Giáo dục đạo đức gắn liền với việc tạo lập mơi trường kinh tế - xã hội, văn
hóa lành mạnh .......................................................................................................... 52
3.1.2. Giáo dục đạo đức bảo đảm phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và
đặc điểm đạo đức của học sinh ................................................................................. 55
3.1.3. Giáo dục đạo đức bảo đảm thống nhất giữa truyền thống và hiện đại ............. 57
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT Bùi Thị Xuân trong giai đoạn hiện nay .................................................. 61
3.2.1. Xây dựng môi trường học tập lành mạnh đấu tranh chống những hiện
tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội, tăng cường giáo dục pháp luật cho học sinh ........... 61
3.2.2. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ giáo viên về
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh ................................................................... 64
3.2.3. Phát huy vai trị mơn giáo dục cơng dân trong giáo dục đạo đức cho học
sinh .......................................................................................................................... 67

Kết luận chương 3 .................................................................................................... 71
C. KẾT LUẬN CHUNG .......................................................................................... 72


1

A. MỞ ĐẦU
1) Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực được quan tâm hàng đầu
trong sự phát triển của quốc gia. Giáo dục, đào tạo mang trong mình sứ mạng
cao cả là “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước.
Vì vậy Đảng và Nhà nước ta luôn luôn xác định chiến lược giáo dục là "quốc
sách hàng đầu". Nhằm mục tiêu xây dựng con người phát triển tồn diện, bên
cạnh việc trang bị trình độ chun mơn, nghiệp vụ thì giáo dục đạo đức là một
yếu tố vơ cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cũng
như tạo nên giá trị mỗi con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đạo
đức là cái gốc của người cách mạng” và coi giá trị của mỗi người gồm hai mặt:
đức và tài. Người chỉ rõ: “có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài
mà khơng có đức là người vơ dụng”, và: “cũng như sơng thì có nguồn mới có
nước, khơng có nguồn thì sơng cạn…Người phải có đạo đức, khơng có đạo đức
thì có giỏi mấy cũng kông lãnh đạo được nhân dân”.
Trong tương lai gần, học sinh THPT sẽ là những người kế tục sự nghiệp cách
mạng của cha anh, là những người tiếp bước trên con đường xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN. Là lớp thanh niên đang ở tuổi trưởng thành với
những bước ngoặt lớn về phát triển nhân cách sinh ra và lớn lên trong môi
trường thông tin đa chiều và xu thế hội nhập quốc tế, học sinh THPT là lớp
người chịu nhiều ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực từ những biến đổi của
đất nước và thế giới. Đa số học sinh Việt Nam biết tiếp thu và phát huy được
những giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp của dân tộc và thế giới, thi đua học tập, rèn
luyện để trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Tuy nhiên bên cạnh

đó cũng có một bộ phận học sinh chạy theo lối sống thực dụng, có biểu hiện xa
rời các giá trị đạo đức truyền thống, dễ bị dao động về mặt định hướng đạo đức


2

và lối sống. Đây cũng là điều tại Hội nghị BCH TW lần thứ mười, khoá IX Đảng
ta từng khẳng định: “Tình trạng suy thối, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia
tăng các tệ nạn xã hội và tội phạm, đáng lo ngại nhất là trong giới trẻ”.
Bộ mơn GDCD có vai trị, vị trí rất quan trọng trong giáo dục nhân cách học
sinh, đặc biệt trong việc xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học sinh
THPT. Thông qua môn học người giáo viên sẽ trang bị, hình thành cho học sinh
những phẩm chất, những chuẩn mực, hành vi đạo đức cần thiết trong cuộc sống
một cách có hệ thống, đúng phương pháp, đúng quy trình.
Trường THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong
những trường có điểm chuẩn đầu vào cao nhất thành phố, có thành tích xuất sắc
trong học tập cũng như các kì thi học sinh giỏi cấp thành phố. Tuy nhiên thành
tích này đã tạo áp lực cho cả giáo viên lẫn học sinh, làm cho học sinh mang nặng
tư tưởng học chữ hơn học làm người. Trong đợt thực tập sư phạm 2, với vai trị
là người giáo viên, tơi cảm thấy rất lo ngại về việc tiếp thu những quan niệm đạo
đức, hay nói chính xác hơn là là tiếp thu bài giảng mơn GDCD - “môn dạy làm
người và kĩ năng sống” của các em học sinh.
Chính vì thế, để góp phần tìm ra những cách thức, giải pháp nhằm xây dựng
và phát triển đạo đức của học sinh, đặc biệt là học sinh THPT, tôi chọn đề tài
“Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD - thực
trạng và giải pháp (Qua khảo sát tại trường THPT Bùi Thị Xn, Quận 1, TP. Hồ
Chí Minh)” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2) Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong thời đại ngày nay vấn đề đạo đức đang trở thành vấn đề bức thiết cả
về lý luận và thực tiễn. Bên cạnh xu hướng phát triển của đời sống kinh tế - xã

hội là những biểu hiện suy thoái về đạo đức, nhất là vấn đề đạo đức học sinh.


3

Việc tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục hiện tượng suy thoái đạo đức đã
và đang là mối quan tâm của nhiều nhà khoa học.
Đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề đạo đức và giáo
dục đạo đức trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chẳng hạn như: "Đạo đức
mới" Giáo sư Vũ Khiêu chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974; “Đạo
đức xã hội ở nước ta hiện nay - vấn đề và giải pháp” do GS,VS. Nguyễn Duy
Quý (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2006). “Đạo đức học mácxít
với việc giáo dục đạo đức sinh viên hiện nay ở nước ta” của Dương Văn Duyên,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2003); “Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo
dục đạo đức cho sinh viên” của PGS, TS Trần Hậu Kiêm - TS. Đoàn Đức Hiếu,
Nxb Chính trị quốc gia (2004); “Mấy vấn đề đạo đức trong nền kinh tế thị trường
ở nước ta hiện nay” do Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ
biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2003).
Trên các tạp chí cũng có khá nhiều các bài viết liên quan về sự tác động của
kinh tế thị trường đến đạo đức như: "Đôi điều suy nghĩ về giá trị và biến đổi của
các giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường" của Nguyễn Trọng
Chuẩn (Tạp chí Triết học, số 1-1995); "Những nguyên nhân chủ yếu của tình
trạng suy thối đạo đức ở nước ta hiện nay" của Nguyễn Thanh Hà (Tạp chí Triết
học, số 3-2002); "Thực trạng và một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông" của Phạm Khắc Chương (Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số
2-1997); "Văn hố và sự phát triển nhân cách thanh niên" của Hoàng Chí Bảo
(Nghiên cứu lý luận, số 1-1995); "Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc
định hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Triết
học, số 6-1996); "Vai trị của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách
trong cơ chế thị trường" của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học, số 5-1996).



4

Một số đề tài luận văn, luận án đã đề cập vấn đề này ở những góc độ khác
nhau, như: “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sỹ Triết học của Trần Sỹ Phán, (1999);
“Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”của
Phạm Thị Thanh Ngoan, luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa
học (2011); Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trên địa bàn Quận 5, thành
phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý
luận và phương pháp dạy học Bộ mơn Giáo dục chính trị của Nguyễn Thị Định
(2014); “Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở tỉnh Bình Dương hiện nay” của
Nguyễn Thị Hằng Nga, luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa
học (2016); …
Các cơng trình nghiên cứu, bài viết nêu trên là cơ sở lý luận và thực tiễn
thiết thực để chúng tơi thực hiện đề tài khóa luận của mình. Tuy nhiên, theo tìm
hiểu của tác giả thì chưa có cơng trình nào đề cập một cách trực tiếp, cụ thể đến
việc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT Bùi Thị Xuân ở TP. Hồ Chí Minh
thông qua việc dạy học môn GDCD.
3) Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức
cho học sinh THPT.
- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh trường THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, TP.
HCM.
4) Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:


5


Mục đích của khóa luận là xác định phương hướng và tìm ra một số giải
pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh THPT nói
chung, học sinh trường THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Thứ nhất, làm rõ những nội dung cơ bản của đạo đức
+ Thứ hai, phân tích vai trị, ý nghĩa của giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT, tác động của kinh tế thị trường tới quá trình giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT hiện nay.
+Thứ ba, đánh giá tình hình giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THPT
Bùi Thị Xuân, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh .
+Thứ tư, đề xuất một số giải pháp cơ bản, khả thi nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông, đặc biệt là học sinh THPT
Bùi Thị Xuân, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh .
5) Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Khóa luận dựa trên quan điểm triết học và đạo đức học Mác-Lênin, tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo
đức.
- Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận chung của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp logic,


6

phương pháp so sánh, tổng hợp cùng với phương pháp điều tra xã hội học. Ngồi
ra khóa luận cịn sử dụng phần mềm thống kê và phân tích dữ liệu SPSS và phần
mềm xử lý bảng tính excel.

6) Cấu trúc của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3
chương, 10 tiết.
Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG, YÊU CẦU GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở
TRƯỜNG THPT BÙI THỊ XUÂN, QUẬN 1, TP. HỒ CHÍ MINH
Chương 3: CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC
SINH THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT BÙI THỊ
XUÂN, QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.


7

B. NỘI DUNG
Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG, YÊU CẦU GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Đạo đức và tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Cho đến nay đã có rất nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về đạo đức.
Trong quan niệm thường ngày, người ta thường dùng từ “đạo đức” để nhận
xét, đánh giá thái độ, hành vi của mọi người trong xã hội, để chỉ những người có
biểu hiện tốt trong quan hệ ứng xử với mọi người xung quanh. Đạo đức là một
khái niệm tơn vinh những người có trách nhiệm với cơng việc với tư cách là một
công dân, một thành viên trong gia đình và cộng đồng xã hội, thực hiện tốt nghĩa
vụ, trách nhiệm được giao phó, góp phần xây dựng cộng đồng, phát triển kinh tế

- xã hội, thiết lập quan hệ hàng xóm láng giềng.
Từ “đạo đức” cịn được sử dụng để đánh giá tình cảm, thái độ, hành vi của
con người so với những chuẩn mực đạo đức xã hội của mỗi thời kỳ lịch sử.
Những người sống theo chuẩn mực xã hội, gương mẫu, tự giác thực hiện các
chuẩn mực xã hội, được nhiều người quý mến thì coi là người có đạo đức.
Quan niệm đạo đức xét từ phương diện khoa học, trước hết phải kể đến định
nghĩa của Từ điển Triết học: “Đạo đức là quy tắc chung trong xã hội và hành vi
của con người, quy định những nghĩa vụ của người này đối với người khác và
đối với xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, trong một xã hội có giai


8

cấp, đạo đức có tính giai cấp. Những hình thức kết cấu xã hội và cơ sở kinh tế
biến đổi thì đạo đức cũng biến đổi theo...”
Giáo trình Đạo đức học của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh(2000)
định nghĩa: “ Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách cư xử của con người
trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin
cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”[16,26].
Trong cơng trình khoa học có tên Phát triển giáo dục, phát triển con người
phục vụ phát triển xã hội - kinh tế, Nxb. khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996, tác giả
Phạm Minh Hạc lý giải khái niệm đạo đức theo hai nghĩa:
Theo nghĩa hẹp: Đạo đức là luân lý, những quy định, những chuẩn mực ứng xử
trong quan hệ của con người. Nhưng trong điều kiện hiện nay, chính quan hệ con
người đã mở rộng và đạo đức bao gồm những qui định, chuẩn mực ứng xử của
con người với con người, với công việc, với bản thân, với thiên nhiên và môi
trường sống.
Theo nghĩa rộng: Khái niệm đạo đức có liên quan chặt chẽ với phạm trù chính
trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ

mặt của nhân cách đã được xã hội hóa. Đạo đức biểu hiện ở đời sống tinh thần
lành mạnh, trong sáng, ở hành động góp phần giải quyết hợp lí, có hiệu quả
những mâu thuẫn của cuộc sống. Khi thừa nhận đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội thì đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi tầng lớp, giai cấp trong
xã hội cũng phải phản ánh ý thức chính trị của họ đối với vấn đề đang tồn tại[13,
9].
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “Đạo đức là sự thống nhất trong tư tưởng
và phong cách. Người có đạo đức là người biết kính u nhân dân, khiêm tốn,


9

thật thà, thắng thắn, có thái độ cầu thị, làm việc chí cơng vơ tư, khơng kiêu ngạo,
khơng dấu dốt. Ở người, đạo đức đóng vai trị như lẽ sống thấm sâu vào tư tưởng
và chỉ đạo hành động, lối sống”[3,46].
Với Hồ Chí Minh, đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng,
là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Người quan niệm đạo đức tạo ra
sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mỗi công việc: “Công việc thành
công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của
Hồ Chí Minh khơng có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người
cho rằng: “Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng nhưng có đức mà khơng có
tài thì làm việc gì cũng khó”. Cho nên, đức là gốc, nhưng đức và tài phải kết hợp
với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt
Nam trong thời đại mới là: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người;
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm; tinh thần
quốc tế trong sáng.
Qua sự phân tích một số quan niệm về đạo đức nêu trên, có thể đi đến một
quan niệm khái quát về đạo đức như sau: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
là hệ thống những qui tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá hành

vi, cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và với quan hệ xã hội,
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội.
1.1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức
Giáo dục là q trình tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi và biến
đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của cả người dạy và người học theo
hướng tích cực. Nghĩa là, hồn thiện nhân cách của cả thầy và trò bằng những tác


10

động có ý thức từ bên ngồi, đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển trong xã
hội loài người. Giáo dục theo nghĩa chung nhất, đó là hoạt động nhằm tác động
một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào
đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực có được
như yêu cầu đề ra. Hoạt động này nhằm hướng tới con người thông qua một hệ
thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm,
rèn luyện kĩ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối
tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với
mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với
khả năng, điều kiện và hoàn cảnh bản thân.
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động của nhà trường, gia đình và xã hội đến
học sinh, nhằm mục đích hình thành cho học sinh ý thức, tình cảm niềm tin đạo
đức và quan trọng nhất là hình thành thói quen, hành vi đạo đức trong đời sống
xã hội, giúp nhân cách con người phát triển đúng về mặt đạo đức, tạo cơ sở để họ
có hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức trong mối quan hệ của cá
nhân đối với bản thân, với người khác và xã hội. Kết quả của q trình giáo dục
đạo đức là con người có được các phẩm chất tốt đẹp, bền vững, có bản lĩnh đạo
đức để ứng xử đúng trong các mối quan hệ xã hội.
Giáo dục đạo đức là những tác động sư phạm có mục đích, có kế hoạch, có

hệ thống của người làm công tác giáo dục đến người được giáo dục nhằm đạt
được mục đích cung cấp, bồi dưỡng cho họ những phẩm chất đạo đức phù hợp
với yêu cầu của xã hội.
Giáo dục đạo đức cho học sinh là hình thành những tri thức như: Khái niệm
đạo đức, các phạm trù đạo đức, các chuẩn mực giá trị đạo đức…Đó là cơ sở, là
nguồn gốc để học sinh có được những chuẩn mực đạo đức, giúp họ nhận ra chân
giá trị của các giá trị đạo đức, thấy được tính nhân bản, nhân văn trong đời sống


11

xã hội do đạo đức mang lại, hình thành trong mỗi học sinh tình cảm đạo đức,
biến tri thức đạo đức thành thói quen, tình cảm đạo đức. Tình cảm đạo đức ngấm
ngầm trong mỗi học sinh như là máu với thịt, hòa quyện chặt chẽ với nhau để khi
bật ra thì đã thành một hành vi thói quen đạo đức. Giáo dục đạo đức còn là lĩnh
vực hoạt động đặc thù của nhà trường, trong đó đội ngũ giáo viên nói riêng và
nhà trường nói chung, tác động qua lại với học sinh, để giúp họ có được tri thức
và tình cảm đạo đức phù hợp với những yêu cầu xã hội. Đây là một trong những
nội dung quan trọng hàng đầu của mục tiêu giáo dục.
Như vậy, giáo dục đạo đức là q trình tác động có mục đích, kế hoạch của
nhà giáo nhằm trang bị cho học sinh phẩm chất đạo đức, hình thành niềm tin,
tình cảm, thói quen, hành vi đạo đức phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực của xã hội.
1.2. Vị trí, vai trị của học sinh THPT đối với sự phát triển đất nước
Theo quan điểm của các nhà kinh điển mác xít, học sinh có vai trị, vị trí
quan trọng trong sự phát triển của xã hội: “Tương lai của giai cấp cơng nhân và
do đó tương lai của nhân loại hồn tồn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ cơng
nhân đang lớn lên” [11,118].
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên sớm nhận thức
đúng vị trí, vai trị của thế hệ trẻ đối với sự nghiệp cách mạng và phát triển đất
nước. Bác khẳng định: “Thanh niên là chủ nhân tương lai của nước nhà”

[21,375]. “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh
niên”[21,18]. Trong những lần dự Đại hội Đoàn toàn quốc, Đại hội Hội sinh
viên, khai giảng năm học mới của trường Đại học nhân dân hay là gửi thư cho
thanh niên sinh viên Hồ Chí Minh đều căn dặn: Thanh niên sinh viên phải đoàn
kết chặt chẽ, luôn trau dồi đạo đức, rèn luyện thể lực, học lý luận kết hợp với


12

thực hành, học tập kết hợp với lao động; học để phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân
dân, làm cho dân giàu, nước mạnh.
Như vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trị, vị trí của thanh niên học sinh trong đời
sống xã hội, trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Đồng thời, các ông cũng nhắc nhở những người cộng sản là muốn cho thanh niên
hoàn thành được sứ mệnh vẻ vang của mình, thì Đảng Cộng sản phải tổ chức,
lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện họ. Trong đó, vấn đề giáo dục đạo đức cho học
sinh là nhiệm vụ hàng đầu của công tác giáo dục.
Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong
cương lĩnh hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi công tác
thanh niên học sinh là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến sự
thành bại của “cách mạng”. Bởi vậy, việc đoàn kết, tập hợp thanh niên nhằm
phát huy vị thế, vai trò của thanh niên trong thực tiễn cách mạng Việt Nam luôn
được Đảng và Nhà nước quan tâm, chú ý. Nghị quyết Trung ương 4, khoá VII
của Đảng ta khẳng định: Vấn đề thanh niên phải đặt ở vị trí trung tâm trong chiến
lược phát huy nhân tố và nguồn lực con người… Sự nghiệp đổi mới có thành
cơng hay khơng, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng
đồng thế giới hay khơng, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã
hội chủ nghĩa hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc
bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên [21,51].

Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định nhiệm vụ chung của toàn xã hội
đối với thế hệ trẻ là: “Chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào tạo phát triển tồn diện
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải
quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trị xung kích
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [8,126].


13

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khoá X) đã ban hành Nghị
quyết số 25-NQ/TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
thanh niên thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố” đã khẳng định vai
trị, vị trí của thanh niên sinh viên: thanh niên là tường cột của nước nhà, chủ
nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Thanh niên được đặt vào ở vị trí trung tâm chiến lược bồi dưỡng, phát huy
nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu,
vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước.
Học sinh nói chung và học sinh THPT nói riêng sẽ là thế hệ tương lai sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, là lực lượng tiêu biểu của xã hội đang vươn lên
khẳng định mình. Khi nói đến vị trí, vai trị của học sinh THPT cần nói đến vai
trị xung kích trong học tập, phát huy trí tuệ tài năng và tính tích cực của họ, góp
phần mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, học sinh THPT cũng là lực lượng trẻ còn thiếu kinh nghiệm sống
và bản lĩnh, thiếu hiểu biết về chính trị nên dễ bị các thế lực xấu lơi kéo, kích
động dẫn đến mất định hướng. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cũng như toàn xã
hội cần phải quan tâm giáo dục đạo đức để các em trở thành những công dân tốt,
những người có ích cho xã hội.



14

1.3. Vai trò, nội dung của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai
đoạn hiện nay
1.3.1. Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự hình thành, phát triển nhân
cách cho học sinh trung học phổ thông
1.3.1.1. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT
Giáo dục đạo đức có vai trị rất quan trọng đối với sự hình thành, phát triển
nhân cách cho học sinh trung học phổ thông. Muốn giáo dục đạo đức đạt hiệu
quả thì chúng ta phải biết đặc điểm, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh trung học phổ
thông.
Học sinh trung học phổ thơng thuộc lứa tuổi thanh niên. Trong tâm lí học,
lứa tuổi thanh niên được định nghĩa là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì
cho đến bước vào tuổi trưởng thành .
Theo quy định của Luật Giáo dục Việt Nam thì học sinh trung học phổ
thơng có độ tuổi từ 15 đến 19, theo học từ lớp 10 đến lớp 12, nằm ở giai đoạn
đầu của tuổi thanh niên. Lứa tuổi này có những đặc điểm sau:
Một là, học sinh trung học phổ thông bước vào thời kỳ đạt được sự trưởng
thành về mặt cơ thể. Sự phát triển thể chất đã bước vào thời kỳ phát triển bình
thường, hài hịa, cân đối. Cơ thể của thanh niên đã đạt tới mức phát triển của
người trường thành, nhưng sự phát triển còn kém so với người lớn. Lứa tuổi này
có thể làm những việc nặng của người trưởng thành, hoạt động trí tuệ có thể phát
triển ở mức cao. Khả năng hưng phấn và ức chế ở vỏ não tăng lên rõ rệt, có thể
hình thành mối liên hệ thần kinh tạm thời phức tạp hơn. Tư duy ngơn ngữ và
những phẩm chất ý chí có điều kiện phát triển mạnh. Ở độ tuổi này, học sinh dễ
bị kích thích và biểu hiện của nó giống như độ tuổi thiếu niên. Tuy nhiên, tính


15


dễ bị kích thích này khơng phải chỉ do ngun nhân sinh lý như ở tuổi thiếu niên
mà còn do cách sống của cá nhân.
Nhìn chung, ở tuổi này học sinh trung học phổ thơng có sức khỏe và sức
chịu đựng tốt hơn tuổi thiếu niên. Thể chất của học sinh trung học phổ thông
đang ở độ tuổi phát triển mạnh mẽ nhất. Sự phát triển thể chất ở lứa tuổi này có
ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý và nhân cách, đồng thời nó cịn ảnh hưởng tới
việc lựa chọn ngành nghề trong tương lai của học sinh.
Trong gia đình, học sinh trung học phổ thơng đã có nhiều quyền lợi và trách
nhiệm như người trưởng thành, cha mẹ bắt đầu trao đổi về một số việc quan
trọng trong gia đình. Học sinh cũng thấy được quyền hạn và trách nhiệm của bản
thân đối với gia đình, bắt đầu quan tâm chú ý đến nề nếp, lối sinh hoạt và điều
kiện kinh tế chính trị của gia đình. Có thể nói rằng học sinh trong độ tuổi này
vừa học tập vừa lao động. Ở nhà trường, học tập vẫn là hoạt động chủ đạo nhưng
tính chất và mức độ thì phức tạp và cao hơn hẳn so với tuổi thiếu niên, địi hỏi
học sinh tự giác, tích cực độc lập hơn, phải biết cách vận dụng tri thức một cách
sáng tạo. Nhà trường lúc này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nội dung học tập
khơng chỉ nhằm trang bị tri thức và hoàn chỉnh tri thức mà cịn có tác dụng hình
thành thế giới quan và nhân sinh quan cho học sinh[2,77].
Hai là, xã hội đã giao cho lứa tuổi học sinh trung học phổ thông quyền cơng
dân, quyền tham gia mọi hoạt động bình đẳng như người lớn. Tất cả học sinh đã
có suy nghĩ về việc chọn nghề. Khi tham gia vào hoạt động xã hội, học sinh phổ
thông được tiếp xúc với nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, quan hệ xã hội được
mở rộng, có dịp hịa nhập vào cuộc sống đa dạng, phức tạp của xã hội, giúp học
sinh tích lũy vốn kinh nghiệm sống để chuẩn bị cho cuộc sống tự lập sau này.
Lứa tuổi học sinh trung học phổ thơng là giai đoạn quan trọng trong việc
phát triển trí tuệ. Do cơ thể học sinh phát triển hoàn chỉnh, đặc biệt là hệ thần
kinh phát triển mạnh tạo điều kiện cho sự phát triển các năng lực của học sinh.



16

Cảm giác và tri giác của học sinh đã đạt tới mức độ của người trưởng thành. Quá
trình quan sát gắn liền với tư duy và ngôn ngữ. Khả năng quan sát một phẩm
chất cá nhân cũng bắt đầu phát triển ở học sinh phổ thông. Tuy nhiên, sự quan
sát ở lứa tuổi này thường phân tán, chưa tập trung cao vào một nhiệm vụ nhất
định, trong khi quan sát một số đối tượng vẫn cịn mang tính đại khá, phiến diện,
thiếu khoa học.
Đây cũng là lứa tuổi có những hạn chế nhất định. Thứ nhất, tâm lý khơng
thích nghe, khơng thích bàn luận đến các vấn đề chính trị mà thiên về những vấn
đề tình bạn, tình yêu, văn hóa, nghệ thuật, do đó chính trị ít được quan tâm. Thứ
hai, vì chưa trải qua các hoạt động thực tiễn trong sản xuất, chiến đấu, kinh
nghiệm sống, vốn sống chưa đủ nên dễ mơ hồ về chính trị. Sự chưa từng trải này
nguy hiểm ở chỗ là dễ bị các thế lực chính trị xấu lơi cuốn thơng qua các hình
thức hoạt động khác...
Do có sức sống dồi dào, có nguyện vọng muốn được thử sức mình nhưng lại
chưa đủ kinh nghiệm sống và không phải mọi mục tiêu đặt ra đều được ý thức rõ
ràng, cho nên đôi khi trong thâm tâm học sinh không thấy thỏa mãn, họ dễ thay
đổi mục tiêu đã đề ra. Họ thường quan tâm tới bản thân và nhân cách của mình
nên càng đề cao mình quá mức, và trong mọi hoạt động họ đều muốn thử sức,
muốn bộc lộ khả năng của mình và nhiều khi khơng phân biệt hoạt động đó là
xấu, là tốt thế nào. Những đặc điểm này dẫn đến dễ ngả nghiêng trước những
bước ngoặt, trước những vấn đề phức tạp của cuộc sống, dẫn đến những hành
động bộc phát trái với pháp luật, trái với đạo đức, với những tiêu chuẩn hành vi
đã được xã hội chấp nhận, nhất là trong lối sống, nếp sống. Bác Hồ đã nêu rõ
trong bức thư gửi thanh niên: Nói tóm lại: ưu điểm của thanh niên ta là hăng hái,
giàu tinh thần xung phong; khuyết điểm là: ham chuộng hình thức, thiếu thực tế,
bệnh cá nhân, bệnh "anh hùng".



17

Nhìn chung, tư duy của học sinh trung học phổ thơng phát triển mạnh, hoạt
động trí tuệ linh hoạt và nhạy bén hơn. Học sinh có khả năng phán đốn và giải
quyết vấn đề rất nhanh. Tuy nhiên, bên cạnh đó một số học sinh vẫn cịn nhược
điểm là chưa phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản than, cịn kết luận
vội vàng theo cảm tính. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn, giúp đỡ học sinh tư
duy một cách tích cực độc lập để phân tích đánh giá sự việc và tự rút ra kết luận
cuối cùng. Hiểu rõ vị trí và ý nghĩa của giai đoạn phát triển tâm sinh lý của học
sinh trung học phổ thông, thầy cô giáo chọn lựa và sử dụng phương pháp giáo
dục đạo đức phù hợp giúp học sinh phát triển hoàn thiện nhân cách.
1.3.1.2. Sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai
đoạn hiện nay
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mục đạo đức hướng dẫn con người điều chỉnh hành vi trong quan hệ
giữa con người với con người, giữa con người với xã hội nhằm đạt cái “chân,
thiện, mỹ”.
Trong điều kiện nước ta, việc tiến hành q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đã và đang dẫn đến những tác động vừa tích cực, vừa tiêu cực.
Mặt tích cực của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất, giải quyết tình trạng công nghệ lạc hậu như hiện nay dẫn đến
năng xuất lao động tăng, làm cho tổng sản phẩm xã hội tăng lên và do vậy có
điều kiện nâng cao phúc lợi cho nhân dân. Hơn nữa, chính sự phát triển của lực
lượng sản xuất dẫn đến sự mở rộng lao động xã hội, góp phần giải quyết tình
trạng thiếu việc làm, tăng năng lực sản xuất, làm cho nền kinh tế hàng hóa phát
triển, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế và tiếp thu thành tựu văn
minh nhân loại. Sự phát triển kinh tế do q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa


18


mang lại sẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo sự ổn định chính trị, tạo điều kiện cho
kinh tế phát triển. Nó làm cho mối quan hệ giữa các ngành, các lĩnh vực và các
vùng tăng lên. Những thành tựu trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ
góp phần quan trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tạo
điều kiện cho việc mở mang dân trí, nâng cao nhận thức, phát triển văn hóa, cũng
cố truyền thống u nước và lịng tự hào dân tộc, tăng thêm niềm tin vào chế độ
xã hội.
Như vậy, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa có tác dụng to lớn trên nhiều lĩnh vực
đời sống xã hội, từ kinh tế, văn hóa tư tưởng đến an ninh quốc phịng .
Tuy nhiên, thực tế cho thấy q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng phá
vỡ cân bằng giữa xã hội và tự nhiên, giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
Chúng ta đều biết hành vi của con người tuân theo hệ thống quy tắc xã hội đặt
ra. Có những người tuân thủ nó do nhập tâm, do ý thức được các giá trị đạo đức,
các chuẩn mực xã hội. Có người tn thủ vì xung quanh họ có những cơ chế
“kiểm sốt xã hội” mạnh mẽ như gia đình, họ hàng, hàng xóm, luật lệ. Thế
nhưng khi xã hội chuyển biến dồn dập, quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đạo hóa,
đơ thị hóa nhanh chóng làm cho hệ thống quy tắc bị phá vỡ. Lúc đó, phải trái,
trắng đen khơng cịn rạch rịi. Trong hoàn cảnh như vậy, con người dễ thờ ơ
trước cái thiện, dửng dưng trước cái ác. Chính điều đó đã tạo điều kiện cho cái
ác, cái bất lương phát triển. Lối sống thực dụng, cá nhân ích kỷ đã làm cho tình
trạng tham nhũng , bn lậu lừa đảo trong sản xuất, kinh doanh ngày càng có đà
sinh sơi, nảy nở. Chính tâm lí sống gấp, sống hưởng thụ đã làm cho nhiều người
sa vào các tệ nạn xã hội. Thậm chí một bơ phận khơng nhỏ bị tha hóa bởi đồng
tiền, vì những hưởng thụ vật chất mà hành động mù quáng.


19

Ngày nay, khi những tiến bộ khoa học công nghệ đã đạt tới mức vượt ra ngoài

sự tưởng tượng của khơng ít người thì cùng với điều đó, sự biến động của xã hội
cũng mạnh mẽ và nhanh chóng đến mức khơng có vận hội nào mà khơng đi kèm
nguy cơ. Có thể thấy rõ bên cạnh giá trị văn minh to lớn mà con người được
hưởng, những hiểm họa cũng đang rình rập thường trực đối với con người và
nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia nghèo đói, chậm phát triển. Nhiều nhà
nghiên cứu đã thận trọng cho rằng,: chỉ riêng sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
, chỉ riêng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa bộ mặt xã hội , thì đời sống xã hội chưa
chắc được đảm bảo trở nên lành mạnh hơn, văn minh hơn. Song nếu khơng tiến
hành q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hoặc nếu người ta thờ ơ với nó thì
chắc chắn xã hội khơng thể đạt tới sự phát triển và tiến bộ. Cho nên vấn đề đặt ra
là cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phải thực hiệ một cách đồng bộ với việc giải
quyết các vấn đề xã hội. Nói cách khác, xã hội muốn có hạnh phúc thì cơng bằng
xã hội phải là bạn đồng hành với sự tiến triển của văn minh.
Đường lối phát triển đất nước của Đảng ta đã xác định mục tiêu vì con người,
vì cơng bằng xã hội, vì độc lập dân tộc. Có điều phải làm sao cho những mục
tiêu trên khơng chỉ duy trì ở khẩu hiệu mà cịn phải biến thành chính sách, cơ
chế, chỉ tiêu... nghĩa là các biện pháp cụ thể lồng ghép các kế hoạch phát triển.
Mặt khác phải làm cho toàn dân khi xưa sẵn sàng hi sinh tất cả vì độc lập dân tộc
thì ngày nay từng nhà, từng người hãnh diện chọn lối sống giản dị, tiết kiệm,
cơng bằng, chan hịa với cộng đồng. Làm sao cho toàn dân, toàn xã hội ý thức về
độc lập và bản sắc dân tộc không chỉ bằng khẩu hiệu mà trong lựa chọn cụ thể
cách ăn mặc, học hành tới vui chơi giải trí. Làm sao để từng người biết đau lịng
trước những hồn cảnh khó khăn, hoạn nạn, phẫn nộ với những hành vi sai trái.
Làm sao để tất cả mọi người, mọi tầng lớp ý thức được rằng: Phát triển không
chỉ nhằm vào đời sống vật chất cao mà để mọi người sống trong sự chan hòa,
yêu thương nhau.


20


Cùng với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển đất nước,
chúng ta cần nhận thức được rằng: giá trị và giá trị đạo đức luôn là vấn đề có ý
nghĩa đối với bất kì xã hội nào, thời đại nào. Chẳng phải ngẫu nhiên mà cái nhìn
đạo đức là cái nhìn của tồn xã hội. Trong nền văn minh hiện đại, việc đánh giá
trình độ tiến bộ của các hiện tượng xã hội, trên thực tế vẫn rất cần sự tham gia
của các tiêu chuẩn đạo đức. Có thể nói rằng, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa sẽ đem lại những nhân tố mới cho việc làm sâu sắc thêm, phong phú thêm
những giá trị truyền thống, đồng thời cũng gây ra những xáo trộn, những thay
đổi trong lối sống, những quan niệm chuẩn mực đạo đức xã hội. Vấn đề là làm
sao để thực hiện thành cơng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa mà vẫn giữ nét đẹp
riêng, những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc. Đây là vấn đề bức xúc đặt ra
cho tồn dân tộc Việt Nam.
Hiện nay, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đã dẫn đến xu thế tồn cầu
hóa kéo theo tất cả mọi quốc gia vào cuộc. Học sinh Việt Nam là một trong
những đối tượng chịu ảnh hưởng khá mạnh của xu thế toàn cầu hóa. Trong tương
lai các em sẽ là nguồn nhân lực đầy sức mạnh, trẻ và có tri thức, có khả năng tiếp
cận nhanh chóng với những cái mới và thay đổi linh hoạt - những nhân tố rất
cần thiết cho một thời kì phát triển mới. Vì vậy phát huy tính tích cực, điều chỉnh
những hành vi lệch lạc trong ý thức đạo đức của học sinh có tác dụng vô cùng to
lớn trong việc phát triển, sử dụng nguồn nhân lực quý này.
Để thực hiện thành công sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước do
Đảng ta lãnh đạo, nhằm xây dựng xã hội Việt Nam ngày càng trở nên giàu đẹp,
chúng ta cần có nguồn lực con người vững mạnh. Đó phải là những con người
mới, những con người phát triển toàn diện về mọi mặt, trong đó, đức là gốc, là
nền tảng để sử dụng hữu ích tài năng giúp mình, giúp nước như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy: có đức mà khơng có tài thì khơng có đủ năng lực điều hành cơng
việc. Có tài mà khơng có đức dẫn tới hỏng việc, có hại cho cách mạng. Với chiến


21


lược phát triển con người toàn diện phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, thế hệ trẻ Việt Nam là đối tượng cần phải chú ý đầu tiên, bởi lẽ, họ “là
người chủ tương lai của nước nhà” và “muốn hồi sinh dân tộc, trước hết phải hồi
sinh thanh niên”, trong đó, đội ngũ học sinh THPT có vai trị hết sức quan
trọng[12,34]
1.4. Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
Thanh niên, học sinh ln là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, có vai trị to lớn, quan trọng trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời vận dụng
sáng tạo trong điều kiện thực tiễn hiện nay, Nghị quyết số 25/NQ-TW, ngày 25
tháng 7 năm 2008 của Ban chấp hành Trung ương khóa X, Về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa khẳng định: “Tiếp tục xây dựng thanh niên Việt Nam giàu
lòng yêu nước, tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa, vì
cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri thức, kỹ
năng và tác phong công nghiệp trong lao động tập thể, trở thành những công dân
tốt của đất nước”[8,4]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Nhiệm vụ quan trọng của
Đồn trong giai đoạn mới là xây dựng lớp thanh niên giàu lịng u nước, có lối
sống đẹp, có ý thức cơng dân, biết xử lý hài hịa lợi ích của bản thân trong lợi ích
chung của tập thể, cộng đồng; có lý tưởng cách mạng và bản lĩnh chính trị vững
vàng; có tri thức, chun mơn, nghiệp vụ và kỹ năng lao động giỏi ; có văn hóa
và sống nghĩa tình; có sức khỏe thể chất và tinh thần lành mạnh, giàu nhiệt huyết
sáng tạo và tinh thần tình nguyện” [9,17]. Người thanh niên của thời kỳ mới mà
Đoàn tập trung xây dựng vừa biết gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, vừa biết làm giàu văn hóa dân tộc bằng những giá trị, những



22

tinh hoa văn hóa nhân loại, là hiện thân tiêu biểu của các giá trị văn hóa Việt
Nam, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, trung thành với chế độ xã
hội chủ nghĩa và thể hiện quyết tâm bằng hành động vì “Dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cổ vũ thanh niên ni dưỡng ước mơ, hồi
bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học và công nghệ tiên tiến, vươn lên
ngang tầm thời đại. Hình thành một lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế
tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; phấn
đấu cho mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”;
góp phần to lớn vào sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, sánh vai cùng các nước tiên tiến
trên thế giới[22,42].
Thông tư số 12 của BGDĐT và Nghị quyết số 25 của Ban chấp hành TW
khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đã chỉ rõ nội dung cần giáo dục đạo
đức cho học sinh trong nhà trường XHCN hiện nay là:
Một là, giáo dục cho học sinh XHCN lòng yêu nước, yêu XHCN, yêu quê
hương, đất nước, tinh thần tự hào dân tộc, lòng trung thành với Tổ quốc và với
nhân dân. Lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc là truyền thống ngàn đời, là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Yêu nước đã
trở thành một trong những phẩm chất cơ bản, làm nên cốt cách của con người
Việt Nam, dù cho ở mỗi thời đại khác nhau, lòng yêu nước có những nội dung và
sắc thái biểu hiện khác nhau.
Giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, yêu CNXH, yêu quê hương, đất nước,
tinh thần tự hào dân tộc, lòng trung thành với Tổ quốc và với nhân dân là hình
thành ở học sinh lịng u q hương, đất nước, lịng tự hào về dân tộc, góp phần
giác ngộ sâu sắc mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Đảng, lập trường cách mạng,



×