Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG bạo lực GIA ĐÌNH – PHÁP LUẬT một số QUỐC GIA và KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.63 KB, 55 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM

TIỂU LUẬN MƠN:
LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

TÊN ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP PHỊNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH – PHÁP LUẬT
MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Sinh viên:
Đỗ Nguyễn Nam Anh (2053801011011)
Nguyễn Minh Trang (2053801011296)
Jang Seo Young (2053801011354)
Trần Khánh Huy (2053801013060)
Nguyễn Xn Hịa (2053801014081)
Tơ Hải Qn (2053801014221)
Nguyễn Hồng Bá Huy (2053801015042)
Lê Minh Tâm (2053801015110)

1


PHÂN CƠNG
Phần mở đầu
Lê Minh Tâm
Nguyễn Hồng Bá Huy (Sửa đổi, bổ sung)
Chương I
Nguyễn Hoàng Bá Huy
Nguyễn Trần Minh Trang (Vai trị)
Tơ Hải Qn (Kết luận chương I)


Chương II
Nguyễn Hồng Bá Huy
Trần Khánh Huy (Kết luận chương II)
Chương III
Nguyễn Hoàng Bá Huy
Jang Seo Young (Pháp luật Hàn Quốc)
Nguyễn Trần Minh Trang (Pháp luật Trung Quốc và pháp luật Ireland)
Lê Minh Tâm (Pháp luật Trung Quốc)
Nguyễn Xuân Hoà
Đỗ Nguyễn Nam Anh (Kết luận chương III)

2


NỘI DUNG
PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, đồng thời là cái nôi nuôi dưỡng
nhân cách và tâm hồn của con người. Trong gia đình, việc mỗi thành viên sống bình đẳng, u thương,
chăm sóc lẫn nhau sẽ là nền tảng để tiến tới một xã hội phát triển bền vững.
Vậy mà ở đâu đó, gia đình lại đã và đang trở thành “địa ngục” đối với các thành viên, là nỗi đau
của toàn xã hội bởi sự xuất hiện của vấn nạn bạo lực gia đình (BLGĐ). Đây khơng phải là hiện tượng
mới xảy ra gần đây mà đã xuất hiện từ rất lâu trong suốt chiều dài lịch sử của thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng. Cho đến ngày nay, bạo lực gia đình vẫn đang có xu hướng gia tăng, thậm chí có xu
hướng diễn biến phức tạp với mức độ ngày một trầm trọng. Đây là vấn đề mang tính tồn cầu, gây
nhức nhối cho nhân loại, bởi lẽ nó đang xâm phạm đến quyền con người, gây ảnh hưởng nghiêm trọng
tới danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mạng của nạn nhân, mà chủ yếu là phụ nữ và trẻ em, cũng như
làm suy giảm chất lượng cuộc sống nói chung. Đặc biệt, bạo lực gia đình đã và đang vi phạm tới chuẩn

mực đạo đức xã hội, vi phạm vấn đề bình đẳng giới đang được tơn trọng và đề cao trong xã hội ngày
nay. Chính điều đó đang đặt ra cho xã hội những yêu cầu bức thiết nhằm ngăn chặn và dần xóa bỏ hiện
tượng tiêu cực này, vì bạo lực gia đình cịn tồn tại một ngày thì con đường tiến tới xây dựng một xã hội
văn minh, hiện đại ngày một khó khăn.
Trong những năm vừa qua, nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế, đặc biệt là tổ chức Liên hợp
quốc đều thể hiện một mối quan tâm chung trong việc phịng, chống bạo lực gia đình thơng qua các
Cơng ước về các quyền dân sự và chính trị, Cơng ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử
chống lại phụ nữ, Công ước về quyền trẻ em... Trong khi đó, tại nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam, đều
cho ban hành các đạo luật về phòng, chống bạo lực gia đình cùng các văn bản khác có liên quan. Tuy
nhiên do tính chất phức tạp cùng tính phổ biến của bạo lực gia đình mà cơng tác về phịng, chống bạo
lực gia đình và q trình triển khai, áp dụng ngày nay cịn gặp khơng ít các khó khăn.
Trong bối cảnh đó, cần thiết phải có những nghiên cứu, đánh giá đầy đủ về nguyên nhân bạo lực
gia đình và ảnh hưởng của nó đối với đời sống gia đình, xã hội. Cùng với đó là những nghiên cứu
chuyên sâu về pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật một số quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực
phịng, chống bạo lực gia đình, đánh giá mức độ điều chỉnh và tác động của pháp luật đối với vấn đề
3


bạo lực gia đình. Qua đó, phát huy những mặt tích cực cũng như khắc phục những hạn chế, bất cập
trong pháp luật Việt Nam, đồng thời rút ra những kinh nghiệm, bài học từ pháp luật nước ngoài để tìm
ra những giải pháp đẩy lùi nạn bạo lực gia đình trong xã hội, từng bước hồn thiện hệ thống pháp luật
về phịng, chống bạo lực gia đình.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, nhóm tác giả quyết định chọn đề tài: “Giải pháp
phòng, chống bạo lực gia đình – Pháp luật một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam” làm đề
tài nghiên cứu. Đây là đề tài mang tính lý luận và thực tiễn cao.
2.

Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đi sâu vào nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn trong phòng, chống bạo lực gia đình của Việt Nam dưới góc độ pháp lý; mở rộng sang nghiên cứu

các quy định của pháp luật nước ngoài để rút ra bài học kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam. Qua quá
trình nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả trong
quá trình áp dụng và thực thi pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta trong thời gian tới.

3.

Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Thứ nhất, khái quát những vấn đề cơ bản của bạo lực gia đình và phịng, chống bạo lực gia đình.
Thứ hai, nghiên cứu pháp luật Việt Nam từ quá khứ cho đến hiện tại về phịng, chống bạo lực gia
đình và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, bất cập và nguyên nhân.
Thứ ba, nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về phịng, chống bạo lực gia đình
để so sánh, đối chiếu với pháp luật Việt Nam. Qua đó, rút ra những bài học kinh nghiệm cho pháp luật
nước nhà.
Thứ tư, đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng bạo lực gia đình và nâng cao hiệu quả
pháp luật về phịng, chống bạo lực gia đình trong thực tế.

4.

Đối tượng nghiên cứu
- Lý luận chung về bạo lực gia đình và phịng, chống bạo lực gia đình.
- Các quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống bạo lực gia đình.
- Tình hình bạo lực gia đình ở Việt Nam trong thời gian gần đây và thực tiễn áp dụng pháp luật về
phịng, chống bạo lực gia đình.
- Các quy định của pháp luật nước ngồi về phịng, chống bạo lực gia đình.

5.

Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, khung pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình giữa vợ và chồng của Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới.

4


6.

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá được sử dụng trong việc làm sáng tỏ các khái niệm về
bạo lực gia đình và nội dung của các quy phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Ngồi ra,
phương pháp này cịn được sử dụng trong việc đánh giá thực trạng để đi đến các kết luận, nhận xét và
là cơ sở để đề xuất giải pháp cho vấn đề.
Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng trong việc so sánh giữa các quy định xưa và nay
của pháp luật Việt Nam, giữa các quy định của pháp luật nước ngoài với các quy định của pháp luật
Việt Nam để làm rõ hơn các khái niệm, quy định có liên quan.

7.

Kết cấu của tiểu luận

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.

Khái niệm gia đình
Theo quan điểm triết học, hơn nhân và gia đình khơng ngừng vận động và phát triển, Mác Ănghen cho rằng có ba hình thức hơn nhân chính tương ứng với ba giai đoạn phát triển của nhân loại.
Gia đình là một phạm trù lịch sử, các hình thái và chức năng của gia đình là do tính chất của quan hệ
sản xuất, quan hệ xã hội cũng như trình độ phát triển của xã hội quyết định. Trong lịch sử đã trải qua
bốn hình thái gia đình, đó là gia đình huyết tộc, gia đình punaluan, gia đình cặp đơi và gia đình một vợ
một chồng.
Theo từ điển Black’s Law có đưa ra ba định nghĩa về gia đình, thứ nhất, gia đình được hiểu là
một nhóm người bao gồm cha, mẹ và con cái của họ, thứ hai, gia đình là một nhóm người có quan hệ
máu mủ, thân tộc hoặc dựa trên pháp lý, thứ ba, gia đình có thể hiểu là một nhóm người khơng có quan

hệ họ hàng nhưng chung sống với nhau 1. Có thể thấy rằng, gia đình được định nghĩa trong từ điển
Black’s Law rất rộng, gia đình có thể là nhóm người có quan hệ huyết thống hoặc không cần huyết
thống hoặc hơn thế là những người khơng có mối quan hệ họ hàng hay thân tộc gì cùng sống chung với
nhau cũng có thể được xem là gia đình.
Theo cuốn Danh từ và Tài liệu Dân luật và Hiến luật có đưa ra định nghĩa về gia đình như sau,
theo quan niệm thơng thường, tiểu gia đình gồm có hai vợ chồng và các con cịn vị thành niên ở chung
với cha mẹ; đại gia đình gồm tất cả thân thuộc cùng huyết thống. Ở đây, tài liệu cũng định nghĩa thân
tộc là bà con trong họ, theo tục lệ có bốn hạng thân thuộc, thân thuộc trong gia tộc vợ chồng và các
con, thân thuộc cửu tộc gồm chín đời thân thuộc, thân thuộc tơng tộc hay thân thuộc đồng tông gồm
các người thờ cùng một ông tổ, cùng đội một họ, thân thuộc đồng tính gồm những người cùng đội một

5


họ, những người này có thể khơng thờ chung một ông tổ2. Như vậy, định nghĩa về gia đình ở đây được
chia thành hai loại, thứ nhất, là tiểu gia đình được hiểu gồm có hai vợ chồng và các con vị thành niên,
tức tiểu gia đình này khơng cần phải là có mối quan hệ huyết thống mới là tiểu gia đình mà các con vị
thành niên ở đây cũng có thể hiểu là con ni, thứ hai, đại gia đình được hiểu là tất cả thân thuộc cùng
huyết thống như vậy để được coi là một đại gia đình thì tất cả mọi người đều phải có mối quan hệ
huyết thống chung với nhau.
Theo quan niệm ở cổ Đông phương cũng như quan niệm cổ ở La Mã là quan niệm đại gia đình,
gồm tất cả các bà con cùng huyết thống. Trái lại, theo quan niệm mới, ở phương Tây cũng như ở
phương Đơng, gia đình chỉ gồm có hai vợ chồng và các con chưa trưởng thành sống chung với cha mẹ;
đây là quan niệm tiểu gia đình3.
Theo Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014, gia đình được hiểu là tập hợp những người gắn bó
với nhau do hơn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này.
Như vậy, từ các khái niệm trên có thể rút ra được rằng, gia đình là một tập hợp những người cùng
chung sống cùng gắn bó nương tựa vào nhau do hôn nhân hay do quan hệ máu mủ huyết thống hoặc
quan hệ nuôi dưỡng và giữa họ phát sinh các quyền và nghĩa vụ chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc

gia.
2.

Khái niệm bạo lực gia đình và giải pháp phịng, chống bạo lực gia đình
2.1.
Khái niệm bạo lực gia đình giữa vợ và chồng
Bạo lực được hiểu là “dùng sức mạnh để cưỡng bức, trấn áp hoặc lật đổ”. Khái niệm này dễ làm
người ta liên tưởng tới các hoạt động chính trị, nhưng trên thực tế, bạo lực được coi như một phương
thức hành xử trong các quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp
nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú được chia thành nhiều dạng khác nhau tùy theo từng góc độ
nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực khơng nhìn thấy được; bạo lực với phụ nữ, trẻ em… Theo
quan niệm của các nhà lập pháp Pháp ở Bộ Dân luật 1804, các danh từ ngược đãi, bạo hành và nhục
mạ có mỗi ý nghĩa sau: “Ngược đãi (excès) là những hành vi nguy hại đến tính mạng người phối
ngẫu”; “bạo hành (sévices) là những hành vi làm thương tổn đến nhân thân người phối ngẫu, nhưng
khơng nguy hại đến tính mạng”; “sự nhục mạ (injures) là những lời chửi rủa, khinh bỉ đối với người
phối ngẫu”4. Và các quan niệm này cũng đã được chấp nhận trong Bộ Dân luật Bắc 1931.

6


Theo Liên Hợp Quốc, pháp luật các nước nên đưa ra một định nghĩa rộng, toàn diện về bạo lực
gia đình, bao gồm bạo lực về thể chất, tình dục, tâm lý và kinh tế 5. Thông thường, pháp luật các quốc
gia có xu hướng chỉ chú trọng đến bạo lực về thể chất. Trong khi trên thực tế, bạo lực diễn ra dưới
nhiều hình thức: bạo lực về thể xác, lạm dụng tình dục, tình cảm, tâm lý, tài sản… Liên Hợp Quốc
khuyến nghị rằng pháp luật nên quy định cụ thể hơn về các trường hợp bạo lực ngoài thể xác. Bởi lẽ,
bạo lực về tâm lý rất khó chứng minh và các nhà làm luật cũng như các chuyên gia có liên quan cần
tham gia để xác định một hành vi có thể được xem là cấu thành bạo lực hay không.
Theo Điều 1 khoản 2 Luật PCBLGĐ 2007 quy định: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành
viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành
viên khác trong gia đình.” Theo khoản 1 Điều 3 dự thảo quy định “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý

của thành viên gia đình gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế, tình dục đối với thành viên khác
trong gia đình”. Quy định của dự thảo đã bổ sung thêm về “tình dục”. Hơn nữa dự thảo cũng đã quy
định thêm phần giải thích từ ngữ làm rõ ràng hơn những thuật ngữ còn tối nghĩa.
Như vậy, ở nước ta, quy định của nước ta cũng hoàn toàn phù hợp với quy định của luật mẫu của
Liên hợp quốc: “kêu gọi các nước thông qua định nghĩa rộng nhất về bạo lực gia đình và các mối
quan hệ trong đó bạo lực gia đình xảy ra”6.
Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của thành viên gia đình
gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong
gia đình” (Điều 1 Luật Phịng, chống bạo lực gia đình 2007). Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức
thu nhỏ của xã hội nên bạo lực gia đình có thể coi là hình thức thu nhỏ của bạo lực xã hội với nhiều
dạng thức khác nhau. Xét về hình thức, có thể chia bạo lực gia đình thành các hình thức chủ yếu sau:
- Bạo lực về thể chất: là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên gia đình, làm tổn thương tới sức
khỏe, tính mạng của họ.
- Bạo lực về tinh thần: là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn thương tới danh dự, nhân phẩm,
tâm lý của thành viên gia đình.
- Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về kinh tế của thành viên gia đình
(quyền sở hữu tài sản, quyền tự do lao động…).
- Bạo lực về tình dục: là bất kỳ hành vi nào mang tính chất cưỡng ép trong các quan hệ tình dục
giữa các thành viên gia đình, kể cả việc cưỡng ép sinh con.
Mỗi hình thức bạo lực có thể được biểu hiện dưới nhiều hành vi khác nhau. Luật Phịng, chống
bạo lực gia đình đã quy định các hành vi bạo lực bao gồm:

7


- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;
- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ơng, bà và cháu; giữa cha,
mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;

- Cưỡng ép quan hệ tình dục;
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành
viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động q sức, đóng góp tài chính q khả năng của họ; kiểm
soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;
- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
Những hành vi bạo lực này cũng có thể phân loại thành các nhóm bảo lực nhìn thấy được hoặc
khơng nhìn thấy được. Bạo lực nhìn thấy được có thể gồm bạo lực thân thể bạo lực tình dục. Bạo lực
khơng nhìn thấy được có thể bao gồm các hành vi tâm lý, tình cảm, tinh thần khác 7. Tuy nhiên, khơng
có một ranh giới rõ ràng giữa các loại bạo lực, bởi có những loại bạo lực vừa nhìn thấy được thể hiện
qua các tác động về cơ thể, về sức khoẻ, vừa không nhìn thấy được thể hiện qua những tổn thương về
tinh thần, tình cảm, ví dụ như bạo lực tình dục.
2.2.

Các học thuyết về bạo lực gia đình

Tiếp cận các học thuyết về bạo lực gia đình để nâng cao hiệu quả trong việc nhận diện đúng đắn
và sâu sắc về bản chất, tính chất, nguyên nhân, gốc rễ của bạo lực gia đình là rất cần thiết góp phần giải
thích đầy đủ hơn về BLGĐ, đặc biệt là BLGĐ giữa chồng với vợ.
Về vấn đề này đã có những nghiên cứu của các nhà nữ quyền tiêu biểu như Bhanot and Senn,
năm 2007; Dobash and Dobash, năm 1979; Zosky, năm 19998 cho rằng BLGĐ bắt nguồn từ sự phân bố
không đồng đều về quyền lực giữa hai giới trong xã hội tồn tại hệ tư tưởng nam trị. Nam giới được coi
là có nhiều quyền tiếp cận với các nguồn lực và có quyền ra quyết định nhiều hơn phụ nữ trong khi phụ
nữ bị coi là công dân tầng lớp thứ hai và sống phụ thuộc vào nam giới. So sánh đối chiều về lịch sử các
quốc gia phương Đông cổ đại... Nam giới sử dụng bạo lực gia đình như một cơ chế để duy trì quyền
lực, sự kiểm soát và đặc quyền trong xã hội. Việc áp dụng thuyết nữ quyền vào nghiên cứu bạo lực gia

8



đình có những lợi ích nhất định, nhưng hạn chế lớn nhất của lý thuyết này là nó khơng đủ tính khái
qt đối với tất cả nam giới và khơng bao quát hết những mối quan hệ giữa các cá nhân. Nếu chúng ta
chấp nhận giả thuyết rằng nam giới gắn liền với quyền lực, sự kiểm soát và bạo lực là cơ chế cần thiết
được sử dụng để duy trì hệ tư tưởng gia trưởng vậy tại sao bạo lực lại chỉ xảy ra trong gia đình này và
khơng xảy ra trong gia đình khác9.
Lý thuyết về Quyền lực và bánh xe kiểm soát (The Power and Control Wheel) 10 cũng nhấn mạnh
đến việc nam giới dùng quyền lực như một phương tiện để kiểm soát phụ nữ. Lý thuyết này được phát
triển từ mơ hình can thiệp chống bạo lực gia đình nổi tiếng của Dự án Can thiệp Bạo lực Gia đình ở
Duluth, Minnesota11, Hoa Kỳ. Bánh xe Quyền lực và sự kiểm sốt mơ tả mối quan hệ giữa bạo lực thể
xác và bạo lực tình dục đối với các hành vi như đe doạ, ép buộc, dụ dỗ của người chồng đối với người
vợ. Những hành vi bạo lực này chính là phương tiện để người chồng thực hiện và duy trì quyền lực và
sự kiểm soát đối với vợ. Theo lý thuyết này, những yếu tố như say rượu hay ma tuý chỉ là những yếu tố
thúc đẩy hành vi bạo lực được thực hiện nhanh hơn chứ không phải là nguyên nhân của bạo lực. Người
chồng thực hiện hành vi bạo lực này một cách có ý thức với mục đích buộc người vợ phải phục tùng
mình. Chính quan điểm này của người chồng mới là nhân tố quyết định dẫn đến hành vi bạo lực chứ
không phải thái độ của người vợ là ngun nhân vì đơi khi người vợ bị đổ lỗi cho việc họ trở thành nạn
nhân và nhiều người cho rằng chính người vợ tự đẩy mình vào nguy cơ bị bạo hành. Một khi người
chồng đã có sự kiểm sốt thì quyền lực này càng được củng cố bằng các hành vi đe dọa mà không cần
dùng đến bạo lực nữa.
Sự lý giải này cho chúng ta thấy phần nào bản chất của bạo lực gia đình là một hành vi do cá
nhân tạo ra một cách có ý thức. Việc sử dụng bạo lực của người chồng đối với người vợ không phải chỉ
để đạt được và duy trì sự kiểm sốt mà nó cịn nhắc nhở người phụ nữ về vị trí phụ thuộc của họ đối
với người chồng12. Thông thường khi bị đánh đập hoặc đe doạ bạo lực, người vợ thường cố gắng để
làm hài lòng người chồng đối với hy vọng anh ta sẽ không tiếp tục lặp lại các hành vi gây bạo lực. Họ
có thể sẽ phải từ bỏ rất nhiều sở thích hay cắt đứt mối quan hệ với những người anh ta khơng cho phép,
hoặc thậm chí phải nghỉ việc nếu anh ta muốn vậy. Khi đó, người phụ nữ nghĩ rằng mình đã cố gắng rất
tốt để làm hài lịng chồng nhưng thực chất họ đã hồn tồn bị kiểm sốt bởi người chồng và đó cũng
chính là điều mà anh ta mong muốn khi thực hiện hành vi bạo lực.


9


Thuyết cấu trúc xã hội (Societal Structure Theory) 13 cũng khẳng định chính sự mất cân bằng
quyền lực là nguyên nhân tiềm ẩn của bạo lực gia đình. Theo lý thuyết này, BLGĐ đối với phụ nữ là
biểu hiện của vị thế bất bình đẳng của phụ nữ trong cộng đồng.
Các lý thuyết nêu trên cũng có thể được vận dụng trong việc lý giải cho các hành vi bạo lực của
cha mẹ đối với con cái và con cháu đối với ơng bà. Điểm mấu chốt ở đây chính là mối quan hệ quyền
lực không cân bằng, khi người chồng nắm giữ quyền lực đối với người vợ, cha mẹ có quyền lực đối
với con cái và các con cháu nắm giữ quyền lực về kinh tế và sự chăm sóc đối với người cao tuổi.
Đối với lý thuyết hệ thống14, gia đình là một tổ chức năng động được tạo nên từ những thành viên
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau bởi vậy hành vi của một thành viên và khả năng lặp lại hành vi đó
của thành viên này bị tác động bởi những phản ứng và nhận xét của thành viên khác. Nếu hành vi bạo
lực của một thành viên gia đình đối với thành viên khác khơng bị ngăn chặn thì nó có thể lại tiếp tục.
Mở rộng ra, sự can thiệp, ngăn chặn của những người trong họ tộc người thân có vai trò quan trọng đối
với việc hạn chế các hành vi bạo lực gia đình. Điểm mạnh của cách tiếp cận này là nó cho thấy hành
động của các thành viên gia đình có thể tác động đến cả những hành vi bạo lực của cả nam và nữ của
các nhóm xã hội khác nhau15. Những nhà nghiên cứu về bạo lực gia đình đã sử dụng khía cạnh này cho
các chương trình truyền thơng hướng dẫn kĩ năng giải quyết xung đột trong quan hệ gia đình.
Các lý thuyết trên đây đưa ra những sự giải thích riêng của mình và gắn với nó là các giải pháp
can thiệp hoặc hỗ trợ phù hợp. Mặc dù không lý thuyết nào có được cách giải thích tồn diện về
ngun nhân, bản chất của bạo lực gia đình nhưng rõ ràng mỗi lý thuyết đều có những luận điểm riêng.
Việc kết hợp nhiều lý thuyết để giải thích tỏ ra khá hiệu quả vì nó giúp nhà nghiên cứu có cái
nhìn sâu sắc hơn về vấn đề bạo lực gia đình. Qua các lý thuyết đó có thể thấy rằng bạo lực gia đình là
một hiện tượng phức tạp, chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau từ môi trường xã hội, gia đình,
và tính cách của cá nhân16.
2.3.

Khái niệm giải pháp phịng bạo lực gia đình giữa vợ và chồng


Dân gian có câu “mất bị mới lo làm chuồng” ý chỉ khi hậu quả đã phát sinh, đã gây thiệt hại thì
mới phịng lúc này đã q muộn. Trong cuộc sống, việc phịng tránh rủi ro ln tốt hơn là để đến lúc
xảy ra mới xử lý. Trong vấn đề bạo lực cũng vậy, việc phòng bạo lực gia đình giữa vợ và chồng là một
việc làm hết sức cần thiết để bảo vệ duy trì trật tự và cơng bằng xã hội, góp phần bảo vệ các lẽ chung
của cộng đồng và xã hội. Giải pháp phòng bạo lực giữa vợ và chồng được hiểu là tìm ra những giải

10


pháp, biện pháp tác động vào quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển của bạo lực giữa vợ và chồng,
đồng thời khắc phục được nguyên nhân và điều kiện xuất hiện bạo lực giữa họ. Bạo lực giữa vợ và
chồng phát sinh, tồn tại với những nguyên nhân và điều kiện khác nhau, song chúng ta hoàn toàn có
khả năng phịng ngừa và ngăn chặn hành vi bạo lực giữa vợ và chồng khi nó chưa xảy ra. Muốn giảm
thiểu bạo lực giữa vợ, chồng thì ngay từ lúc đầu phải có những giải pháp hiệu quả để phòng bạo lực,
làm cho bạo lực giữa vợ, chồng xảy ra ít hơn và tiến tới khơng xảy ra bạo lực17.
2.4.

Khái niệm giải pháp chống bạo lực gia đình giữa vợ và chồng

Chỉ khi xảy ra vấn đề bạo lực để ở một diễn biến nghiêm trọng hơn, có thể nói là nguy hiểm hơn
cả về mức độ và tần suất. Và chỉ khi tình hình đã thực sự nguy cấp thì mới nhờ đến các tổ chức đồn
thể, cơng an, chính quyền vào cuộc với hy vọng rằng các tổ chức này gây áp lực và có biện pháp hiệu
quả nhằm chống lại bạo lực một cách nhanh và an tồn nhất vì vậy khái niệm này sinh ra dựa vào
những căn cứ trên.
Như vậy, giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình giữa vợ và chồng được coi là một việc làm hết
sức quan trọng và cần thiết nhằm làm giảm thiểu số lượng các vụ bạo lực trong hơn nhân. Các hoạt
động hướng tới việc phịng ngừa, ngăn chặn xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về phịng, chống bạo
lực gia đình cần sự thực hiện đồng bộ từ các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, gia đình và mỗi cá
nhân.
3.


Hậu quả của bạo lực gia đình giữa vợ và chồng và vai trị của việc phịng, chống bạo lực gia
đình giữa vợ và chồng
3.1.
Hậu quả của bạo lực gia đình giữa vợ và chồng
Ngày nay, tình trạng bạo lực giữa vợ và chồng đang xảy ra tại nhiều nơi trên khắp cả nước. Theo
Tổng cục thống kê, nghiên cứu mới năm 2020 cho thấy tỷ lệ bạo lực gia đình ở Việt Nam ở mức cao.
Theo Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực Gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam được Chính phủ Việt Nam
và Liên Hợp Quốc cơng bố, cứ 3 phụ nữ có gia đình hoặc đã từng có gia đình thì có 1 người (34%) cho
biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Số phụ nữ có hoặc từng có gia đình hiện
đang phải chịu một trong hai hình thức bạo hành này chiếm 9%. Nếu xem xét đến cả ba hình thức bạo
hành chính trong đời sống vợ chồng – thể xác, tình dục và tinh thần, thì có hơn một nửa (58%) phụ nữ
Việt Nam cho biết đã từng là nạn nhân của ít nhất một hình thức bạo lực gia đình kể trên. Các kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ bị chồng mình lạm dụng nhiều hơn gấp ba lần so với khả
năng họ bị người khác lạm dụng. Các số liệu mới được đưa ra đã nêu bật một thực trạng là đa số phụ
nữ Việt Nam đều có nguy cơ tiềm tàng bị bạo lực gia đình ở một hay một vài thời điểm nào đó trong
cuộc sống của họ. Tại một số vùng ở Việt Nam, cứ 10 phụ nữ thì có 4 người nhận thấy gia đình khơng
phải là nơi an tồn đối với họ. Ví dụ, ở vùng Đông Nam Bộ, 42% phụ nữ cho biết họ đã từng bị chồng

11


mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Tuy nhiên, mặc dù có sự khác biệt giữa các vùng miền, khu vực,
nhưng sự khác biệt lớn nhất có thể nhận thấy là giữa các dân tộc, trong đó tỷ lệ phụ nữ cho biết họ
đang hoặc đã từng là nạn nhân của bạo lực gia đình dao động từ 8% (người H’Mong) đến 36% (người
Kinh)18.
Hậu quả về thể chất, dưới tác động của những hành vi bạo lực như đánh đập, ngược đãi, tra tấn...
Nạn nhân có thể sẽ bị thương hoặc ảnh hưởng đến sức khỏe, thậm chí có thể bị thiệt mạng. Dạng bạo
lực này chiếm tỷ lệ cao nhất trong các vụ bạo lực trên cơ sở giới.
Hậu quả về tinh thần, những nghiên cứu quy mô nhỏ cho thấy bạo lực tinh thần chiếm từ 19%

đến 55%19. Những hành vi bạo lực giữa vợ và chồng như lăng mạ, chửi bới, đe dọa hoặc các hành vi
xúc phạm khác, kiểm soát và ngăn cấm vợ tham gia các hoạt động xã hội hoặc kinh tế có thể ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần của họ.
Có thể thấy rằng bạo lực giữa vợ và chồng được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào cũng không
tốt cho thể chất và tinh thần của vợ hoặc chồng bị bạo lực.
3.2.

Vai trò của các giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình giữa vợ và chồng
Các giải pháp phịng, chống bạo lực gia đình đóng vai trị rất quan trọng khơng chỉ trong việc giữ
gìn hạnh phúc gia đình của mỗi các nhân mà nó cịn góp phần ổn định trật tự xã hội, xây dựng một xã
hội ngày càng văn minh và phát triển.
Gia đình là một tế bào cơ bản và tự nhiên cấu thành nên từng cộng đồng, xã hội. Gia đình là nơi
bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của mỗi cá nhân và đối với Việt Nam, có lẽ gia đình cũng chính
là một trong những giá trị xã hội quan trọng bậc nhất. Gia đình yên ấm hạnh phúc, các thành viên trong
gia đình u thương nhau chính là tiền đề cho một xã hội tiến bộ, với những con người biết yêu thương
và biết cách ứng xử chuẩn mực với mọi người xung quanh. Bởi lẽ, nói cho cùng, gia đình vẫn chính là
cái nơi giáo dục con người từ khi sinh ra. Chính vì vậy, các giải pháp phịng, chống bạo lực gia đình,
dưới một góc độ nào đó, chính là một trong những giải pháp góp phần làm phát triển đất nước ngày
một văn minh, tiến bộ.
Bên cạnh sự ứng xử tự nhiên theo các chuẩn mực đạo đức của các thành viên trong gia đình với
nhau thì các giải pháp phịng, chống bạo lực gia đình cũng góp phần trong việc xây dựng một gia đình
gắn kết, u thương nhau. Bởi lẽ, khơng phải lúc nào con người ta cũng có thể tuân theo những chuẩn
mực đạo đức bất thành văn. Đạo đức của con người trong nhiều trường hợp có thể bị suy đồi và xuống
cấp. Mặt khác, các giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình thường có sự thực hiện đồng bộ từ các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội, gia đình và mỗi cá nhân, nên những giải pháp này tác động một

12


cách mạnh mẽ, có hiệu quả cao hơn nhiều và thậm chí một số giải pháp (như ban hành các quy định

pháp luật) cịn mang tính bắt buộc. Có thể nói, các biện pháp phịng, chống bạo lực gia đình đã góp
phần khơi dậy và làm hồn thiện những chuẩn mực đạo đức vốn có trong mỗi gia đình, góp phần xây
dựng một gia đình hạnh phúc.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẠO LỰC
GIA ĐÌNH GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
1.
1.1.

Sơ lược về quy định của pháp luật Việt Nam
Bộ luật Hồng Đức và Hoàng Việt luật lệ
Bộ luật Hồng Đức (BLHĐ) được soạn thảo và ban hành trong bối cảnh lịch sử đầy biến cố và
phức tạp của Đại Việt. Bộ luật ra đời và gánh vác trên vai nó những trách nhiệm và thách thức rất nặng
nề đến mức khó tin là có thể đảm đương nổi, khó tin là có thể vượt qua được. Nhưng BLHĐ đã làm
tròn sứ mệnh lịch sử của nó một cách đặc biệt xuất sắc. Kỷ cương, phép nước một khi đã được xác lập
trở lại thì xã hội ổn định. Xã hội ổn định là điều kiện hàng đầu cho mọi sự phát triển đi lên của đất
nước đó là quy luật bất biến trong đạo trị nước an dân và cũng đúng với tinh thần của các nhà Luật gia
La Mã cổ đại “UBI SOCIETAS, IBI IUS”20 ở đâu có xã hội ở đó có pháp luật.
BLHĐ đã được rất nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá cao về kỹ thuật lập pháp
và những quy định có giá trị tiến bộ trong lĩnh vực hơn nhân gia đình điển hình như nhận xét của Giáo
sư (GS) Lưu Nhân Thiện ( 유유유), Chủ nhiệm Khoa Đại học Cao Ly, Đại học Quốc gia Seoul: “Quốc
triều hình Luật nhà Lê có 249 điều giống luật nhà Đường và 68 điều vay mượn từ Luật nhà Minh,
nhưng còn 456 điều của Quốc triều hình luật thì khơng tìm thấy trong hai bộ luật đó của các triều đại
phong kiến Trung Hoa” hay GS Vũ Văn Mẫu nguyên trưởng khoa Luật Đại học đường Sài Gòn trước
đây nhận xét rằng: “Trong Bộ luật nhà Lê có rất nhiều điều tân kỳ, chưa hề được ban hành bao giờ ở
Trung Quốc. Những điều luật ấy rải rác khắp trong Bộ luật nhà Lê, nhất là trong hai chương Hộ hôn
và Điền sản. Hai chương này là một tân kỳ mới mẻ”. Một trong những điều “tân kỳ mới mẻ” đó mà GS
Vũ Văn Mẫu lý giải là: “Theo quan niệm cổ điển, các điều thuộc về dân luật thường không được nhà
làm luật Đông phương quy định, cũng khơng nói rõ ràng về cách thức thảo các văn tự, chứng thực,

chúc thư, không định rõ về chế độ tài sản của vợ chồng trong lúc sinh thời cũng như trong khi góa
bụa, khơng ấn định minh bạch các việc thừa kế; còn ba Điều 374, 375, 376 thuộc mục “điền sản mới
tăng thêm” của Quốc triều hình luật lại ghi rất rõ những nội dung này. Về Luật Hơn nhân, Luật nhà
Lê cũng giải thích cặn kẽ. Các điều về hương hỏa đã đề cập đến một chế độ hồn tồn Việt Nam,
khơng hề thấy trong Luật nhà Đường, nhà Minh”21. Bộ luật Hồng Đức đã để lại nhiều giá trị ý nghĩa
cho việc xây dựng luật pháp hiện nay của chúng ta nhất là ở lĩnh vực hơn nhân gia đình, Bộ luật trước

13


hết đã bảo vệ quyền lợi cơ bản của con người đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến khắc
nghiệt nơi ln ln có tư tưởng “trọng nam khinh nữ” rất nặng nề.
Ngoài ra, những điểm tiến bộ trong việc quy định về chế định kết hôn được GS. Vũ Văn Mẫu
nhận xét: “Nhà làm luật thời Lê đã biết thích ứng các nghi lễ của Khổng giáo cho hợp với tình trạng
xã hội và quyền lợi của dân tộc vừa tránh nạn tảo hôn, vừa không nhất thiết gị bó theo khn khổ cố
định của lễ giáo Trung Hoa22, luật nhà Lê cịn thốt ra khỏi tư tưởng “trọng nam khinh nữ” tuyệt đối
như ở Trung Quốc, vấn đề này trong luật nhà Lê đã có một sự quy định hướng tới bảo vệ người phụ nữ
hơn trong gia đình. BLHĐ đã có những quy định về phòng chống bạo lực gia đinh giữa vợ và chồng
rất tiến bộ.”
Theo Khổng giáo, người vợ bước chân về nhà chồng phải theo chồng “xuất giá tòng phu” song
nghĩa vụ tịng phu này khơng có nghĩa là truất hết các quyền lợi của người vợ trong gia đình 23. Ý nghĩa
của chữ tòng phu cũng giống với ý nghĩa “người gia trưởng”24 trong luật của Âu-Mỹ. Vì thế, người
phụ nữ kết hơn với người đàn ơng lập gia đình thì khơng đồng nghĩa với việc người vợ bị rũ bỏ hết tất
cả những quyền lợi trong gia đình, tất nhiên trong một gia đình thì phải có vai trị của người điều hành
gia đình nhưng vấn đề này cũng không thể nào loại bỏ được những quyền lợi của người vợ. Trong cổ
luật La Mã có quan niệm “phu quyền” tức là đề cao vai trò của người đàn ông một khi người phụ nữ đã
lập gia đình thì người phụ nữ khơng cịn quyền lợi trong gia đình, trái lại với luật nhà Lê thì khơng có
quan niệm này. Nghĩa vụ tịng phu giải thích cho chúng ta hiểu địa vị của người phụ nữ trong gia đình
và những hành xử bị cấm của người chồng đối với người vợ.
Bản chất của nghĩa vụ tịng phu là hình thức tổ chức gia đình phụ hệ, trong gia đình Việt Nam

thời bấy giờ người vợ cả ngang hàng với người chồng, tức người vợ khơng bị tước đoạt gì về quyền lợi
và vẫn có những quyền nhất định trong gia đình.
Mặc dù nghĩa vụ tịng phu đặt ra vấn đề người vợ phải phục tùng chồng song khơng vì sự phục
tùng đó mà người chồng lại có những hành vi đối xử bạc bẽo đối với người vợ. Người chồng không
được hành xử phu quyền như trong cổ luật La Mã, luật cho phép người chồng có quyền răn bảo dạy dỗ
vợ nhưng bất luận là vợ thứ hay vợ cả đều khơng được có những hành vi tàn ác, đánh đập vợ. Vấn đề
này đã được điều chỉnh ở Điều 482 quy định: “Chồng đánh vợ bị thương, thì phải tội kém tội đánh
người thường ba bậc; nếu đánh vợ chết, thì phải tội kém tội ẩu sát (đánh chết người) ba bậc; tiền đền
mạng được bớt ra phần mười; cố ý đánh chết thì tội giảm một bậc; nếu có tội mà đánh chết, thì xử
khác. Đánh vợ thứ từ chiết thương (thương tích làm gãy xương) trở lên thì tội kém tội đánh vợ cả hai
bậc. Nếu vợ bị chồng đánh, phải có vợ cả hay vợ thứ đứng thưa mới bắt tội người chồng; trường hợp

14


vợ bị đánh chết, bất luận người nào cũng đứng thưa được cả”25. Hơn nữa, pháp luật nhà Lê không chỉ
quy định sự bạo lực từ người chồng mà còn quy định cả về phía người vợ ở Điều 481: “ Vợ đánh chồng
thì phải lưu ngoại châu: đánh chiết thương thì phải lưu viễn châu: điền sản phải để cho chồng; nhưng
cũng phải có chồng thưa mới bắt tội. Vợ thứ đánh chồng, thì tội gia thêm một bậc. Nếu đánh chồng
chết thì thê hay thiếp đều phải tội giảo; điền sản trả cho con cháu hay người thừa tự của chồng ”26, như
vậy vợ đánh chồng dù có thương tích hay khơng đều bị tội.
Kế thừa từ những thành tựu lập pháp của nhà Lê, pháp luật nhà Nguyễn, Hồng Việt luật lệ
(HVLL) cũng có quy định ở Điều 28427 cũng trừng phạt những hành vi bạo lực của người chồng, nếu
chồng đánh vợ mà không đến chiết thương thì khơng phải tội; nếu đánh vợ đến chiết thương trở lên thì
tội kém tội đánh người thường hai bậc; và phải có vợ thưa thì mới khép tội người chồng. Nếu đánh vợ
chết, người chồng bị tội giảo giam hậu, ngồi sự trừng phạt về hình sự, trong trường hợp bị đánh đến
chiết thương, người vợ có quyền được xin ly dị, nhưng quan xử án chỉ cho ly dị nếu người chồng đồng
ý. Nếu một trong hai người phối ngẫu khơng bằng lịng ly dị, giải pháp này không được chấp nhận và
người chồng chỉ bị phạt về tội đánh vợ. Cịn người vợ đánh chồng thì HVLL quy định ở Điều 28 theo
tinh thần nếu vợ đánh chồng thì phạt 100 trượng, nếu chồng muốn ly dị, cho phép; nhưng phải có

chồng thưa mới bắt tội. Nếu đánh chồng chiết thương, phải tội người thường đánh chiết thương gia
tăng thêm ba bậc; nếu đánh chồng tàn tật bị xử giảo quyết; nếu cố ý giết chồng, bị tội lăng trì; đần độc
chồng chết cũng xử như vậy, còn đối với vợ thứ đánh chồng, tội còn phải gia tăng thêm một bậc.
Có thể thấy rằng, vấn đề phịng chống bạo lực gia đình đã được các nhà lập pháp thời Lê quan
tâm và cụ thể hoá tại quy định của luật, phải nói rằng Bộ luật Hồng Đức đã tiến bộ rất nhiều khi đã
công khai bảo vệ quyền lợi của người vợ trong gia đình mặc dù lễ giáo của phong kiến là “trọng nam,
khinh nữ” nhưng dường như quan niệm này không cực đoan đến mức như pháp luật của Trung Hoa.
Dù cho người vợ có nghĩa vụ phục tùng chồng, ngoan ngỗn theo chồng và vâng lời chồng đến thế nào
đi chăng nữa thì người chồng cũng khơng bao giờ được hành xử như đánh đập vợ, pháp luật nhà Lê
không cho phép điều này. Nếu như người chồng phạm phải thì sẽ phải chịu chế tài theo quy định của
luật, như đã khẳng định luật nhà Lê đều hình sự hố các quan hệ dân sự, hơn nhân gia đình 28.... Kế thừa
những quy định tiến bộ của BLHĐ, HVLL cũng quy định người chồng không được đánh vợ. Cả hai bộ
luật phong kiến cũng rất hợp lý, hợp tình khi quy định rằng trong cả hai trường hợp vợ đánh chồng hay
chồng đánh vợ, đều phải có người bị đánh cáo quan thì mới bắt tội. Quy định này nhằm hạn chế sự can
thiệp từ bên ngoài vào trong mối quan hệ gia đình 29. Nó giành cho vợ chồng quyền tự ý quyết định

15


1.2.

cách xử sự cần thiết trong từng trường hợp cụ thể cho phù hợp với hồn cảnh gia đình mình đồng thời
tạo điều kiện hàn gắn quan hệ vợ chồng 30. Qua đó, cho thấy mặc dù bảo vệ trật tự sự ổn định trong gia
đình song pháp luật chỉ can thiệp khi cần thiết.
Tuy nhiên, như chúng ta đã biết Bộ luật Hồng Đức và Hoàng Việt luật lệ thời bấy giờ chưa phân
biệt thành các ngành luật cụ thể31 mà chỉ theo hướng cụ thể hoá những hành vi trong quan hệ xã hội
gây ảnh hưởng tới trật tự cơng cộng, vì vậy chính cách quy định hành vi quá cụ thể của Bộ luật Hồng
Đức đã chưa dự liệu, chưa chạm tới được những thể loại bạo lực gia đình khác như đã phân tích vì
ngồi bạo lực gia đình giữa vợ và chồng về thể xác cịn có những loại bạo lực gia đình giữa vợ và
chồng về tinh thần, kinh tế... Không thể không phủ nhận rằng, các nhà làm luật thời xưa đã có những tư

tưởng tiến bộ trong xã hội đương thời nơi mà giá trị người phụ nữ rất rẻ rúng, pháp luật nhà Lê đã phần
nào có sự trừng phạt đối với người chồng khi có hành vi xâm phạm quyền được bảo vệ tính mạng, sức
khoẻ của người vợ là một cách thức hạn chế quyền gia trưởng của người chồng, bảo vệ được quyền của
người vợ và đó là địi hỏi tất yếu, rất cần thiết khơng chỉ trong xã hội phong kiến thời Lê mà ngay
trong hoàn cảnh xã hội thời hiện đại để chống nạn bạo lực gia đình, mặc dù đã có những điểm tiến bộ
nhưng có thể thấy rằng giữa hai bộ luật phong kiến hình phạt đối với người chồng đánh vợ rất nhẹ, trái
lại hình phạt đối với người vợ đánh chồng rất nặng, người vợ mà phạm tội thì phải bị tội lưu theo Bộ
luật Hồng Đức, cịn trong Hồng Việt luật lệ người vợ có thể bị xử giảo quyết hay nặng hơn là lăng trì.
Điều này cũng dễ hiểu, vì xã hội đương thời là xã hội phong kiến, tổ chức gia đình theo chế độ phụ hệ
đề cao gia trưởng nên hình phạt đối với người chồng sẽ nhẹ hơn so với người vợ.
Pháp luật thời phong kiến của Việt Nam đã có nhiều sự tiến bộ vượt bậc song song đó vẫn cịn
một số hạn chế vì chịu ảnh hưởng nhiều bởi các học thuyết Nho giáo, Pháp trị... Pháp luật thời phong
kiến là một mốc son khi công khai bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến khắc
nghiệt, mặc dù người vợ phải phục tùng chồng hết mực nhưng người chồng không vì thế mà có những
hành xử khơng chuẩn mực đối với người vợ. Bộ luật Hồng Đức và cả Hoàng Việt luật lệ đã để lại một
tư tưởng lập pháp nhân đạo.
Luật Hơn nhân và Gia đình 2014
Quan hệ giữa vợ chồng được Luật Hơn nhân và Gia đình (LHNGĐ) năm 2014 điều chỉnh, từ xa
xưa khi con người vừa tách ra khỏi thiên nhiên đã có sự liên kết giữa đàn ông và đàn bà. Ban đầu sự
liên kết đó mang tính nhất thời, lỏng lẻo, dễ dàng bị phá vỡ. Cùng với thời gian, sự liên kết đó dần
mang tính bền chặt, lâu dài dựa trên sự chung sống. Chính sự chung sống đó đã tạo thành một nhóm xã
hội có tính dụng khá chặt chẽ, bền vững để cho ra đời những đứa trẻ và nuôi dậy chúng. Nhóm xã hội
đó gọi là gia đình, người đàn ông và người đàn bà liên kết với nhau gọi là vợ chồng. Dần dần, quan hệ
vợ chồng được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật nên được gọi là quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng.

16


Xuất phát từ mục đích của việc xác lập quan hệ hơn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. LHNGĐ 2014 khi điều chỉnh các quan hệ giữa vợ và chồng đã

dựa trên nguyên tắc tiến bộ - bình đẳng. Nguyên tắc đó thể hiện trong các quy định về quyền và nghĩa
vụ giữa vợ và chồng. Đây là điểm khác biệt cơ bản nhất, thể hiện sự tiến bộ của chế độ hơn nhân gia
đình mới ở nước ta hiện nay.
Như đã phân tích, pháp luật Việt Nam đã sớm điều chỉnh quan hệ giữa vợ và chồng trong gia đình
thể hiện qua các quy định của BLHĐ và HVLL và còn đi xa hơn trong việc phòng chống nạn bạo lực
gia đình trong xã hội ảnh hưởng mạnh ý niệm gia trưởng. Sau Cách mạng tháng Tám, bản hiến pháp
đầu tiên của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra đời đã khẳng định quyền bình đẳng giữa nam và
nữ, trong quá trình phát triển của xã hội và sự đổi mới của đất nước, hệ thống pháp luật của nhà nước
ta ngày càng hoàn thiện nhằm xây dựng và củng cố chế độ xã hội văn minh, hiện đại và phục vụ lợi ích
của nhân dân. Các bản hiến pháp sau này đều khẳng định quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và
chồng. Trên cơ sở đó, pháp luật hơn nhân và gia đình quy định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Với tư
cách là cơng dân, vợ chồng có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của công dân đã được hiến pháp cơng
nhận bên cạnh đó vợ chồng cịn có các quyền và nghĩa vụ với nhau, với gia đình và xã hội. Có thể thấy
ở chương III quan hệ giữa vợ và chồng đã được pháp luật điều chỉnh, vợ và chồng có quyền bình đẳng
với nhau về mọi mặt gia đình... Đặc biệt ở Điều 18 LHNGĐ 2014 có quy định về việc bảo vệ quyền và
nghĩ vụ về nhân thân của vợ, chồng: “Quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng quy định tại Luật
này, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan được tôn trọng và bảo vệ”, thêm nữa ở Điều 21 cũng
quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ tơn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.”
Với quy định này, có thể hiểu rằng xuất phát từ tình yêu thương mà nam nữ xác lập quan hệ hơn
nhân với nhau. Tình u thương, lịng chung thủy là yếu tố có tính chất quyết định cho vợ chồng thực
hiện các quyền và nghĩa vụ với nhau và là cơ sở để quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững. Từ tình u
thương đó mà vợ chồng phải chung thủy với nhau, tình cảm vợ chồng trước sau như một, gắn bó khơng
đổi thay. Sự q trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng thể hiện ở hành vi, cách xử sự và thái độ của họ đối
với nhau: tơn trọng nhau, giữ gìn danh dự, uy tín, nhân phẩm cho nhau... Trong những năm gần đây, sự
tác động của các yếu tố xã hội, sự giao thoa của nhiều nền văn hóa đã dẫn đến lối sống của một bộ
phận dân cư thay đổi, vì vậy giá trị gia đình cũng thay đổi theo. Tình trạng bạo lực giữa vợ và chồng
xảy ra trong nhiều gia đình mà nạn nhân chủ yếu là người vợ. Những hành vi đó đã vi phạm nghiêm
trọng đến quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng phải là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ly
hơn. Để đảm bảo các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng pháp luật quy định ở Điều 5 cấm
người đang có vợ hoặc có chồng kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. Mà hành vi

ngược đãi, hành hạ, xúc phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm của vợ và chồng, cấm hành vi bạo lực gia
đình. Vợ chồng có nghĩa vụ tơn trọng giữ gìn và bảo vệ danh dự nhân phẩm uy tín cho nhau. Đối với
người đã thực hiện các hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền nhân thân của vợ và chồng có thể bị xử lý
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
17


1.3.

LHNGĐ hiện hành đã có nhiều điểm tiến bộ hơn so với các quy định pháp luật thời trước, quy
định rõ hơn về trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng và hơn hết để bảo vệ chế độ hơn nhân
gia đình, pháp luật hơn nhân gia đình nghiêm cấm vợ hoặc chồng có những hành vi bạo lực gia đình.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu LHNGĐ 2014 chúng ta khơng bắt gặp được một giải pháp phịng ngừa và
ngăn chặn hiệu quả hơn khi cho phép vợ và chồng được ly thân.
Ngoài LHNGĐ 2014, vấn đề bạo lực gia đình giữa vợ và chồng cũng đã được điều chỉnh bởi rất
nhiều văn bản luật và văn bản dưới luật khác mà điển hình là luật Phịng chống Bạo lực gia đình 2007.
Luật Phịng, chống bạo lực gia đình 2007 và Dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
sửa đổi
Trước hết là vấn đề phịng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Trong những năm gần đây
Đảng và nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm đến vấn đề này. Bằng việc ký kết Công ước Convention
on the Elimination of All Forms of Discrimination Against Women, Việt Nam thể hiện sự cam kết đầy
đủ của mình đối với việc thủ tiêu mọi hình thức xâm phạm quyền phụ nữ và phân biệt đối xử với phụ
nữ. Đảng và nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật và chính sách thể hiện rõ nguyên tắc
bình đẳng nam nữ, khơng phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào. Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xâm phạm nhân phẩm phụ nữ” (Điều 63), Hiến
pháp 2013 ngoài những quy định bảo vệ quyền của con người, quyền công dân, đặc biệt hiến pháp hiện
hành còn quy định tại Điều 26: “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển tồn
diện, phát huy vai trị của mình trong xã hội”. Với quy định này, nhà nước Việt Nam đã cụ thể hoá
những nội dung mà Việt Nam đã cam kết trong các điều ước quốc tế tạo điều kiện cho phụ nữ phát
triển về toàn diện, để thực hiện tốt vấn đề này, nhà nước cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm

pháp luật để điều chỉnh cụ thể Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017: “Tội xâm phạm quyền bình
đẳng giới là trường hợp vì lý do giới mà thực hiện hành vi dưới bất kì hình thức nào cản trở người
khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ, văn hố, thơng tin, thể dục thể thao, y tế” (Điều 165). Luật tổ chức Chính phủ 2015 quy
định nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong việc thực hiện chính sách xã hội: “Chỉ đạo và tổ
chức thực hiện chính sách xây dựng gia đình Việt Nam bình đẳng, ấm no, hạnh phúc; bảo đảm quyền
bình đẳng nam, nữ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình; bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người
mẹ và trẻ em; có biện pháp ngăn ngừa và chống mọi hành vi bạo lực, xúc phạm nhân phẩm đối với
phụ nữ và trẻ em.” (Điều 15).
Bên cạnh đó cịn có các biện pháp khác nhằm bảo đảm thi hành ngun tắc bình đẳng nam nữ
thơng qua hoạt động của các cơ quan tổ chức nhà nước và các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, nghề
nghiệp mà mỗi cá nhân là thành viên. Chẳng hạn trong lĩnh vực chính trị, phụ nữ Việt Nam có đại diện
ở tất cả các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước: 2 Ủy viên Bộ Chính trị; 1 Bí thư Trung
ương Đảng; 2 Phó Chủ tịch Quốc hội; 1 Phó Chủ tịch nước; 11 Bộ trưởng và tương đương. Số nữ đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân chiếm khoảng 25% tổng số đại biểu. Có 50% Bộ, Cơ
quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo là nữ. Riêng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đã có 3 nhiệm
18


kỳ liên tiếp Bộ trưởng là nữ. Ở cấp địa phương, có 60% số tỉnh có lãnh đạo tỉnh là nữ. Trong lĩnh vực
kinh tế lao động, việc làm, khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm ngày càng thu
hẹp. Tỷ lệ nữ làm giám đốc/chủ doanh nghiệp và chủ trang trại ngày càng gia tăng, với tỷ lệ tương ứng
28% và 9%. Trong tổng số lao động được tạo việc làm giai đoạn 2011-2015, số lao động nữ chiếm
khoảng từ 49%, lao động nam chiếm 51%. Khơng có sự khác biệt đáng kể giữa nam và nữ trong tạo
việc làm. Cũng như vậy, khơng có sự khác biệt về tỷ lệ thất nghiệp theo giới. Trong lĩnh vực giáo dục
và đào tạo Chính phủ Việt Nam đã ban hành “Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020”.
Trong khuôn khổ thực hiện đề án này, số lượng học sinh đến trường tăng lên ở từng cấp học. Số học
sinh nữ từ cấp trung học phổ thông đến đại học đều cao hơn so với học sinh nam. Chính phủ đặc biệt
quan tâm đến việc xóa mù chữ và đã có một chương trình quốc gia về xóa mù chữ, dành sự quan tâm
đặc biệt đối với phụ nữ, trẻ em gái vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tính đến năm

2014, tỷ lệ người dân tộc thiểu số biết chữ đạt 93,76%, trong đó nữ dân tộc thiểu số đạt 93,4% (vượt
mục tiêu đề ra là 90% vào năm 2015). Tỷ lệ phụ nữ có học vấn cao ngày càng tăng. Năm 2015, 47%
trong số những người có trình độ thạc sỹ, 20% trong số những người có trình độ tiến sỹ là nữ so với
mục tiêu tương ứng là 40% và 20% của Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới32.
Những văn bản và quy định pháp luật nêu trên có tác dụng lớn đối với việc nâng cao địa vị và vai
trò người phụ nữ cũng như bảo vệ và chăm sóc người phụ nữ. Tuy nhiên trước khi có Luật Phịng,
chống bạo lực gia đình (LPCBLGĐ) 2007, nhiều văn bản pháp luật và chính sách chỉ đề cập đến giới
một cách chung chung không nhận thức hết tầm quan trọng của quan hệ giới trong mỗi gia đình.
Khơng có các điều khoản riêng cho việc xử lý mối quan hệ giới trong gia đình. Theo nhận xét của bà
Trần Thị Minh Chánh, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội: “ Mặc dù
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ khỏi các hành vi phân biệt đối xử và xúc
phạm, nhất là đối với phụ nữ đã được quy định trong các luật hôn nhân gia đình, bộ luật hình sự...
nhưng việc thực thi các quy định này cịn ít hiệu quả. Có thể nói rằng mặc dù những quyền này được
thực thi tốt ngoài xã hội, xong gần như đều dừng lại ở cửa ngõ của các gia đình.”
Bước tiến quan trọng trong việc đấu tranh với bạo lực gia đình đối với phụ nữ Việt Nam là Luật
Bình đẳng giới được Quốc Hội khóa 11 thơng qua 29/11/ 2006. Luật quy định hành lang pháp lý cơ
bản về thực hiện bình đẳng giới, là nền tảng cho việc phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
Sự kiện đặc biệt quan trọng là Luật phịng, chống bạo lực gia đình được Quốc Hội khóa 12 thơng
qua 11/2007. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử pháp lý của Việt Nam, một văn bản pháp luật chun đề
phịng, chống bạo lực gia đình được ban hành. Hiện nay chúng ta đã có dự thảo văn bản sửa đổi Luật
PCBLGĐ.
Theo LPCBLGĐ 2007, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực
hiện việc quản lý nhà nước về phịng, chống bạo lực gia đình. Bên cạnh đó, luật cịn quy định cụ thể
trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, của một số bộ, ngành có liên

19


quan trực tiếp về phịng, chống bạo lực gia đình như: Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Thông tin và Truyền thơng, Bộ Cơng an, Tịa án nhân dân tối cao, Viện

kiểm sát nhân dân tối cao.
Những nguyên tắc cơ bản trong phịng, chống bạo lực gia đình được quy định tại Điều 3 của Luật
phòng, chống bạo lực gia đình như sau.
Ngun tắc thứ nhất, đó là kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phịng, chống bạo lực gia
đình, lấy phịng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hịa giải
phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đây là nguyên tắc
chủ chốt trong phòng, chống bạo lực gia đình nói chung và trong phịng, chống bạo lực gia đình giữa
vợ và chồng nói riêng. Xuất phát từ thực tế quan hệ trong gia đình thường mang tính khép kín cho nên
vợ chồng có vấn đề gì thì người ngồi ít cơ hội xen vào. Hơn nữa, pháp luật Việt Nam ln hướng đến
tính nhân đạo, lý phải đi đơi với tình, ngồi việc thực hiện nguyên tắc kết hợp các biện pháp phòng
ngừa theo quy định của pháp luật cần phải đáp ứng điều kiện “phù hợp với truyền thống văn hóa,
phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam” 33. Từ đó mới thấy, cơng tác tun truyền, giáo dục
của gia đình, tư vấn, hòa giải trong vấn đề này giữ vai trò rất lớn trong việc định hướng hành vi của
con người. Nhờ vào ý thức xác định được hành vi của mình là đúng hay sai, nên hay khơng nên là
người có hành vi bạo lực sẽ tự nhận thức được việc làm của mình để tự kiểm chế, những người xung
quanh biết được trách nhiệm, tham gia phòng chống bạo lực gia đình ứng xử phù hợp hơn, và nạn nhân
bị bạo lực có thêm kiến thức để tự bảo vệ bản thân mình. Vì thế mới thấy “ phịng bệnh” thì tốt hơn là
“chữa bệnh” đừng để “mất bò rồi mới lo làm chuồng” sẽ rất nguy hiểm34.
Nguyên tắc tiếp theo, đó là nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế xã hội của đất nước, ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ. Khi bạo lực giữa vợ và chồng xảy ra, trong
khuôn khổ bài viết này thì người vợ là một trong những chủ thể được ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp. Và việc giúp đỡ và hỗ trợ cũng như đảm bảo cho nạn nhân là rất cần thiết và phải nhanh chóng,
kịp thời. Nhưng thực tế lại khác, nạn nhân bị bạo lực chưa thực sự được giúp đỡ, bảo vệ bởi chính
người xung quanh vẫn coi đó là chuyện riêng của mỗi nhà khi họ muốn giúp nhưng không biết phải
làm gì cho hợp lý. Do vậy, pháp luật đưa ra nguyên tắc này với mong muốn họ sẽ có cách giải quyết
phù hợp hơn với từng trường hợp cụ thể và ưu tiên những đối tượng dễ bị tổn thương.
Phát huy vai trị, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng,
chống bạo lực gia đình là nguyên tắc cuối cùng của nguyên tắc phịng, chống bạo lực gia đình. Bạo lực
gia đình nói chung và bạo lực giữa vợ và chồng nói riêng từ lâu đã trở thành vấn đề nóng của xã hội do

đó việc phịng, chống bạo lực gia đình trong đó bạo lực giữa vợ chồng chiếm phần lớn các trường hợp
là trách nhiệm chung của cộng đồng chứ không chỉ là của nhà nước, những người có liên quan. Tuy

20


nhiên, nếu mỗi cá nhân vợ hoặc chồng, thành viên gia đình và cộng đồng cơ quan tổ chức khơng cùng
chung tay, chung sức hỗ trợ cùng nhau phòng, chống để vấn đề bạo lực khơng cịn tiếp diễn và phát
triển thì vấn đề sẽ vẫn mãi cịn đó. Thêm vào đó, định kiến về giới ở nước ta vẫn còn tồn tại cùng với
tư tưởng việc nhà ai nhà người đó tự giải quyết khiến hiệu quả thực thi pháp luật về phịng, chống bạo
lực gia đình vẫn cịn nhiều thách thức. Từ đó cho thấy việc phát huy vai trị, trách nhiệm của cá nhân,
gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình nói chung và phịng, chống
bạo lực giữa vợ và chồng nói riêng là việc làm rất quan trọng và cần thiết. Vấn đề là, việc quy định về
trách nhiệm vẫn cịn q chung chung và khó triển khai trên thực tế, cụ thể luật quy định: “ phát huy
vai trò” nhưng làm thể nào để phát huy vài trò và phát huy vai trò được hiểu như thế nào trong
PCBLGĐ.
Theo đó, Dự thảo sửa đổi Luật PCBLGĐ, đã tăng từ 4 nguyên tắc lên 7 nguyên tắc trong đó tại
khoản 5 Dự thảo có thể thấy là quy định rõ hơn về phát huy vai trò của cá nhân, cơ quan, tổ chức:
“Thực hiện nêu gương trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với cán bộ, cơng chức, viên chức, lực
lượng vũ trang”, hơn nữa ở Dự thảo cũng đã quy định về phối hợp liên ngành trong PCBLGĐ và bảo
vệ hỗ trợ người bị BLGĐ. Một điểm mới trong Dự thảo là sẽ coi người có hành vi BLGĐ đã bị cơ quan
có thẩm quyền xử lý mà vẫn tiếp tục vi phạm thì đây sẽ là tình tiết tăng nặng trong xử lý vi phạm pháp
luật về PCBLGĐ, quy định này phù hợp và mang tính răn đe giáo dục cao giúp người có hành vi
BLGĐ ý thức được hành vi của mình là trái pháp luật nếu tái phạm thì sẽ chịu mức phạt cao hơn khi xử
lý.
2.
Các giải pháp phòng ngừa và ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình giữa vợ và chồng theo
Luật phịng chống bạo lực gia đình 2007 và Dự thảo Luật Phịng, chống bạo lực gia đình sửa đổi
2.1.
Các giải pháp phòng ngừa

Các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình giữa vợ và chồng nằm trong Luật phịng, chống bạo
lực gia đình là một trong những nội dung quan trọng nhằm giúp giảm thiểu tình trạng bạo lực trong
hôn nhân hiện nay. Các biện pháp cụ thể quy định về thơng tin, tun truyền về phịng, chống bạo lực
gia đình, hịa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình, tư vấn, góp ý, phê bình trong
cộng đồng dân cư về phòng ở bạo lực gia đình đã được quy định rất chi tiết trong luật này (từ Điều 9
đến Điều 17). Những biện pháp này thường được các địa phương áp dụng và đã nhận được những tín
hiệu rất tích cực. Điểm mới của Dự thảo là quy định thêm quyền và nghĩa vụ của thành viên gia đình
trong PCBLGĐ, điều này là đúng, BLGĐ xuất phát ngay từ trong gia đình, hơn hết các thành viên
trong gia đình phải ý thức được vấn đề BLGĐ là sai trái và vi phạm tới quyền con người. Hơn nữa Dự
thảo cũng đưa quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức và điểm mới sáng giá
là đã quy định về quyền và nghĩa vụ của cá nhân trong cộng đồng trong việc PCBLGĐ, chứng tỏ tinh
thần của dự thảo là ưu tiên phịng bạo lực gia đình.
Thơng tin, tun truyền về PCBLGĐ được quy định tại Điều 9, 10, 11 của luật với nội dung tập
trung vào mục đích, yêu cầu, nội dung và hình thức thơng tin, truyền thơng về PCBLGĐ. Các điều
khoản trong LPCBLGĐ là căn cứ pháp lý đầy đủ và tồn diện để thực hiện cơng tác thông tin và truyền
21


thống chất lượng, đảm bảo tăng tính hiệu quả nhận thức và chủ động phòng ngừa và đấu tranh chống
BLGĐ. Tại Điều 10 của LPCBLGĐ 2007 dường như quy định nội dung trong thơng tin và truyền
thơng về PCBLGĐ có phần hơi mơ hồ và chưa hiệu quả, tại dự thảo nội dung về thơng tin, truyền
thơng mang tính rõ ràng và cụ thể, hơn nữa không chỉ thông tin đến xã hội mà những thơng tin này cịn
mang tính giáo dục. Về thơng tin và truyền thơng chính sách, pháp luật của Nhà nước về PCBLGĐ;
các chế tài xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong PCBLGĐ. Quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong PCBLGĐ. Các loại hành vi BLGĐ; hậu quả của BLGĐ đối
với cá nhân, gia đình và xã hội; các biện pháp phòng ngừa và ngăn chặn BLGĐ. Kỹ năng xây dựng và
tổ chức đời sống gia đình; kỹ năng ứng phó với căng thẳng trong mối quan hệ gia đình; kỹ năng nhận
biết và ứng xử, xử trí khi có nguy cơ hoặc bị BLGĐ. Hướng dẫn hộ gia đình ký cam kết với Ủy ban
nhân dân cấp xã khơng có hành vi BLGĐ, tích cực tham gia phịng, chống bạo lực gia đình ở cộng
đồng. Hướng dẫn cơ quan, tổ chức tuân thủ quy định của pháp luật về PCBLGĐ, đưa tiêu chí khơng

gây BLGĐ vào bình xét, thi đua, khen thưởng cuối năm đối với đảng viên, cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động. Thông tin về mặt trái của môi trường mạng và công nghệ số làm gia tăng nguy
cơ BLGĐ. Các biện pháp phòng, chống tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình, tác hại của sử dụng rượu,
bia. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng,
hướng dẫn sử dụng tài liệu mẫu để thông tin, giáo dục, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình.
Dự thảo đã chỉ ra rằng BLGĐ khơng chỉ đến từ những bất hồ mà cịn đến chủ yếu là từ rượu bia cần
phải phòng ngừa từ những bước đầu tiên mới PCBLGĐ một cách hiệu quả.
Hòa giải là một trong những phương thức can thiệp về BLGĐ bằng cách giải thích hoặc cung cấp
thơng tin về LPCBLGĐ cũng như các hành vi tích cực chủ thể liên quan, ở đây là vợ và chồng nhằm
giúp họ ngưng hoặc giảm hành vi tiêu cực trong hôn nhân. Một mặt, hòa giải giúp giải quyết các mâu
thuẫn và tranh chấp giữa vợ chồng với nhau để tránh dẫn đến bạo lực giữa hai vợ chồng. Tuy nhiên,
Luật phòng, chống bạo lực gia đình quy định những ngun tắc hịa giải, một trong số đó là nguyên tắc
tự nguyện tiến hành hòa giải của các bên. Luật cũng quy định một số trường hợp khơng tiến hành hịa
giải như vụ việc thuộc tội phạm hình sự hoặc vụ việc thuộc hành vi vi phạm pháp luật xử lý hành
chính. Nói cách khác, luật quy định rằng không áp dụng biện pháp hòa giải đối với trường hợp hành vi
bạo lực diễn ra liên tục và nghiêm trọng, trừ trường hợp người bị hại yêu cầu không xử lý theo quy
định của pháp luật hình sự. Các cơ quan, tổ chức và tổ hịa giải khơng tiến hành hịa giải đối với hành
vi được xác định là vi phạm pháp luật hình sự hoặc hành chính. Đặc biệt tại khoản 2 Điều 25 Dự thảo
quy định: “Hịa giải khơng thay thế biện pháp xử lý hành chính, hình sự và các biện pháp xử lý khác”.
Việc tư vấn, góp ý và phê bình tại cộng đồng khơng chỉ cho người có hành vi mà có tác dụng cho
cả người dân khác trong cộng đồng vấn đề này đã được ghi nhận tại Điều 16 và 17. Tại Điều 16 có quy
định về tư vấn gia đình ở địa phương như cung cấp kiến thức và kỹ năng trong giao tiếp cho vợ và
chồng cũng như kiến thức về phòng chống bạo lực gia đình sẽ giúp cho mọi người hiểu về luật và tự
phòng ngừa bạo lực xảy ra như vợ với chồng. Điều này giúp ngăn ngừa bạo lực trong gia đình, đặc biệt
22


trong hôn nhân hiệu quả hơn. Hơn nữa Điều 17 có quy định về hoạt động góp ý và phê bình giữa các
cộng đồng dân cư. Đối tượng được ghi nhận là những người từ 16 tuổi trở lên và người dân tham gia
vào các buổi gặp gỡ bao gồm đại diện các hộ gia đình, láng giềng, người đứng đầu cộng đồng dân cư.

Biện pháp này khơng chỉ có ý nghĩa giáo dục và nhắc nhở người có hành vi bạo lực mà còn hướng tới
giáo dục nâng cao nhận thức cho người dân khác trong cộng đồng dân cư. Mục tiêu của việc góp ý và
phê bình nhằm giúp người gây bạo lực nhận thức được cách suy nghĩ tiêu cực hoặc hành vi BLGĐ
bằng cách đưa ra ý kiến trước mặt những người khác. Trên cơ sở đó, họ sẽ chấm dứt hay hạn chế hành
vi BLGĐ nói chung và bạo lực giữa vợ và chồng nói riêng.
2.2.
Các giải pháp ngăn chặn
Bên cạnh các biện pháp phòng ngừa nói chung các biện pháp phịng ngừa bạo lực giữa vợ và
chồng nói riêng, luật cũng đã đưa ra những quy định cụ thể về việc bảo vệ, trợ giúp nạn nhân một số
hành động can thiệp hành vi BLGĐ đã xảy ra nhằm làm những loại hành vi bạo lực của người gây ra
bạo lực chờ đối phương và trợ giúp cho nạn nhân. Các điều khoản liên quan đến việc bảo vệ và hỗ trợ
cho các nạn nhân bị bạo lực được quy định từ Điều 18 đến Điều 25. Những quy định này thể hiện sự
quan tâm, bảo vệ quyền con người của nhà nước, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
nhằm ngăn chặn một cách có hiệu quả hành vi bạo lực gia đình có thể xảy ra, bảo vệ nạn nhân bạo lực
gia đình. Nạn nhân bị bạo lực được bảo vệ ở mức cao nhất thông qua các biện pháp như phát hiện, báo
tin về bạo lực gia đình, biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quyết định của Chủ tịch UBND
cấp xã, quyết định của Toà án; biện pháp tư vấn; hỗ trợ khẩn cấp các nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân.
3.
Xử lý hành vi bạo lực gia đình giữa vợ và chồng
Về việc xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về PCBLGĐ có quy định tại Điều 42 như sau:
“1. Người có hành vi vi phạm pháp luật về phịng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu
gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hành vi bạo lực
gia đình nếu bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của khoản 1 Điều này thì bị thơng báo cho
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục.
3. Chính phủ quy định cụ thể các hành vi vi phạm hành chính về phịng, chống bạo lực gia đình,
hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về phịng,
chống bạo lực gia đình.”
Quy định này sẽ giúp cho việc phòng chống bạo lực gia đình nói chung và phịng, chống bạo lực

giữa vợ và chồng nói riêng đạt được kết quả cao hơn. Đây cũng là hồi chuông cảnh tỉnh cho những ai
chưa nhận thức được hơm quả mình phải gánh chịu khi thực hiện hành vi bạo lực cũng như có ý định,
hành động bạo lực đối với những người thân của mình. Theo quy định của luật, khi có hành vi vi phạm
pháp luật về phịng chống bạo lực gia đình người vi phạm có thể bị xử lý bằng những biện pháp sau.
Xử lý kỷ luật, hình thức này được áp dụng với vợ hoặc chồng đang là cán bộ, công chức theo quy
định tại Điều 4 Luật Cán bộ công chức, đã có hành vi vi phạm luật này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan. Các hình thức kỷ luật đối với cán bộ bao gồm khiển trách, cảnh cáo, cách chức, bãi
23


nhiệm. Các hình thức kỷ luật đối với cơng chức gồm khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức,
cách chức, buộc thơi việc. Việc áp dụng các hình thức kỷ luật đói với cán bộ, cơng chức tn thủ theo
những quy định của pháp luật.
Xử lý hành chính, những quy định cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phịng,
chống bạo lực gia đình đã được ghi nhận tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP. Cùng với các quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực khác.
Xử lý theo pháp luật dân sự, theo khoản 4 Điều 4 LPCBLGĐ 2007 quy định nghĩa vụ của người
có hành vi bạo lực gia đình: “Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân BLGĐ khi có yêu cầu và theo quy định
của pháp luật”. Khoản 1 Điêu 42 của Luật này cũng cho biết: “Người có hành vi vi phạm pháp luật về
phịng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật” phù hợp với quy định của Điều 584 Bộ luật dân sự (BLDS) 2015:
“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi
ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này,
luật khác có liên quan quy định khác.”
Xử lý theo pháp luật hình sự, hiện nay, Bộ luật hình sự (BLHS) đã có phần riêng quy định về các
tội xâm phạm chế độ hơn nhân gia đình. Tại Điều 185 BLHS về tội ngược đãi hoặc hành hạ các thành
viên trong gia đình, đặc biệt là vợ chồng với nhau. Cụ thể: “Người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi
bạo lực xâm phạm thân thể ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có cơng ni dưỡng mình
thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

KẾT LUẬN CHƯƠNG II
1.

CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHỊNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
Ngun nhân bạo lực gia đình giữa vợ và chồng
Theo điều tra của Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội 35, nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh
hành vi bạo lực gia đình là do người chồng nghiện rượu, say rượu (60%), những gia đình này thường
có hồn cảnh kinh tế khó khăn, học vấn thấp, thiếu hiểu biết về pháp luật, cơng việc khơng ổn định.
Bạo lực gia đình là do rượu và ma túy: Khi sử dụng các chất kích thích như rươu, ma túy… nam
giới thường có nguy cơ giải quyết những khó khăn bằng hành vi bạo lực, chẳng hạn như nhiều người
thường lấy cớ say rượu, thua bạc để đánh đập, hành hạ vợ con, bắt vợ phải đưa tiền để đi uống rượu và
chơi cờ bạc. Tuy nhiên, không ai lý giải được tại sao những người có hành vi bạo lực đấy chỉ thực hiện
với vợ, con mà không phải với những người khác.
Bạo lực gia đình thường xảy ra trong những gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn: Những cặp
vợ chồng phải bươn chải vất vả để kiếm sống thường có sự căng thẳng về thần kinh hơn và do đó dễ
nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến tranh cãi trong gia đình và cuối cùng nam giới thường sử dụng quyền lực
và sức mạnh của mình để gây ra bạo lực với vợ. Tuy nhiên, không thể đổ lỗi cho nghèo đói vì nhiều gia
đình khá giả vẫn có bạo lực và nhiều gia đình kinh tế khó khăn nhưng vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp.
24


Do đó, yếu tố được coi là nguyên nhân sâu xa của bạo lực gia đình và là yếu tố cơ bản nhất gây ra
nạn bạo lực gia đình là: nhận thức về vấn đề bình đẳng giới rất hạn chế, bất bình đẳng giới là gốc rễ
của bạo lực gia đình.
Ảnh hưởng của nền văn hóa phong kiến với những quan niệm mang đậm màu sắc định kiến giới,
đó là những định kiến nằm ngay trong truyền thống văn hóa, phong tục tâp quán, chuẩn mực đạo đức
bấy lâu nay trong xã hội: tư tưởng trọng nam, khinh nữ; chồng chúa, vợ tôi; tư tưởng gia trưởng; định
kiến giới: phụ nữ là người giữ gìn hạnh phúc gia đình - “một điều nhịn là chín điều lành”… Những
quan niệm này đã khiến cho người nam giới cho rằng họ có vai trị trụ cột trong gia đình, có quyền
định đoạt mọi việc, họ ln có tư tưởng mình là “tiếng nói” trong gia đình nên có thể mắng chửi vợ

một vài câu là điều bình thường, thậm chí tát vợ một vài cái cũng không sao; hay do hiểu sai mục đích
của biện pháp nghiêm khắc trong giáo dục con cái theo quan niệm “yêu cho roi, cho vọt” dẫn đến nhiều
bậc cha mẹ tự cho mình quyền được đánh đập, hành hạ con cái mình.
Nhận thức của chính bản thân của người phụ nữ bị bạo lực: Sự nhìn nhận, đấu tranh của người
phụ nữ trước bạo hành gia đình cịn hạn chế, thiếu thẳng thắn, cịn cam chịu; họ mang tư tưởng: “ xấu
chàng hổ ai”, họ sợ: “vạch áo cho người xem lưng”, hay sợ hàng xóm, bạn bè chê cười…
Cộng đồng, xã hội coi vấn đề bạo lực gia đình là chuyện thơng thường, chuyện riêng của mỗi gia
đình: “Đèn nhà ai nhà nấy rạng”, sự can thiệp, lên án của cộng đồng, làng xóm, chính quyền địa
phương chỉ mang tính chất nhất thời, mờ nhạt. Do đó, bạo lực gia đình vẫn có điều kiện tồn tại và phát
triển.
Bạo lực gia đình xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau. Các nghiên cứu khác nhau tuy có đưa
ra những điểm khác nhau về nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình, nhưng nhìn chung các nghiên cứu
này đều thống nhất chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản như sau:
Bất bình đẳng giới là nguyên nhân gốc rễ gây ra bạo lực giữa nam/chồng đối với nữ/người vợ
trong gia đình. Trong gia đình, người phụ nữ có vị thế và quyền lực khơng nganh bằng với nam giới,
khơng có quyền tham gia vào các quyết định trong gia đình, khiến họ dễ bị bạo lực do nam giới gây ra.
Khó khăn về kinh tế cũng là một trong những nguyên nhân có thể dẫn tới bạo lực gia đình vì khó
khăn về kinh tế thường tạo ra các áp lực, căng thẳng, bế tắc đối với thành viên gia đình và do đó dễ dẫn
tới các mâu thuẫn, tranh chấp nếu không biết cách xử lý phù hợp có thể gây nên bạo lực gia đình. Tuy
nhiên khơng phải cứ có khó khăn về kinh tế là nhất thiết phải có bạo lực gia đình. Thực tế cho thấy
nhiều gia đình có mức sống, thu nhập thấp nhưng gia đình vẫn hịa thuận và ngược lại có những gia
đình khá giả nhưng bạo lực vẫn xảy ra.
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phịng, chống bạo lực gia đình cịn hạn chế. Trình
độ nhận thức và sự hiểu biết về pháp luật trong một bộ phận người dân còn thấp cũng là nguyên nhân
dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình vẫn còn tiếp tục xảy ra. Nhiều người do thiếu hiểu biết về pháp luật
nên cho rằng cha mẹ có quyền đánh đập, chửi mắng con cái, chồng có quyền đánh vợ… Nhiều phụ nữ,
người già cũng không nhận thức được đầy đủ quyền của mình nên khơng dám đấu tranh mà cam chịu

25



×