Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

doc them van 9 ki II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.14 KB, 58 trang )

BÀN VỀ ĐỌC SÁCH
-Chu Quang TiềmA- TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN
1- Tác giả :
- Chu Quang Tiềm (1897-1986) là nhà mĩ học và lí luận văn học nổi tiếng của Trung Quốc.
Trong những bài viết của mình ơng đã nhiều lần bàn về chuyện đọc sách. Riêng bài viết này là kết
quả của q trình tích luỹ kinh nghiệm, dày công suy nghĩ, là những lời bàn đầy tâm huyết của
người đi trước muốn truyền lại cho các thế hệ sau.
2- Tác phẩm :
a) Nội dung :
- Bàn về đọc sách là bài viết vừa có lí lẽ xác đáng vừa giàu kinh nghiệm thực tế. Văn bản
được trích có bố cục chặt chẽ, hợp lí. Sau khi vào bài, tác giả khẳng định tầm quan trọng, ý nghĩa
cần thiết của việc đọc sách. Tiếp đó bài viết nêu ra các khó khăn, nguy hại dễ gặp của việc đọc sách
trong tình hình hiện nay. Phần chính của bài viết dành để bàn về phương pháp đọc sách (bao gồm
cách lựa chọn sách cần đọc và cách đọc thế nào cho có hiệu quả).
- Bằng sự phân tích ngắn gọn rõ ràng bài viết đã làm sáng tỏ ý nghĩa của sách trên con đường
phát triển của nhân loại. Sách đã ghi chép, cô đúc và lưu truyền mọi tri thức, mọi thành tựu mà lồi
người tìm tịi, tích luỹ được qua từng thời đại, trở thành kho tàng của cải tinh thần quý báu. Những
cuốn sách có giá trị có thể xem là những cột mốc trên con đường phát triển học thuật của nhân loại.
Vì sách có ý nghĩa quan trọng như thế nên đọc sách là một con đường tích luỹ, nâng cao vốn tri thức
rất cơ bản của mỗi người.
- Trong bối cảnh hiện nay, sách vở ngày càng nhiều thì việc đọc càng phải có phương pháp.
Chu Quang Tiềm đã bàn luận, phân tích một cách có lí lẽ, có thực tế rằng cần biết lựa chọn sách để
đọc, kết hợp giữa đọc rộng với đọc sâu, giữa đọc sách thường thức với đọc sách chuyên môn. Việc
đọc sách không thể tuỳ hứng mà phải có kế hoạch, có mục đích kiên định, phải vừa đọc vừa nghiền
ngẫm.
b) Nghệ thuật
- Bàn về đọc sách là tác phẩm nghị luận có tính thuyết phục, sức hấp dẫn cao bởi cách trình
bày vừa đạt lí vừa thấu tình, bởi lời văn giàu hình ảnh nhiều chỗ tác giả dùng cách nói ví von thật cụ
thể và thú vị.
- Bố cục bài viết chặt chẽ, hợp lí dẫn dắt tự nhiên.
c) Chủ đề


Đọc sách là con đường quan trọng để tích luỹ nâng cao học vấn. Cần kết hợp giữa đọc rộng
với đọc sâu, giữa đọc sách thường thức với đọc sách chuyên môn. Việc đọc sách khơng thể tuỳ hứng
mà phải có kế hoạch, có mục đích kiên định, phải vừa đọc vừa nghiền ngẫm.
*Tãm t¾t:
Trong bài viết, tác giả nêu tầm quan trọng, ý nghĩa của việc đọc sách; các khó khăn, các
nguy hại dễ gặp của việc đọc sách trong tình hình hiện nay và cách lựa chọn sách cần đọc,
cách đọc nh thế nào cho hiệu quả.
*Giá trị tác phẩm
Không phải khi công nghệ thông tin phát triển nh vũ bÃo thì việc đọc sách không đợc
quan tâm nữa. Thậm chí ngợc lại. Ngời dân ở huyện Mi-y-a-kô (Nhật Bản) từ năm 1967 đÃ
lấy ngày chủ nhật thứ ba trong tháng làm "ngày gia đình", "ngày không xem ti-vi" (1). Còn ở
thành phố Buxtenhude (Đức) từ đâu năm 2004 đà xuất hiện nhiều buồng đọc sách công
cộng trên đờng phố nhằm khuyến khích cho phong trào đọc sách trong dân chúng (2) và mô
hình này đang không ngừng nhân rộng. Điều đó phần nào nói lên tầm quan trọng không
(1)(1) Theo tnamnet, 3-12-2004.
(2)(2) Theo An ninh thÕ giíi, sè ra ngµy 16-9-2004.


thể thay thế của sách. Phải có ngời đọc sách thì sách mới có thể ấn hành nhiều đến thế. Thị
hiếu là gì nếu không phải là cái bắt đầu từ những nhu cầu thiết yếu nổi trội của con ng ời!
Chu Quang Tiềm đà nhận thức một cách sâu sắc ý nghĩa của sách đối với đời sống con ngời. Hơn thế, từ đó, ông đà chỉ ra những điều hết sức cơ bản có thể xem là cẩm nang của
cách thức đọc sách. Bài luận Bàn về đọc sách sẽ thuyết phục chúng ta về những điều này.
Từ việc khẳng định ý nghĩa của sách và việc đọc sách đến cách chọn sách mà đọc và cách
đọc sách cho có hiệu quả cao nhất, đó là mạch lập luận của Bàn về đọc sách. Nhng nếu chỉ là
nh thế thì bài viết cha thể đạt đợc sức thuyết phục cao. Triển khai mạch lập luận này, trong
từng phần, tác giả đà đa ra đợc hệ thống những lí lẽ và dẫn chứng chân xác, sinh động để
thuyết phục luận điểm.
ở phần đầu của văn bản (từ "Học vấn không chỉ là..." cho đến "... nhằm phát hiện ra thế
giới mới"), tác giả phân tích tầm quan trọng của sách và việc đọc sách. Tr ớc hết, Chu
Quang Tiềm chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa sách và học vấn. Về điểm này, tác giả viết:

"Mỗi loại học vấn đến giai đoạn hôm nay đều là thành quả do toàn nhân loại phân công, cố
gắng tích luỹ ngày đêm mà có. Các thành quả đó sở dĩ không bị vùi lấp đi, đều là do sách
vở ghi chép, lu truyền lại". Từ đó đi đến khẳng định: "Sách là kho tàng quý báu cất giữ di
sản tinh thần nhân loại (...), là những cột mốc trên con đờng tiến hoá học thuật...". Khẳng
định điều này để dẫn tới khẳng định điều sau đó nh một hệ quả tất yếu. Đó là muốn "tiến
lên" thì nhất thiết "phải lấy thành tựu mà nhân loại đà đạt đợc trong quá khứ làm điểm
xuất phát". Có nh thế mới tránh đợc tình trạng "lạc hậu", tụt hậu.
Làm rõ tầm quan trọng của sách đối với nhận thức của con ngời thực chất là hớng tới
làm nổi bật việc cần thiết phải đọc sách. Vai trò của sách xem nh là luận cứ để dẫn tới luận
điểm rằng: "Đọc sách là muốn trả món nợ đối với thành quả nhân loại trong quá khứ, là ôn
lại kinh nghiệm, t tởng của nhân loại tích luỹ mấy nghìn năm trong mấy chục năm ngắn
ngủi, là một mình hởng thụ các kiến thức, lời dạy của biết bao ngời trong quá khứ đà khổ
công tìm kiếm mới thu nhận đợc". Nhờ đó "mới có thể làm đợc cuộc trờng chinh vạn dặm
trên con đờng học vấn, nhằm phát hiện thế giới mới". Đến đây, một vấn đề nảy sinh: vì
sách là nơi kết tinh, hội tụ những kiến thức của nhân loại trong suốt mấy nghìn năm, văn
hoá nhân loại tiến hoá không ngừng, mở mang không ngừng cho nên để xử lí đợc khối lợng đồ sộ và cực kì đa dạng của kho tri thức ấy là một vấn đề khó khăn, không thể thực
hiện cuộc trờng chinh vạn dặm" ấy, không thể đọc sách mà không có những con đờng đi,
phơng hớng đúng đắn.
Tác giả đà sắp xếp khéo léo để các vấn đề đợc đặt ra, triển khai móc nối, lôgic chặt chẽ
với nhau. Hớng tới giải quyết vấn đề đặt ra nh một nhu cầu ở trên, ở đầu phần hai của bài
viết, tác giả dừng lại phân tích thực trạng việc đọc sách. Nội dung này thể hiện ở đoạn từ
"Lịch sử càng tiến lên..." cho đến "tự tiêu hao lực lợng". Bằng những hiểu biết thực tế, tác
giả chỉ ra "hai cái hại thờng gặp" của việc đọc sách. Cái hại thứ nhất là "sách nhiều khiến
ngời ta không chuyên sâu". Để thuyết phục điều này, tác giả dẫn ra kinh nghiệm đọc sách
của các học giả Trung Hoa cổ đại: "Sách tuy đọc đợc ít, nhng đọc quyển nào ra quyển ấy,
miệng đọc, tâm ghi, nghiền ngẫm đến thuộc lòng, thấm vào xơng tuỷ, biến thành nguồn
động lực tinh thần, cả đời dùng mÃi không cạn". Đối lập với thực tế ngày nay, sách tuy
nhiều, dễ kiếm nhng "không tiêu hoá đợc", dẫn tới thói "h danh nông cạn". Cái hại thứ hai
là "sách nhiều khiến ngời đọc lạc hớng". Tác giả ví việc đọc sách cũng nh đánh trận: "cần
phải đánh vào thành trì kiên cố, đánh bại quân địch tinh nhuệ, chiếm cứ mặt trận xung

yếu. Mục tiêu quá nhiều, che lấp mất vị trí kiên cố, chỉ đá bên đông, đánh bên tây, hoá ra
thành lối đánh "tự tiêu hao lực lợng". Những trở ngại căn bản nhất của việc học nói chung,
đọc sách nói riêng đà đợc tác giả khái quát chính xác.
Phần còn lại của bài viết, tác giả dành sự quan tâm đến việc đa ra những cách thức đọc
sách đúng đắn, giúp ngời đọc sách khắc phục đợc những trở ngại, tiến tới xác định cho
mình đợc phơng pháp học tập, nghiên cứu đúng đắn, đạt hiệu quả đích thực. Đây là vế
quan trọng trong lập luận của bài văn. Có thể tóm lợc các luận điểm chính của phần này
nh sau:
Một là, "phải chọn đọc cho tinh, đọc cho kÜ";


Hai là, phải biết phân loại thành sách thờng thức và sách chuyên môn để có cách đọc
cho phù hợp;
Ba là, phải chú ý tới mối quan hệ hữu cơ giữa cái thờng thức và cái chuyên sâu.
Ba luận điểm trên đợc tổ chức triển khai theo hớng tổng - phân - hợp. Thế nào là đọc
tinh, đọc kĩ? Vấn đề tởng là hai mà thực chất là một. Không thể đọc kĩ tất cả mà phải chọn
cuốn thật sự có giá trị. Chọn đợc cuốn có giá trị mà đọc kĩ còn hơn là đọc nhiều cuốn mà
chỉ lớt qua. Về điểm này, tác giả diễn đạt thật hấp dẫn, sắc sảo: "Đọc ít mà đọc kĩ, thì sẽ tập
thành nếp suy nghĩ sâu xa, trầm ngâm tích luỹ, tởng tợng tự do đến mức làm đổi thay khí
chất; đọc nhiều mà không chịu nghĩ sâu, nh cỡi ngựa qua chợ, tuy châu báu phơi đầy, chỉ
tổ làm cho mắt hoa ý loạn, tay không mà về". Nhng lựa chọn thế nào để đọc cho kĩ? Trả lời
câu hỏi này, tác giả xác lập luận điểm thứ hai của phơng pháp đọc: phải phân biệt sách thờng thức và sách chuyên môn. Sách chuyên môn thì phải đọc kĩ, điều này đà đợc làm rõ ở
luận điểm trớc, vấn ®Ị lµ lµm sao ®Ĩ võa ®äc kÜ mµ vÉn đảm bảo sự toàn diện? Tác giả viết:
"... mỗi môn phải chọn kĩ từ 3 đến 5 quyển xem cho kĩ. Môn học kiến thức phổ thông tổng
số không quá mời mấy môn, (...), tổng cộng số sách cần đọc cũng chẳng qua trên dới 50
quyển".
ở phần cuối bài viết, tác giả lập luận về việc phải biết kết hợp giữa đọc sâu và đọc
rộng. Những điều tác giả bàn đến trong đoạn kết bài không chỉ là phơng pháp đọc sách,
mà còn là quan điểm nhận thức nói chung. Một mặt, phải thừa nhận sự chuyên sâu là cần
thiết. Nhng chuyên sâu không có nghĩa là cô lập, đóng kín; bởi vì: "Vũ trụ vốn là một thể

hữu cơ, các qui luật bên trong vốn liên quan mật thiết với nhau, động vào một chỗ nào đó
tất liên quan đến cái khác, do đó các loại học vấn nghiên cứu qui luật nào đó, tuy bề mặt có
phân biệt, mà trên thực tế thì không thể tách rời. Trên đời không có học vấn nào là cô lập,
không có liên hệ kế cận". Bằng cách kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ với lối diễn đạt bằng
hình ảnh ví von, so sánh, tác giả đà thuyết phục ngời đọc hết từ luận điểm này đến luận
điểm khác. Từ cách chọn sách, đọc sách, tác giả nâng lên thành quan điểm nhận thức, từ
phơng hớng nhận thức mà đúc kết thành cách học, cách chiếm lĩnh tri thức nói chung:
"không biết thông thì không thể chuyên, không biết rộng thì không thể nắm gọn. Trớc hÃy
biết rộng rồi sau mới nắm chắc, đó là trình tự để nắm vững bất cứ học vấn nào".
Với lập luận chặt chẽ, biến hoá tự nhiên, uyển chuyển; lí lẽ sắc sảo, lôgic; dẫn chứng sinh
động, chân thực; ngôn ngữ diễn dạt hấp dẫn, Chu Quang Tiềm đà chứng tỏ tài nghị luận
bậc thầy của mình. Qua bài văn này, chúng ta không chỉ hiểu sâu sắc thêm về vai trò của
học vấn, vai trò của sách đối với nhận thức mà quan trọng hơn là có thể tìm thấy cách đọc,
cách học đúng ®¾n.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

TIẾNG NĨI CỦA VĂN NGHỆ
-Nguyễn Đình ThiA- TĨM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN
1- Tác giả :
- Nguyễn Đình Thi (1924-2003) là một nghệ sĩ tài năng về nhiều mặt, không chỉ nổi tiếng với
những tác phẩm thơ, văn nhạc kịch ơng cịn là một cây bút lí luận phê bình sắc sảo. Ông tham gia
vào các hoạt động văn nghệ từ rất sớm, trên mỗi lĩnh vực đều để lại những tác phẩm nổi tiếng..
- Sáng tác của Nguyễn Đình Thi có nhiều thể loại : thơ, nhạc, văn xi, kịch, tiểu luận phê
bình ... Cuộc đời sáng tạo nghệ thuật của ơng gắn bó chặt chẽ với cụơc đời hoạt động cách mạng,
đặc biệt trên mặt trận văn nghệ.
- Các tác phẩm chính : Xung kích (tiểu thuyết) Thu đông năm nay (truyện), Người chiến sĩ
(thơ), Mấy vấn đề văn học (tiểu luận), Bên bờ sông Lô (truyện ngắn), Một số vấn đề đấu tranh
tư tưởng trong văn nghệ hiện nay (tiểu luận), Con nai đen (kịch), Vỡ bờ (tiểu thuyết) ...
- Tác giả đã được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).



- Tiểu luận “Tiếng nói của văn nghệ” đựoc viết 1948, in trong cuốn Mấy vấn đề văn học (lí
luận phê bình, xuất bản 1956), có nội dung lí luận sâu sắc, được thể hiện qua những rung cảm chân
thành của một trái tim nghệ sĩ.
2- Tác phẩm :
a) Nội dung :
- Tiếng nói của văn nghệ được Nguyễn Đình Thi viết năm 1948 thời kỳ đầu cuộc kháng chiến
chống Pháp. Những năm này chúng ta đang xây dựng một nền văn học nghệ thuật mới gắn bó với
đời sồng kháng chiến vĩ đại của nhân dân, đậm đà tính dân tộc đại chúng. Vì thế nội dung và sức
mạnh kỳ diệu của văn nghệ thường được tác giả gắn với đời sống phong phú, sôi nổi của quần
chúng nhân dân đang chiến đấu và sản xuất. Tiếng nói của văn nghệ có nội dung lí luận sâu sắc,
thể hiện nhiệt tình những rung cảm chân thành của người nghệ sĩ kháng chiến Nguyễn Đình Thi.
- Bài văn có hệ thống luận điểm như sau :
+ Nội dung tiếng nói của văn nghệ : Cùng với thực tại khách quan là nhận thức mới mẻ, là tư
tưởng, tình cảm của cá nhân nghệ sĩ. Mỗi tác phẩm nghệ thuật lớn là một cách sống của tâm hồn, từ
đó làm thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ.
+ Tiếng nói của văn nghệ rất cần thiết đối với cuộc sống con người, nhất là trong hoàn cảnh
chiến đấu, sản xuất vơ cùng gian khổ của dân tộc.
+ Văn nghệ có khả năng cảm hóa, sức mạnh lơi cuốn của nó thật là kỳ diệu, bởi đó là tiếng
nói của tình cảm, tác động tới mỗi con người qua những rung cảm sâu xa tự trái tim.
b) Nghệ thuật
Là bài văn nghị luận đặc sắc :
- Bố cục chặt chẽ, hợp lí, cách dẫn dắt tự nhiên.
- Cách viết giàu hình ảnh, có nhiều dẫn chứng về thơ văn, về câu chuyện thực tế để khẳng
định các ý kiến, các nhận định tăng thêm sức hấp dẫn cho bài tiểu luện.
- Giọng văn chân thành, say sưa, giàu nhiệt huyết, đặc biệt ở phần cuối.
c) Chủ đề
Nguyễn Đình Thi đã khẳng định văn nghệ là mối dây đồng cảm kỳ diệu giữa nghệ sĩ với bạn
đọc qua những rung động mãnh liệt, sâu xa của trái tim. Văn nghệ giúp cho con người được sống
phong phú hơn và tự hoàn thiện nhõn cỏch tõm hn mỡnh.

Tóm tắt:
Bài viết có bố cục khá chặt chẽ, đợc thể hiện qua hệ thống luận điểm lô gích, mạch lạc.
Giữa các luận điểm vừa có sự tiếp nối tự nhiên vừa bổ sung, giải thích cho nhau:
Văn nghệ không chỉ phản ánh thực tại khách quan mà còn là nhận thức mới mẻ, là t tởng, tình cảm của cá nhân nghệ sĩ.
Tiếng nói của văn nghệ rất cần thiết với cuộc sống của con ngời, nhất là trong hoàn
cảnh những năm đầu kháng chiến.
Văn nghệ có khả năng cảm hoá, có sức lôi cuốn thật kì diệu bởi đó là tiếng nói của
tình cảm, tác động tới con ngời qua những rung cảm sâu xa.
Giá trị tác phẩm
Nói đến lí luận văn nghệ là ngời ta thờng nghĩ ngay tới cái gì đó trừu tợng, khô khan.
Đọc bài tiểu luận Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi, chắc hẳn những những
ngời từng có định kiến nh thế phải xem lại quan niệm của mình. Đề cập đến những vấn đề
then chốt của lí luận văn nghệ nh nội dung biểu hiện, sức mạnh tác động của văn nghệ,...
tác giả bài tiểu luận đà chọn cho mình một lối viết vừa sinh động, giàu hình ảnh vừa cô
đúc, giàu sức khái quát, tất cả đợc trình bày trong một mạch lập luận linh hoạt mà chặt
chẽ, sáng rõ.
Bài viết có bố cục ba phần: phần mở bài, phần thân bài và phần kết bài. Có thể hiểu nội
dung chính của tõng phÇn nh sau:


ở phần mở bài, tác giả đặt vấn đề về tiếng nói của văn nghệ bằng cách đề cập đến mối
quan hệ giữa văn nghệ với thực tế cuộc sống, nói chính xác là vấn đặc trng phản ánh cuộc
sống của văn nghệ: "Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mợn ở
thực tại. Nhng nghệ sĩ không những ghi lại cái đà có rồi mà muốn nói một điều gì mới mẻ".
Tác phẩm nghệ thuật nào cũng bắt nguồn từ cuộc sống, bằng cách phản ¸nh cc sèng mµ
ngêi nghƯ sÜ béc lé c¸i "míi mẻ" trong sự khám phá, cách nhìn nhận của riêng mình, qua
đó góp tiếng nói của mình vào sự phát triển của đời sống.
Vậy ngời nghệ sĩ phản ánh, thể hiện những gì trong tác phẩm của mình? Những nội
dung ấy tác động đến cuộc sống chung quanh bằng con đờng nào? Tác giả làm rõ những
vấn đề này trong phần chính của bài viết.

Trớc hết, tác giả khẳng định rằng mục đích của văn nghệ không phải chỉ nhằm đáp
ứng nhu cầu hiểu biết của con ngời. Mục đích đặc thù của văn nghệ chân chính là "làm
chúng ta rung động với cái đẹp", sức mạnh lâu bền của văn nghệ là làm tái sinh những sự
sống tơi trẻ trong tâm hồn con ngời. Có nh vậy văn nghệ mới có cho mình những nội dung
đặc thù khác với nội dung của các lĩnh vực hoạt động tinh thần khác. Tác giả chỉ rõ: "Lời
gửi của nghệ thuật không những là một bài học luận lí hay một triết lí về đời ngời, hay
những lời khuyên xử thế, hay một sự thực tâm lí, hoặc xà hội. Lời của nghệ thuật còn là
"những say sa, vui buồn, yêu ghét, mơ mộng, phẫn khích, và biết bao nhiêu t tởng, (...) bao
nhiêu hình ảnh đẹp đẽ mà đáng lẽ chúng ta không nhận ra đợc hằng ngày chung quanh ta,
một ánh nắng, một lá cỏ, một tiếng chim, bao nhiêu bộ mặt con ngời trớc kia chúng ta cha
biết nhìn thấy, bao nhiêu vẻ mới mẻ, bao nhiêu vấn đề mà ta ngạc nhiên tìm ra ngay trong
tâm hồn chúng ta". Với những nội dung ấy, tác phẩm văn nghệ có khả năng tác động,
chuyển hoá những nội dung thể hiện thành những định hớng sống tích cực cho con ngời:
"Mỗi tác phẩm lớn nh rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng, không bao giờ nhoà
đi, ánh sáng ấy bấy giờ biến thành của ta, và chiếu toả lên mọi việc chúng ta sống, mọi con
ngời chúng ta gặp, làm thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ". Công chúng không những đ ợc thởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, con ngời mà hơn thế là "một cách sống của tâm
hồn".
Tiếng nói của văn nghệ làm cho ta "đợc cời hả dạ hay rỏ giấu một giọt nớc mắt". Có đợc
những khoảnh khắc nh thế là nhờ văn nghệ có sức mạnh tác động đến tâm hồn, tình cảm của
con ngời bằng chính tâm hồn, tình cảm của con ngời. Nói cách khác, văn nghệ khích lệ, tác
động đến sự sống bằng chính sự sống.
"Sự sống" trong tiếng nói của văn nghệ nhìn chung là toàn diện, tuy nhiên sức mạnh u
thế mà văn nghệ có đợc là nhờ "văn nghệ nói nhiều nhất với cảm xúc, nơi đụng chạm của
tâm hồn với cuộc sống hằng ngày. (...) Chỗ đứng của văn nghệ chính là chỗ giao nhau của
tâm hồn con ngời với cuộc sống hành động, cuộc đời sản xuất, cuộc đời làm lụng hằng
ngày, giữa thiên nhiên và giữa những ngời làm lụng khác". Với việc phân tích đặc điểm
điểm này của tiếng nói văn nghệ, Nguyễn Đình Thi đà khẳng định câu nói của đại văn hào
Nga Tôn-xtôi: Nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm. Khi một tác phẩm nghệ thuật nào đó
đợc xem là có giá trị thì có nghĩa là tác phẩm ấy, bằng tiếng nói tình cảm của mình, tác
động tích cực, có hiệu quả tới đời sống tình cảm của công chúng.

Nhng ngoài tình cảm, thế giới tinh thần của con ngời còn có phơng diện t tởng. Tiếng
nói văn nghệ còn là tiếng nói t tởng. Và nh thế, bằng t tởng, văn nghệ tác động đến t tởng
của con ngời. Khẳng định điều này, tác giả đồng thời chỉ ra rằng: "T tởng của nghệ thuật
không bao giờ là trí thức trừu tợng một mình trên cao"; mà là "t tởng từ ngay cuộc sống
hằng ngày nảy ra, và thấm trong tất cả cuộc sống". Mặt khác, không giống sự tác động t tởng của những lĩnh vực nhận thức khác, t tởng của tác phẩm nghệ thuật đến với công
chúng bằng cách "làm cho chúng ta nhìn, nghe, rồi từ những con ngời, những câu chuyện,
những hình ảnh, những nỗi niềm của tác phẩm sẽ khơi mung lung trong trí óc ta những
vấn đề suy nghĩ".
Đặt sự tác động của nghệ thuật trong mối quan hệ giữa nghệ sĩ - tác phẩm - công
chúng, ở phần kết của bài tiểu luận tác giả khái quát về đặc thù cũng nh vị thế của tiếng
nói văn nghệ. Tác phẩm là nơi ngời nghệ sĩ bộc lộ tâm hồn mình. Công chúng tìm thấy sự


thoả mÃn nhu cầu tình cảm, t tởng trong tác phẩm. Tác phẩm là chiếc cầu nối giữa ngời
nghệ sĩ và công chúng. Sự sống trong tác phẩm không chỉ truyền trực tiếp đến ngời đọc mà
đặc biệt là nó có khả năng khơi gợi, lay động, đánh thức ở phần sâu thẳm nhất trong tâm
hồn con ngời sự sống, thôi thúc con ngời chiếm lĩnh cái đẹp. Nghệ thuật cũng chứng tỏ sức
mạnh của mình khi nó tham gia tích cực vào quá trình rèn luyện tình cảm thẩm mĩ, nuôi d ỡng, phát triển những khả năng thẩm mĩ của con ngời.
Với những u việt nh trên, hoàn toàn thuyết phục khi tác giả đa ra nhận định kết luận:
"Nghệ thuật giải phóng đợc cho con ngời khỏi những biên giới của chính mình, nghệ thuật
xây dựng con ngời, hay nói đúng hơn làm cho con ngời tự xây dựng đợc. Trên nền tảng
cuộc sống của xà hội, nghệ thuật xây dựng đời sống tâm hồn cho xà hội".
Có thể nói Tiếng nói của văn nghệ là một bài tiểu luận đạt đến trình độ cao của nghệ thuật
nghị luận. Hệ thống các luận điểm đợc bố cục hợp lí, triển khai mạch lạc. Các lí lẽ đều đợc tác
giả thuyết phục bởi những dẫn chứng cụ thể sinh động với sự phân tích tinh tế, sắc sảo. Các
dẫn chứng về Truyện Kiều, về An-na Ca-rê-nhi-na, nhất là những trải nghiệm trực tiếp trong
thực tế sáng tác,... giúp tác giả lí giải xác đáng những vấn đề đặc điểm phản ánh của văn nghệ,
khả năng tác động của văn nghệ,... Nguyễn Đình Thi vốn là một ngời chuyên sáng tác, và nhờ
vậy, không khó khăn gì khi ông vận dụng lối viết giàu hình ảnh vào nghị luận.
Bài viết Tiếng nói của văn nghệ thực sự mang lại cho chóng ta nh÷ng hiĨu biÕt quan

träng vỊ nghƯ tht trong cuéc sèng.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

CHUẨN BỊ HÀNH TRANG VÀO THẾ KỶ MỚI
-Vũ KhoanA- TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN
1- Tác giả :
Vũ Khoan là nhà ngoại giao, nhiều năm làm thứ trưởng Bộ Ngoại Giao, Bộ trưởng Bộ
Thương mại, Nguyên là Phó Thủ tướng Chính phủ.
2- Tác phẩm :
a) Một số điểm cần chú ý về hoàn cảnh ra đời bài viết
- Bài viết “Chuẩn bị hành trang” của Vũ Khoan đăng trên Tạp chí Tia sáng năm 2001 và
được in vào tập “Một góc nhìn của trí thức” NXB Trẻ 2002. Khi đưa vào SGK người biên soạn đặt
nhan đề bài viết “Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới”.
- “Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới” là bài nghị luận của Phó Thủ tướng Vũ Khoan đề
cập tới những vấn đề vừa có ý nghĩa thời sự, cấp thiết vừa có ý nghĩa lâu dài. Tác giả viết bài này
đầu năm 2001, khi đất nước ta cùng toàn thế giới bước vào năm đầu tiên của thế kỷ mới. Ở thời
điểm chuyển giao thời gian đặc biệt có ý nghĩa, người ta thường có nhu cầu nhìn lại, kiểm điểm lại
mình trên chặng đường đã qua và chuẩn bị hành trang đi tiếp chặng đường mới. Đối với dân tộc ta,
bước vào thế kỷ mới cũng là tiếp tục một hành trình đầy triển vọng của cơng cuộc đổi mới tồn diện,
nhằm vượt qua tình trạng chậm phát triển, nghèo nàn, lạc hậu, đi vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mặt khác đây cũng là con đường đầy khó khăn, thách thức, đòi hỏi mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ
phải thực sự đổi mới vươn lên mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu của thời đại.
b) Nội dung
* Đây là bài nghị luận về một đề tài vừa cấp thiết vừa có tính lâu dài, vừa là của đất nước vừa
là của từng người (trước hết là các bạn trẻ), vừa là một bài xã luận, vừa là một văn bản chỉ đạo, vừa
là một ý kiến riêng, vừa là ý kiến của vị lãnh đạo cấp cao, vừa có tính chất vấn đề đời sống, vừa có
tính chất vấn đề tư tưởng, đạo lí đặc biệt bài văn chứa đựng một triết lý nhân văn có giá trị muôn
thuở : “Con người quyết định tất cả”.



* Luận điểm cơ bản của bài (vấn đề nghị luận) được nêu ngay từ đầu để làm căn cứ triển khai
“Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói
quen tốt khi bước vào nền kinh tế mới”.
* Hệ thống luận cứ của bài văn :
(1) Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới thì quan trọng nhất là sự chuẩn bị bản thân con
người.
(2) Bối cảnh của thế giới hiện nay và những mục tiêu, nhiệm vụ nặng nề của đất nước.
(3) Những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam cần được nhận rõ khi bước vào nền
kinh tế trong thế kỷ mới.
- Đây là luận cứ trung tâm, quan trọng nhất của cả bài nên được tác giả triển khai cụ thể và
phân tích thấu đáo.
* Kết luận :
- Từ ba luận cứ được triển khai rất chặt chẽ nói tên tác giả kết thúc bài viết bằng việc nêu lên
những yêu cầu đối với thế hệ trẻ : Bước vào thế kỷ mới, mỗi người Việt Nam đặc biệt là thế hệ trẻ
cần phát huy những điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu, rèn cho mình những thói quen tốt ngay
từ những việc nhỏ để đáp ứng nhiệm vụ đưa đất nước đi vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
b) Nghệ thuật
- Bài nghị luận mẫu mực đã phân tích một cách thuyết phục, có lí có tình những điểm mạnh,
điểm yếu của con người Việt Nam. Tác giả khơng dùng cách nói theo kiểu sách vở, uyên bác mà
diễn đạt giản dị, thiết thực dựa trên cơ sở thực tiễn, có ví dụ, ví von cụ thể, có hình ảnh. Đặc biệt
cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ “Nước đến chân mới nhảy”, “Liệu cơm gắp mắm”. “Trâu buộc
ghét trâu ăn”, “Bóc ngắn cắn dài”, ...Vì thế bài viết sâu sắc mà dễ hiểu.
- Khi nêu ưu, nhược điểm của người Việt Nam, tác giả đã không làm một phép liệt kê đơn
giản từ ưu điểm đến nhược điểm mà cứ mỗi khi nêu một ưu điểm tác giả lại đề cập đến một nhược
điểm.
. VÊn ®Ị:
Ngêi ViƯt Nam chóng ta cã nhiều phẩm chất tốt đẹp, đó là lòng yêu nớc, là đức tính
cần cù, dũng cảm, là tinh thần "lá lành đùm lá rách", "thơng ngời nh thể thơng thân"... Đó
là những phẩm chất không ai có thể phủ nhận bởi chúng đà đợc kiểm nghiệm và khẳng
định trong lịch sử dựng nớc và giữ nớc của dân tộc. Tuy nhiên, không ai có thể toàn vẹn,

cùng với những phẩm chất cần luôn đợc phát huy, ngời Việt Nam chúng ta vẫn có những
mặt hạn chế cần sửa đổi. Nhận thức đợc những mặt mạnh để phát huy, đồng thời cũng
nhận thức đợc những mặt còn yếu kém cần khắc phục là điều hết sức cần thiết để mỗi con
ngời nói riêng và cộng đồng Việt Nam nói chung vơn lên tự hoàn thiện mình, không
ngừng tiến bộ để đáp ứng những yêu cầu mới của lịch sử đất nớc.
Bài viết đà nêu ra một cách chính xác và kịp thời những vấn đề thiết thực đối với con
ngời Việt Nam - đặc biệt là thế hệ trẻ, lực lợng quyết định sự thành công của công cuộc xây
dựng đất nớc trong thế kỷ mới.
3. Tóm tắt:
Bài viết nêu ra bốn ý lớn, mỗi ý lại đợc cụ thể hoá bằng một hệ thống luận cứ, dẫn
chứng khá sinh động:
Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới thì quan trọng nhất là sự chuẩn bị bản thân con
ngời.
Bối cảnh của thế giới hiện nay và những mục tiêu, nhiệm vụ nặng nề của đất nớc.
Những cái mạnh, cái yếu của ngời Việt Nam cần đợc nhận thức rõ trong quá trình xây
dựng nền kinh tế mới.


Giá trị tác phẩm
1. Thời điểm chuyển từ thế kỉ XX sang thế kỉ XXI là một điểm mốc quan trọng trong
lịch sử nhân loại. Nó không chỉ là mốc thời gian mà hệ trọng hơn, nó là mốc của sự phát
triển thế giới, tất nhiên cái mốc phát triển này không đồng đều giữa các khu vực, các quốc
gia với những thang bậc trình độ phát triển khác nhau. Riêng đối với đất nớc đang trên
chặng đờng hội nhập và phát triển nh Việt Nam thì đây là thời điểm có ý nghĩa quyết
định, đặt ra trớc mắt cả những cơ hội và thách thức lớn. Để có thể tự vợt lên chính mình,
từng bớc hội nhập vào nền kinh tế tri thức trong thế kỉ tới, Đảng và nhà nớc ta đà có những
chiến lợc cụ thể về mọi mặt. Nhng để làm đợc việc đó, trớc hết phải có sự nhận thức đầy
đủ, sâu sắc về những cái mạnh, cái yếu trong nội lực. Bài viết Chuẩn bị hành trang vào thế
kỉ mới của Phó thủ tớng Vũ Khoan cho chúng ta thấy rõ điều này.
Tác giả viết bài văn này vào đầu năm 2001, khi đất nớc ta cùng toàn thế giới bớc vào

năm đầu tiên của thế kỷ mới. Đây là thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ, hai thiên niên
kỷ. ở nớc ta, công cuộc đổi mới bắt đầu từ cuối thế kỷ trớc đà thu đợc những thành quả
nhất định, chúng ta bớc sang thế kỷ mới với những mục tiêu vô cùng quan trọng, đó là
tiếp tục phát huy những thành quả đạt đợc, kết hợp với những truyền thống văn hoá, lịch
sử lâu đời để đa nớc ta tiến nhanh, tiến mạnh trên con đờng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc.
2. Có thể xác định lại dàn ý của bài viết nh sau:
Bài viết nêu ra bốn ý lớn, mỗi ý lại đợc cụ thể hoá bằng một hệ thống luận cứ, dẫn
chứng khá sinh động:
Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới thì quan trọng nhất là sự chuẩn bị bản thân con
ngời.
Bối cảnh của thế giới hiện nay và những mục tiêu, nhiệm vụ nặng nề của đất nớc.
Những cái mạnh, cái yếu của ngời Việt Nam cần đợc nhận thức rõ trong quá trình xây
dựng nền kinh tế mới.
Trong bài viết này, tác giả đà nêu ra một vấn đề hệ trọng: chúng ta cần nhận thức nh
thế nào và làm những việc gì để chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới? Vấn đề ấy không chỉ
có ý nghĩa thời sự trong thời điểm chuyển giao thế kỷ mà còn có ý nghĩa lâu dài đối với cả
quá trình đi lên của đất nớc bởi vì để đáp ứng những nhiệm vụ nặng nề mà lịch sử và dân
tộc đà giao phó, con ngời Việt Nam nói chung và lớp trẻ Việt Nam nói riêng không thể
không nhận thức rõ những mặt mạnh cũng nh những điểm còn hạn chế của mình để vừa
phát huy những mặt tích cực, đồng thời khắc phục, sửa chữa những mặt còn yếu kém,
không ngừng hoàn thiện mình, xứng đáng là chủ nhân của đất nớc.
3. Trong hành trang vào thế kỷ mới, sự chuẩn bị bản thân con ngời là quan trọng nhất,
bởi vì:
Con ngời bao giờ cũng là động lực phát triển của lịch sử.
Trong thời kì nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, con ngời lại càng có vai trò nổi
bật.
4. Trong sự phát triển chung của thế giới, khi khoa học, kỹ thuật có tốc độ phát triển vô
cùng mạnh mẽ, sự giao thoa, hội nhập ngày càng sâu rộng giữa các nền kinh tế, đất n ớc ta
nói chung và các thế hệ hiện tại nói riêng đang đứng trớc những nhiệm vụ vô cùng trọng

đại, đó là đồng thời giải quyết ba nhiệm vụ: thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của
nền kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đồng thêi nhanh chãng
tiÕp cËn víi nỊn kinh tÕ tri thøc.
5. Khi nêu ra những u điểm và nhợc điểm của ngời Việt Nam, tác giả đà không làm một
phép liệt kê giản đơn từ u điểm đến nhợc điểm mà cứ mỗi khi nêu một u điểm, tác giả lại
đề cập đến một nhợc điểm. Điều đáng chú ý là những u điểm và nhợc điểm đó luôn đợc
đặt trong yêu cầu xây dựng và phát triển đất nớc hiện nay. Cụ thể:
Thông minh, nhạy bén với cái mới nhng lại thiếu Giá trị tác phẩm, kiến thức thực


hành.
Cần cù, sáng tạo nhng thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt qui trình
công nghệ, cha quen với cờng độ lao động khẩn trơng.
Có tinh thần đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau nhng đồng thời lại cũng thờng đố kị nhau
trong công việc.
Bản tính thÝch øng nhanh nhng l¹i cã nhiỊu h¹n chÕ trong thãi quen, nÕp nghÜ, quen
bao cÊp, rÊt sïng ngo¹i nhng có khi lại bài ngoại đến mức cực đoan, khôn vặt, ít giữ chữ
"tín".
6. Thông thờng, trong sách báo và trong các phơng tiện thông tin đại chúng, khi nói
đến phÈm chÊt cđa ngêi ViƯt Nam, ngêi ta chØ ®Ị cập đến cái tốt, đến yếu tố tích cực, đáng
biểu dơng, học tập. Cách ca ngợi một chiều nh vậy không phải không có yếu tố tích cực,
thậm chí còn rất cần thiết khi chúng ta muốn phát huy sức mạnh của dân tộc trong cuộc
chiến đấu chống quân xâm lợc, thống nhất Tổ quốc. Tuy nhiên, điều đó nếu lặp đi lặp lại
mÃi sẽ khiến chúng ta không thể đánh giá đúng năng lực và phẩm chất của mình, dẫn đến
thái độ ngộ nhận, tự thoả mÃn, không chịu học hỏi ngời khác. Bài viết này đà mang đến
cho bạn đọc cảm giác rất bất ngờ. Tác giả không ca ngợi một chiều, cũng không chỉ toàn
phê phán một cách cực đoan mà nhìn nhận song song, đối chiếu và đánh giá những điểm
mạnh cũng nh những điểm yếu cđa ngêi ViƯt Nam trong quan hƯ víi c«ng viƯc, trong yêu
cầu của sự phát triển xà hội. Đó là sự đánh giá rất khách quan và khoa học, xuất phát từ
thiện chí của tác giả muốn để chúng ta nhìn nhận về mình một cách đúng đắn, chân thực, ý

thức đợc những mặt tốt cũng nh mặt cha tốt của mình để phát huy hoặc sửa đổi.
7. Trong văn bản, tác giả đà sử dụng khá nhiều thành ngữ, tục ngữ: "nớc đến chân mới
nhảy", "trâu buộc ghét trâu ăn", "liệu cơm gắp mắm", "bóc ngắn cắn dài"... Việc sử dụng
khá nhiều thành ngữ, tục ngữ dân gian nh vậy khiến cho bài viết thêm phần sinh động, cụ
thể, giàu ý nghĩa.
8. Mặc dù đây là bài nghị luận mang tính xà hội học nhng tác giả đà cho chóng ta thÊy
mét lèi viÕt kh«ng hỊ kh« cøng nhê vào khả năng diễn đạt trong sáng, giản dị, khả năng
vận dụng linh hoạt các thành ngữ, tục ngữ. Việc sử dụng chính những thành ngữ, tục ngữ
của ngời Việt Nam để phân tích những cái mạnh, cái yếu của ngời Việt Nam đà giúp tác
giả khái quát đợc những vấn đề mang tính cố hữu trong ý thức văn hoá của dân tộc, khiến
ngôn ngữ nghị luận giàu hình ảnh, lột tả đợc thực tế. Nói đến nghệ thuật lập luận của bài
viết này cũng phải nói đến việc dẫn ra những dẫn chứng cụ thể mà sâu sắc qua sự đối sánh
với ngời Nhật, thao tác này vừa cã ý nghÜa trong nh·n quan khoa häc võa cã tác dụng kích
thích tinh thần học hỏi, tự tôn trong tâm lí ngời Việt Nam.
9. Bài viết Hành trang chuẩn bị vào thế kỉ mới thực sự trở thành hành trang trong nhËn
thøc cđa con ngêi ViƯt Nam nÕu mn héi nhËp víi kinh tÕ thÕ giíi.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

CON CỊ
ChÕ Lan viªn
I. Tác giả:
- Chế Lan Viên (1920 - 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị,
nhưng lớn lên ở Bình Định.
- Trước Cách mạng tháng Tám, 1945, Chế Lan Viên đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập
“Điêu tàn” (1937). Với hơn 50 năm sáng tác, có nhiều tìm tịi ở những tập thơ gây được tiếng vang trong
công chúa, Chế Lan Viên là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ hiện đại Việt Nam thế kỷ XX.
- Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
II. Tác phẩm:
1. Hồn cảnh sáng tác: Bài thơ “Con cị” sáng tác năm 1962, in trong tập “Hoa ngày thường - Chim báo
bão” (1967) của Chế Lan Viên.



2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
* Giá trị nội dung:
Khai thác hình tượng con cị trong những câu hát ru, bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên ngợi ca tình mẹ
và ý nghĩa của lời ru trong cuộc đời mỗi con người.
* Giá trị nghệ thuật:
Bài thơ thành công trong việc vận dụng sáng tạo ca dao, có những câu thơ đúc kết được những suy nghĩ
sâu xa.
3. Tìm hiểu mạch cảm xúc trữ tình và bố cục của bài thơ
* Mạch cảm xúc trữ tình: được phát triển theo ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cị, bắt đầu từ hình
ảnh con cị trong ca dao theo lời ru của mẹ đi vào tiềm thức trẻ thơ, rồi đến hình ảnh con cị mang ý nghĩa
biểu tượng cho sự nâng niu chăm chút của mẹ dành cho con suốt cuộc đời, và cuối cùng là những cảm nhận
sâu sắc về tình mẫu tử và ý nghĩa lời ru qua hình ảnh con cị.
* Bố cục: 3 phần.
Khổ I - hình ảnh con cị qua lời ru đến với mỗi con người thuở thơ ấu, con cò là biểu tượng cho cuộc đời
lam lũ của mẹ.
Khổ II - hình ảnh con cị đi vào tiềm thức tuổi thơ trở nên gần gũi và sẽ theo con trong suốt chặng đường
đời.
Khổ III - từ hình ảnh con cò suy nghĩ về lời ru và lòng mẹ, con cò là biểu tượng cho tấm lòng yêu con
của mẹ.
B. PHÂN TÍCH BÀI THƠ
1. Ý nghĩa biểu tượng của hình tượng con cị được bổ sung, biến đổi như thế nào qua các đoạn thơ?
Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cị:
Hình tượng con cị bao qt toàn bộ bài thơ được khai thác từ trong ca dao truyền thống và được tác giả
phát triển, xây dựng thành ý nghĩa biểu tượng cho tấm lòng người mẹ, và ý nghĩa của lời hát ru trong cuộc
đời mỗi con người.
a. Hình ảnh con cị qua những lời ru hát đầu đến với tuổi ấu thơ:
Khổ I - là hình ảnh của những người phụ nữ nơng dân vất vả, cực nhọc nhưng giàu đức hy
sinh ?????????? và những câu ca dao dùng làm lời hát ru.

Con cò bay lả bay la
Bay từ Cổng phủ bay ra cánh đồng
Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ bay về Đồng Đăng…
Đây là những cánh cò bay lả bay la dọc theo chiều dài của những cánh đồng lúa xanh tít tắp, bay về
những mái nhà tranh bình n. Hình ảnh con cò gợi cuộc sống xưa cũ từ làng q đến phố xá, thong thả,
bình n, ít biến động. Cuộc sống ấy là quê hương thân yêu với cánh cị trải rộng. Hình ảnh con cị là nét rất
riêng, rất duyên dáng, dịu dàng, đặc trưng cho làng quê Việt Nam. Con cò ấy phải chăng là hồn của quê
hương, mà mẹ gửi vào giấc ngủ của đứa con.
- Hình ảnh con cị trong lời ru cảu mẹ cịn là “Con cò ăn đêm, con cò xa tổ, cò gặp cành mềm, cị sợ xáo
măng”. Đó là hình ảnh cánh cò vất vả, lam lũ trong ca dao:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ơng ơi ơng vớt tơi nao
Tơi có lịng nào ơng hãy xáo măng
Hay
Cái cị lặn lội bờ sơng


Gánh gạo ni chồng tiếng khóc nỉ non.
Đó là cánh cị tần toả, là hình ảnh của người mẹ, người phụ nữ nhọc nhằn, vất vả, lặn lội kiếm sống ni
chồng, ni con. Đây khơng cịn là con cị trắng bình n vơ tư lự mà đã trở thành biểu tượng của những
người nông dân vất vả, cực chẳng đã, thậm chí cịn vất vả hơn khi cị gặp cành mềm.
- Qua những lời ru của mẹ, hình ảnh con cò đến với tâm hồn tuổi thơ ấu một cách vơ tư. Đây chính là sự
khởi đầu của con đường đi vào thế giới tâm hồn mỗi con người, của những lời ru, lời ca dao dân ca, qua đso
là cả điệu hồn dân tộc. Ở tuổi ấu thơ, đứa trẻ chưa thể hiểu và chưa cần hiểu nội dung ý nghĩa của những lời
ru này “Con chưa biết con cò con vạc. Con chưa biết những cành mềm mẹ hát”. Chúng chỉ cần được vỗ về
trong âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru để đón nhận bằng trực giác vơ thức tình u vơ bờ bến và sự
che chở của người mẹ: “Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân”.
- Nhịp 2 và vẫn đóng mở ngân vang, xen kẽ nhau trong từng dòng thơ kết hợp với biện pháp tu từ nhân

hoá và so sánh đã tạp nên vẻ đẹp cho câu thơ, làm cho ý thơ thêm sâu sắc. Đoạn thơ khép lại bằng hình ảnh
thanh bình của cuộc sống, bằng giấc ngủ say nồng của trẻ thơ.
b. Hình ảnh con cị đi vào trong tâm hồn trẻ thơ cùng với âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru trở nên
gần gũi và sẽ theo con trong suốt chặng đường đời:
- Từ lời ru của mẹ, con cò bước ra làm quen với đứa con bé bỏng. Thế rồi cò trở thành người bạn thân
thiết, gần gũi.
+ Khi cịn ở trong nơi “Con ngủ n thì cị cùng ngủ. Cánh của cị hai đứa đắp chung đôi”.
+ Khi con đi học “Mai khôn lớn con theo cò đi học. Cánh trắng cò bay theo gót đơi chân”.
+ Và khi con đã trưởng thành “Cánh cị trắng lại bay hồi khơng nghỉ. Trước hiên nhà, và trong hơi mát
câu văn”.
- Như vậy, con cò đã trở thành người bạn đồng hành thân thiết hơn bất cứ người bạn nào. Cánh cị
khơng mệt mỏi bay qua mọi không gian và thời gian, luôn ở bên con từ trong nôi, từ mái trường, từ hiên nhà,
từ câu văn. Cánh cò ấy dường như tung tay theo từng ước mơ, khao khát của con. Như vậy, hình ảnh con cị
là biểu tượng về lịng mẹ, là sự dìu dắt, nâng đỡ dịu dàng, bền bỉ của mẹ và mẹ mong cho con có tâm hồn
u q hương.
c. Hình ảnh con còn là biểu tượng cho tấm lòng yêu con của người mẹ, theo con suốt cuộc đời:
- Từ sự thấu hiểu tấm lòng người mẹ, nhà thơ đã khái qt một quy luật tình cảm có ý nghĩa sâu sắc và
bền vững: “Con dù đã lớn vẫn là con của mẹ. Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”. Câu thơ giàu chất trí tuệ,
triết lý. Triết lý của trái tim. Điệp từ “dù”, “vẫn” đã khẳng định tình mẫu tử là bền chặt, sắt son. Có gì cao
hơn núi, có gì sâu hơn biển, và có gì bao la bằng lòng mẹ yêu con.
- Phần cuối bài thơ trở lại với âm hưởng lời ru và đúc kết hình tượng con cị trong những lời ru ấy “Một
con cị thơi. Con cị mẹ hát. Cũng là cuộc đời. Vỗ cánh qua nôi”. Đúng vậy, chỉ một con cị trong lời ru của
mẹ thơi mà ẩn chứa bao bài học, bao ý nghĩa về cuộc đời. Bài học ấy, ý nghĩa ấy đến với con thật nhẹ nhàng
sâu lắng, qua âm điệu thiết tha của những lời ru. Khơng có lời ru, cuộc đời con thiệt thịi, nghèo nàn biết
mấy.
II. Nhận xét về thể thơ, nhịp điệu, giọng điệu của bài thơ. Các yếu tố ấy có tác dụng như thế nào
trong việc thể hiện tư tưởng, cảm xúc của bài thơ?
Nghệ thuật của bài thơ:
- Thể thơ tự do nhiều câu mang dáng dấp của thể thơ 8 chữ nên cảm xúc được thể hiện một cách linh
hoạt.

- Cấu trúc các đoạn thường bắt đầu bằng những câu thơ ngắn, nhiều chỗ có cấu trúc giống nhau, có chỗ
cấu trúc lặp lại hồn tồn gợi âm điệu của lời ru.
- Giọng điệu suy ngẫm có cả tính triết lý làm cho bài thơ không chỉ cuốn người đọc vào điệu ru êm ái,
mà hướng nhiều hơn vào sự suy ngẫm, phát hiện.


- Sáng tạo hình ảnh thiên về ý nghĩa biểu tượng nhưng cũng rất gần gũi, quen thuộc mà vẫn có khả năng
hàm chứa ý nghĩa mới. Hình ảnh con cò được phát triển, mở rộng qua mỗi khổ nhưng vẫn giữ được tính liên
kết, thống nhất.
- Bài thơ thành cơng trong việc vận dụng sáng tạo ca dao, có những câu thơ đúc kết được những suy
nghĩ sâu xa.
III. Đối chiếu hai bài thơ“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm và
bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên, chỉ ra cách vận dụng lời ru ở mỗi bài thơ?
- Bài “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” tác giả Nguyễn Khoa Điềm vừa trò chuyện với em
bé với giọng điệu gần như lời ru, lại có những lời ru trực tiếp từ người mẹ. Khúc hát ru ở bài thơ ấy biểu hiện
sự thống nhất giữa tình yêu con với tình u cách mạng, với lịng u nước và ý chí chiến đấu.
- Bài thơ “Con cị” tác giả Chế Lan Viên gợi lại điệu hát ru trong ca dao - > ca ngợi tình mẹ và ý nghĩa
của lời ru đối với đời sống mỗi con người.

Phân tích bài thơ : “Con Cò”.
A. Mở bài:
- Chế Lan Viên là nhà thơ xuất sắc của nền thơ hiện đại Việt Nam.
- Bài thơ “Con Cò” thể hiện khá rõ một số nét của phong cách NT Chế Lan Viên.
- Thơng qua một cánh cị tượng trưng, Chế Lan viên đã đi đến những khái quát sâu sắc về tình
yêu thương của người mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc đời mỗi con người.
B. Thân bài:
1. Luận điểm 1: Nhận xét chung về thể thơ, giọng điệu, hình ảnh con cị: nguồn gốc và sáng tạo
- Thể tự do, các câu thơ có độ dài ngắn khác nhau, nhịp điệu luôn biến đổi. Các điệp từ, điệp
ngữ có sức gợi gần gũi với những điệu hát ru quen thuộc.
- HÌnh tượng trung tâm xuyên suốt cả bài thơ là con cò được bổ sung, biến đổi qua những hình

ảnh cụ thể và sinh động, giầu chất suy tư của tác giả.
- Trong ca dao truyền thống, hình ảnh con cò xuất hiện phổ biến và mang ý nghĩa ẩn dụ cho
hình ảnh người nơng dân, người phụ nữ trong cuộc sống còn nhiều vất vả, nhọc nhằn nhưng giầu
đức tính tốt đẹp và niềm vui sống.
- Trong bài thơ này, Chế Lan Viên chỉ khai thác và xây dựng ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh
con cị nhằm nói lên tấm lịng người mẹ và vai trị của những lời hát ru đối với cuộc sống mỗi con
người.
2. Luận điểm 2: HÌnh ảnh con cị “trong lời mẹ hát” đi vào giấc ngủ của con.
Con cò bay la
…..
Cị sợ xáo măng…”
- Hình ảnh con cị cứ thấp thoáng gợi ra từ những câu ca dao dùng làm lời hát ru rất phong phú về
nội dung và biểu tượng.
+ Nhà thơ chỉ dùng lại vài từ trong mỗi câu ca dao xưa vừa gợi lại lời ru, vừa gợi lại ít nhiều
sự phong phú trong ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cị.
+ Con cịn “bế trên tay”, nào biết được ý nghĩa của những câu ca dao trong lời ru của mẹ:
Con cò bay lả bay la
Bay từ cổng Phủ bay ra cánh đồng
Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ, bay về Đồng Đăng
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao…


Nhưng qua lời ru, hình ảnh con cị đã đi vào tâm hồn trẻ thơ một cách vô thức, và theo đó là cả
điệu hồn dân tộc. Đứa trẻ được võ về trong những âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru để đón
nhận bằng trực giác tình u và sự chở che của mẹ.
- Thấm đẫm trong lời hát là những xúc cảm yêu thương trào dâng trong trái tim của mẹ:
“Cị một mình cị phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ con chơi rồi lại ngủ”

Và:
“ngủ yên, ngủ n, cị ơi chớ sợ
Cành có mềm mẹ đã sẵn tay nâng”
- Tình mẹ nhân từ, rộng mở với những gì nhỏ bé đáng thương, đáng được che chở.
- Lời thơ như nhịp vỗ về thể hiện sự yêu thương dào dạt vô bờ bến.
- Những cảm xúc yêu thương ấy mang đến cho con giấc ngủ yên bình, hạnh phúc trong sự ơm ấp,
chở che của tiếng ru lịng mẹ:
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
……………………..
Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân.
- Vì thế, tái tim bé nhỏ của con đã được hiểu thế nào là tình mẹ. Đoạn thơ khép lại bằng những hình
ảnh thanh bình của cuộc sống, bằng những giấc nồng say của trẻ thơ.
3. Luận điểm 3: Hình ảnh con cị trong đoạn 2 (cánh cò đã trở thành người bạn tuổi ấu thơ, thành
bạn đồng hành của con người trong suốt cuộc đời.)
- Bằng sự liên , tưởng tượng phong phú, nhà thơ đã sáng tạo ra những hình ảnh cánh cị đặc
sắc, hàm chứa nhiều ý nghĩa.
+ Từ cánh cò của tuổi ấu thơ thật ngộ nghĩnh mà đầm ấm: Còn ngủ n thì cị cũng ngủ. Cánh
của cị hai đứa đắp chung đơi”.
+ Đến cánh cị của tuổi tới trường quấn qt chân con: Mai khơn lớn con theo cị đi học. Cánh
của cị hai đứa đắp chung đơi”.
+ Cho đến khi trưởng thành, con thành thi sĩ: “Cánh cò trắng lại bay hồi khơng nghỉ. Trước
hiên nhà. Và trong hơi mát câu văn”.
- Hình ảnh thơ lung linh một vẻ đẹp bất ngờ, diễn tả một suy tưởng sâu xa: Sự dìu dắt, nâng đỡ
yêu thương bền bỉ suốt cả đời mẹ đối với con.
4. Luận điểm 4: HÌnh ảnh con cò được nhấn mạnh ở đoạn 3 với ý nghĩa biểu tượng cho tấm
lòng người mẹ lúc nào cũng bên con đến suốt cuộc đời:
Dù ở gần con…. vẫn yêu con”
- Đến đoạn 3, nhịp thơ thay đổi như dồn dập hẳn lên trong những câu thơ ngắn giống như lời dặn dị
của mẹ, hình ảnh con cị trong đoạn thơ như được nhấn mạnh ở ý nghĩa biểu tượng cho tấm lòng
người mẹ lúc nào cũng ở bên con suốt cuộc đời.

- Lời dặn giản dị mộc mạc mà hàm nghĩa sâu xa. Dưới hình thức thơ tự do, nhà thơ như dựng lên cả
một bầu trời yêu thương bao la mà đặc điểm của nó là không gian và thời gian không giới hạn: Lên
rừng - xuống biển - hai chiều không gian gợi ấn tượng về những khó khăn của cuộc đời. Khơng gian
nghệ thuật ấy của bài thơ cũng góp phần biểu hiện sự phát triển của tứ thơ, của tình cảm và hành
động của nhân vật trữ tình. Từ khơng gian có giới hạn ngày càng rộng dần thêm đến một không gian
tâm tưởng vừa bao la vừa sâu thẳm như chính lời ru hát lên từ trái tim của mẹ:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ.
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”
Tấm lịng người mẹ mn đời vẫn vậy, vượt ra ngồi mọi khoảng cách khơng gian, thời gian.
Đó là quy luật bất biến và vĩnh hằng của mọi tấm lòng người mẹ trên đời mà nhà thơ đã khái quát,
đúc kết trong câu thơ đậm chất suy tưởng và triết lí. Sự lặp lại liên tục của những từ ngữ “dù gần
con, dù xa con” như láy đi láy lại cảm xúc thương yêu đang trào dâng trong tâm hồn mẹ. Tình yêu


thương của mẹ luôn “vẫn”, “sẽ”, “mãi” bên con cho dù con lớn lên, đi xa, trưởng thành trong đời,
cho dù có thể một ngày nào đó mẹ khơng cịn có mặt trên đời.
Nguyễn Duy đã từng khái quát về tình u ấy trong những câu thơ đầy triết lí:
“Ta đi trọn kiếp con người.
Cũng không đi hết một lời mẹ ru”.
Tiếng ru ấy theo ta đi suốt cuộc đời như một hành trang tinh thần của tình mẫu tử.
- Kết thúc bài thơ, lời thơ trở về với hình thức của tiếng ru: “à ơi”. Nhịp điệu của câu thơ dồn
về với những vần “ôi”, “ơi”, “ôi” nối tiếp nhau trong khổ thơ:
À ơi!
………….Đến hát
Quanh nôi”.
làm cho câu thơ dù ngắn mà vẫn gợi cảm giác như là lời ru, ngân nga mãi trong lòng người
đọc. Con cò đi vào lời ru của mẹ đã thành “cuộc đời vỗ cánh qua nơi” đứa con. Kì diệu biết bao cái
tiếng ru ngọt ngào mà sâu thẳm của lòng mẹ thương con. Cuộc đời mỗi con người sẽ chẳng thể nào
thiếu đi phần tình cảm thiêng liêng nhất bởi đó cịn là tình quê hương là nguồn cội là bến bờ che chở
nâng đỡ mỗi con người.

C. Kết luận:
- “Con cò” là một bài thơ hay của Chế Lan Viên.
- Bằng sự suy tưởng, bằng sự vận dụng sáng tạo ca dao, giọng điệu tâm tình thủ thỉ, nhịp điệu
êm ái, dịu dàng mang âm hưởng của những lời hát ru, bài thơ đã ngợi ca tình yêu sâu sắc bao la của
mỗi người mẹ trong cuộc đời này.
- Bài thơ gợi lên những rung cảm và suy nghĩ sâu sắc v cụng n sinh thnh ca ngi m..
*Giá trị tác phẩm
1. Hình tợng bao trùm cả bài thơ là hình tợng con cò. Đó là con cò trong ca dao truyền
thống, xuất hiện rất phổ biến và đợc dùng với nhiỊu ý nghÜa kh¸c nhau, nhng ý nghÜa phỉ
biÕn nhÊt là hình ảnh ngời nông dân, ngời phụ nữ trong cuộc sống nhiều vất vả, nhọc nhằn
nhng luôn thể hiện đợc những đức tính tốt đẹp và niềm vui sống.
2. Bài thơ đợc tác giả chia làm ba đoạn:
Đoạn 1: hình ảnh con cò qua những lời ru bắt đầu đến với tuổi ấu thơ.
Đoạn 2: hình ảnh con cò đi vào tiềm thức của tuổi thơ, trở nên gần gũi và sẽ theo con
ngời đi suốt cuộc đời.
Đoạn 3: từ hình ảnh con cò, nhà thơ suy ngÉm vµ triÕt lý vỊ ý nghÜa cđa lêi ru và tình
mẹ đối với cuộc đời mỗi con ngời.
3. Trong đoạn đầu bài thơ, tác giả đà sử dụng những câu ca dao:
Con cò bay lả bay la
Bay từ cổng phủ, bay ra cánh đồng
Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ bay về Đồng Đăng
Con cò mày đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hÃy xáo măng
Có xáo thì xáo nớc trong
Đừng xáo nớc đục, đau lòng cò con.
Trong hai bài ca dao trớc, hình ảnh con cò gợi tả không gian và khung cảnh quen
thuộc, nhịp điệu nhẹ nhàng, thong thả cđa cc sèng thêi xa. Trong bµi ca dao sau (Con cò

mày đi ăn đêm...), hình ảnh con cò lại tợng trng cho những con ngời, nhất là ngời phụ nữ
đang nhọc nhằn, vất vả để kiếm sống nuôi con.
4. Hình tợng trung tâm trong bài thơ là cánh cò nhng cảm hứng chủ đạo lại là tình mẹ.
Hình ảnh con cò đà gợi ý nghĩa biểu tợng về lòng mẹ, về sự dìu dắt, nâng đỡ đầy dịu dàng
của ngời mẹ. Bởi vậy, những câu thơ mang tính khái quát trong bài đều là những câu thơ


chan chứa tình cảm yêu thơng của ngời mẹ:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.
Đó là một quy luật tình cảm bền vững và sâu sắc, thể hiện tình cảm yêu thơng vô bờ
bến của ngời mẹ. Dù ở đâu, bên mẹ hay đến phơng trời khác, dù còn nhỏ hay đà lớn khôn
thì con vẫn đợc mẹ hết lòng thơng yêu, che chở.
Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi.
Lời ru cũng là khúc hát yêu thơng. Sự hoá thân của ngời mẹ vào cánh cò mang nhiều ý
nghĩa sâu xa, kết tụ những hi sinh, gian khổ, nhọc nhằn để những lời yêu thơng càng trở
nên sâu sắc, đằm thắm. Câu thơ cuối là một hình ảnh rất đẹp. Cánh cò vỗ qua nôi nh dáng
mẹ đang nghiêng xuống chở che, đang nói với con những lời tha thiết của lòng mẹ.
5. Một số đặc điểm nghệ thuật của bài thơ
Về thể thơ: Trong bài thơ này, tác giả sử dụng thể thơ tự do nhng các đoạn thờng đợc
bắt đầu bằng những câu thơ ngắn, có cấu trúc giống nhau, nhiều chỗ lặp gợi âm điệu lời
ru. Tuy nhiên, trong bài thơ, ta còn nhận thấy giọng suy ngẫm, triết lí.
Về hình ảnh: Hình ảnh con cò trong ca dao trở thành điểm tựa cho những liên t ởng, tởng tợng của tác giả. Những hình ảnh trong bài thơ vừa rất gần gũi, xác thực nhng đồng
thời cũng giàu ý nghĩa biểu tợng và sắc thái biểu cảm.
- Nhịp điệu linh hoạt của thể thơ tự do đà giúp tác giả thể hiện một cách đặc sắc hình t ợng con cò trong lời hát ru của bà mẹ.
6. Hình ảnh con cò không mới, nhng bắt nguồn từ mạch trữ tình tha thiết trong ca dao,
bài thơ Con cò là sự kết tinh giữa cảm hứng trữ tình dân gian và chất triết lí giản dị mà sâu

sắc của tác giả Hoa ngày thờng - Chim báo bÃo.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

MA XUN NHO NHỎ
Thanh H¶i
I. Tác giả:
- Thanh Hải (1930 - 1980) tên khai sinh là Phạm bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên
Huế.
- Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu
nước, Thanh Hải ở lại quê hương hoạt động và là một trong những cây bút có cơng xây dựng nền văn học
Cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.
II. Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết vào tháng 11/1980, không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời,
thể hiện niềm yêu mến cuộc sống đất nước thiết tha và ước nguyện của tác giả.
2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
- Nội dung: bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước
nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào
mùa xuân lớn của dân tộc.
- Nghệ thuật: bài thơ theo thể năm tiếng, có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca, nhiều
hình ảnh đẹp, giản dị gợi cảm, so sánh ẩn dụ và sáng tạo.
3. Mạch cảm xúc và bố cục:
* Mạch cảm xúc: được khơi nguồn, nảy nở từ sức sống, vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mở rộng ra
với mùa xuân đất nước, cách mạng. Cảm xúc lắng đọng dần vào suy tư và ước nguyện: nhà thơ muốn nhập


vào bản hoà ca vĩ đại của cuộc đời bằng một nốt trầm xao xuyến của riêng mình, góp vào mùa xuân chung
lớn lao “một mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ khép lại với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất
nước qua điệu dân ca xứ Huế.
* Bố cục: Gồm 4 phần:
- Khổ 1: Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời

- Khổ 2 + 3: Cảm xúc về mùa xuân của đất nước
- Khổ 4 + 5: Suy nghĩ và ước nguyện của tác giả trước mùa xuân đất nước.
- Khổ cuối: Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
4. Tên bài thơ:
- “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ.
- Hình ảnh “Mùa xuân nho nhỏ” là biểu tượng cho những gì tinh tuý, đẹp đẽ nhất của sự sống và cuộc
đời mỗi con người.
- Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng.
- Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức
sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường là một mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn của thiên
nhiên, đất nước, của cuộc đời chung và khát vọng sống chân thành, cao đẹp của nhà thơ. Đó cũng chính là
chủ đề của bài thơ mà nhà thơ muốn gửi gắm.
B. PHÂN TÍCH BÀI THƠ:
1. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên (6 câu đầu):
- Bức tranh mùa xuân thiên nhiên trong 6 câu thơ đầu được vẽ bằng vài nét phác hoạ nhưng rất đặc sắc.
- Không gian cao rộng của bầu trời, rộng dài của dòng sơng, màu sắc hài hồ của bơng hoa tím biếc và
dịng sơng xanh - đặc trưng của xứ Huế.
- Rộn rã, tươi vui với âm thanh tiếng chim chiền chiện hót vang trời, tiếng chim trong anhs áng xuân lan
toả khắp bầu trời như đọng thành “từng giọt long lanh rơi”.
- Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân đất trời thể hiện qua cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những
lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên “ơi, hót chi… mà…”. Đặc biệt cảm xúc của nhà thơ
được thể hiện trong một động tác trữ tình đón trân trọng vừa tha thiết trìu mến với mùa xuân: đưa tay hứng
lấy từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện.
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tơi hứng”.
- Có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, “giọt long lanh” là những giọt mưa mùa
xuân, giọt sương mùa xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như những hạt ngọc.
- Ở đây, giọt long lanh cũng có thể được hiểu theo nghĩa ẩn dụng chuyển đổi cảm giác. Tiếng chim từ
chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành từng giọt (hình và khối, cảm nhận bằng thị giác),
từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể cảm nhận bằng xúc giác “Tơi đưa tay tơi hứng”. Dù

hiểu theo cách nào thì hai câu thơ vẫn thể hiện cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ
Huế vào xuân, thể hiện mong muốn hoá vào thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng giữa mùa đông giá lạnh
khiến ta vô cùng khâm phục.
II. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước (10 câu tiếp)
- Hình ảnh lộc xuân theo người ra tràn theo người ra đồng làm đẹp ý thơ với cuộc sống lao động và
chiến đấu, xây dựng và bảo vệ, 2 nhiệm vụ không thể tách rời. Họ đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất
nước.
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng


Lộc trải dài nương mạ”
+ “Mùa xuân người cầm súng. Lộc giắt đầy trên lưng”: liên tưởng đến những người chiến sỹ ra trận mà
trên vai, trên lưng họ có cành lá nguỵ trang. Những cành lá ấy mang lộc biếc, chồi non, mang theo mùa xuân
của thiên nhiên, cây cỏ. Từ “lộc” còn làm cho người ta liên tưởng đến hình ảnh người lính khi ra trận, mang
theo sức sống của cả dân tộc. Chính màu xanh sức sống đó đã tiếp cho người lính có thêm sức mạnh, ý chí
để họ vươn xa ra phía trước tiêu diệt quân thù.
+ “Mùa xuân người ra đồng. Lộc trải dài nương mạ”: nói về những người lao động, những người ươm
mầm cho sự sống, ươm những hạt mầm non trên những cánh đồng quê hương, từ “lộc” cho ta nghĩ tới những
cánh đồng trải dài mênh mông với những chồi non mới nhú lên xanh mướt từ những hạt thóc giống đầu mùa
xuân. Từ “lộc” còn mang sức sống, sức mạnh của con người. Có thể nói, chính con người đã tạo nên sức
sống của mùa xuân thiên nhiên, đất nước.
+ “Tất cả như hối hả. Tất cả như xôn xao". Nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận mùa xuân đất nước bằng hai
từ láy gợi cảm “hối hả” là vội vã, khẩn trương, liên tục không dừng lại. “Xôn xao” khiến ta nghĩ tới những
âm thanh liên tiếp vọng về, hồ lẫn với nhau xao động. Đây chính là tâm trạng tác giả, là cái náo nức trong
tâm hồn. Tiếng lòng của tác giả như reo vui náo nức trước tinh thần lao động khẩn trương của con người.
Mùa xuân đất nước được làm nên từ cái hối hả ấy. Sức sống của đất nước, của dân tộc, cũng được tạo nên từ
sự hối hả, náo nức của người cầm súng, người ra đồng. Như vậy, hình ảnh mùa xuân đất nước đã đươcn mở
rộng dần. Đầu tiên, nó chỉ gói gọn trên đơi vai, tấm lưng của người ra trận, đã được mở rộng thành một cánh

đồng bao la.
- Nhà thơ tin tưởng, tự hào về tương lai tươi sáng của đất nước cho dù trước mắt còn nhiều vất vả, khó
khăn. Và đất nước được hình dung bằng một hình ảnh so sánh thật đẹp mang nhiều ý nghĩa :
Đ
" ất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”.
Sao là một nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp vĩnh hằng vượt qua mọi không gian và thời gian. Sao cũng là
hình ảnh rạng ngời trên lá cờ Tổ quốc. Qua đó, tác giả Thanh Hải bộc lộ niềm tự hào về một đất nước Việt
Nam anh hùng và giàu đẹp. Đất nước mãi trường tồn, vĩnh cửu cùng vũ trụ, không bao giờ mất đi và không
một thế lực nào ngăn cản được, nhất định đất nước cũng sẽ toả sáng như những vì sao trong hành trình đi
đến tương lai rực rỡ, đi đến bến bờ hạnh phúc. Đó là chí quyết tâm, niềm tin sắt đá, niềm tự hào lạc quan của
cả dân tộc. Ở câu thơ thứ hai, phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang
tiến lên phía trước, vượt qua mọi khó khăn, cảm xúc của nhà thơ là cảm xúc lạc quan, tin tưởng, ngợi ca sức
sống của quê hương đất nước, của dân tộc khi mùa xuân về.
III. Ước nguyện của nhà thơ (8 câu tiếp)
- Muốn làm những việc hữu ích dâng hiến cho đời bày tỏ qua những hình ảnh tự nhiên, giản dị và đẹp.
Đẹp và tự nhiên và giàu ý nghĩa vì nhà thơ đã lấy cái đẹp tinh tuý của thiên nhiên để diễn tả vẻ đẹp của tâm
hồn:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến".
- Làm "con chim hót" giữa mn ngàn tiếng chim vơ tư cống hiến tiếng hót vui, làm "một cành hoa"
giữa vườn hoa xuân rực rỡ vô tư cống hiến hương sắc cho đời, làm "một nốt trầm" giữa bản hồ tấu mn
điệu, làm "một mùa xuân nho nhỏ" góp vào mùa xuân lớn của đất nước, của cuộc đời chung. Ở phần đầu bài
thơ, tác giả đã phác hoạ hình ảnh mùa xuân bằng các chi tiết bơng hoa và tiếng chim hót. Cấu tứ lặp đi lặp lại



như vậy tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Hình ảnh chọn lọc ấy trở lại đã mang một ý nghĩa mới: niềm mong muốn
được sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên.
- Điệp từ "ta" như một lời khẳng định. Nó khơng chỉ là lời tâm niệm thiết tha, chân thành của nhà thơ
mà nó còn đề cập đến một vấn đề lớn là khát vọng chung của nhiều người.
"Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
- Ước nguyện hố thân đso vơ cùng cháy bỏng, nhưng được tác giả âm thầm “lặng lẽ dâng cho đời”.
“Nho nhỏ”, “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, chân thành mà giản dị, là cách sống cao đẹp. Tác giả muốn mỗi
người là một mùa xuân nhỏ hoà vào cuộc sống, là ước nguyện sống có ích, được cống hiến cho đời như Tố
Hữu đã viết trong “Một khúc ca xuân”.
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà khơng có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”
- “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, cũng là cách thể hiện thiết tha, cảm động. Nó đã khắc
sâu ý tưởng: “Mỗi cuộc đời đã hố núi sơng ta” (Nguyễn Khoa Điềm). Đó khơng phải mong muốn trong
một lúc mà là cả một cuộc đời “Dù là tuổi hai mươi. Dù là khi tóc bạc”.
- Điệp từ “Dù là” khiến âm điệu câu thơ tha thiết, sâu lắng, ý thơ được nhấn mạnh làm cho người đọc
không chỉ xúc động trước một giọng thơ ấm áp, mà còn xúc động trước lời tâm sự thiết tha của một con
người đã từng trải qua 2 cuộc kháng chiến, đã cống hiến trọn cuộc đời và sự nghiệp cho cách mạng vẫn tha
thiết được sống đẹp, sống có ích với tất cả sức sống tươi trẻ của mình cho cuộc đời chung.
- Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở về với cát bụi nhưng không gợi chút băn khoăn về
bệnh tật, những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ “lặng lẽ cháy bỏng một khát khao được dâng hiến”.
IV. Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế (Khổ cuối)
Như một nhịp láy lại của khúc dân ca dịu dàng, đằm thắm tăng giá trị biểu hiện của các khổ thơ trên đem
lại thi vị Huế trìu mến tha thiết.
“Mùa xuân - ta xin hát
Khúc Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phác tiền đất Huế".
- Bài thơ khép lại trong âm điệu khúc Nam ai, Nam bình xứ Huế. Đoạn thơ kết thúc như một khúc hát
ca ngợi mùa xuân, để lại dư vị sâu lắng. Nhà thơ muốn hát lên điệu Nam ai, Nam bình, điệu dân ca tha thiết
xứ Huế để đón mừng mùa xuân. Câu ca nghe như một lời từ biệt để hồ vào vĩnh viễn. Nhưng đây khơng
phải là lời ca buồn thủa trước “nhịp phác tiền đất Huế” nghe giòn giã, vang xa. - “Nước non ngàn dặm mình.
Nước non ngàn dặm tình” cịn ngân nga mãi mãi. Phải yêu đời lắm, phải lạc quan lắm mới có thể hát lên
trong hồn cảnh nhà thơ lúc đó (đang ốm nặng và sắp qua đời). Điều đó làm ta càng yêu quý tiếng hát và tấm
lòng nhà thơ. Như vậy, xun suốt bài thơ khơng chỉ là hình tượng mùa xuân. Từ tiếng chim chiền chiện
tượng trưng cho khúc hát của đất trời đến làm một nốt nhạc trầm nhập vào bản hoà ca đất nước, và đến đây
là khúc hát tạo ấn tượng một bài ca không dứt. Một bài ca yêu cuộc sống. Bài thơ được nhạc sỹ Trần Hoàn
phổ nhạc thành bài hát và trở thành một khúc ca xuân quen thuộc, xúc động, còn mãi với đời.
V. Nghệ thuật đặc sắc:


- Thể thơ 5 chữ gần với điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết, điệu thơ như điệu
của tâm hồn, cách gieo vần liền tạo sự liền mạch của dịng cảm xúc.
- Hình ảnh tự nhiên, giản dị, những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, đặc biệt một số hình ảnh cành
hoa, con chim, mùa xuân được lặp đi lặp lại và nâng cao, gây ấn tượng đậm đà.
- Cấu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: từ mùa xuân đất trời
- > đất nước - > con người.
- Giọng điệu bài thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: Ở đoạn đầu vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa xuân
thiên nhiên, rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế lao động của đất nước. Và cuối cùng là trầm lắng, hơi trang
nghiêm mà thiết tha bộc bạch, tâm niệm.
VI. Trong phần đầu bài thơ, tác giả dùng đại từ “tôi” sang phần sau lại dùng đại từ “ta”. Em hiểu
như thế nào về sự chuyển đổi đại từ nhân xưng ấy của chủ thể trữ tình.
- Tơi và ta đều là đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất.
- Giữa hai phần của bài thơ có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng của chủ thể trữ tình từ “tơi” sang “ta”.
Điều này khơng phải hồn tồn là ngẫu nhiên mà đã được tác giả sử dụng như một dụng ý nghệ thuật thích

hợp với sự chuyển biến của cảm xúc và tư tưởng trong bài thơ. Chữ “tôi” trong câu “tôi đưa tay tôi hứng” ở
khổ thơ đầu vừa thể hiện một cái “tôi” cụ thể rất riêng của nhà thơ, vừa thể hiện được sự nâng niu, trân trọng
với vẻ đẹp và sự sống của mùa xuân. Nếu thay bằng chữ “ta” thì hồn tồn khơng thích hợp với nội dung
cảm xúc ấy mà chỉ vẽ ra một tư thế có vẻ phơ trương.
- Cịn trong phần sau, khi bày tỏ điều tâm niệm tha thiết như một khát vọng được dâng hiến giá trị tinh
tuý của đời mình cho đời chung thì đại từ “ta” lại tạo được sắc thái quan trọng, thiêng liêng của một lời
nguyện ước.
- Hơn nữa, điều tâm nguyện ấy không chỉ của riêng nhà thơ, mà của biết bao thế hệ người Việt Nam
đang sống và cống hiến cho sự nghiệp chung, cái “tôi” của tác giả đã thay cho nhiều cái “tôi” khác, nó nhất
thiết phải hố thân thành cái “ta”. Nhưng “ta” mà khơng hề chung chung vơ hình, mà vẫn nhận ra được một
giọng nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đằm thắm của cái “tơi” Thanh Hải.

phân tích bài thơ “Mùa xn nho nhỏ”
1. Mùa xuân của thiên nhiên đất nước (khổ 1)
a. Cảm hứng xuân phơi phới của Thanh Hải đã dệt nên một bức tranh xuân rất đẹp, đầy sức sống và
tràn ngập niềm vui rạo rực.
- Bức tranh ấy được chấm phá bằng rất ít chi tiết: một dịng sơng xanh, một bơng hoa tím biếc, một
tiếng chim chiền chiện. Những nét chấm phá ấy đã vẽ ra được một không gian cao rộng, màu sắc
tươi thắm của mùa xuân và cả âm thanh vang vọng, tươi vui của chim chiền chiện.
+ Ngay hai câu mở đầu đã gặp một cách viết khác lạ. Khơng viết như bình thường : một bơng hoa
tím biếc mọc giữa dịng sơng xanh” mà đảo lại: “Mọc giữa dịng sơng xanh. Một bơng hoa tím
biếc”. Động từ “mọc” đặt ở đầu khổ thơ của bài thơ là một dụng ý NT của tác giả => khắc sâu ấn
tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của mùa xn.Tưởng như bơng hoa tím biếc kia đang từ từ,
lồ lộ mọc lên, vươn lên, xoè nở trên mặt nước xanh của dịng sơng xn.
+ Tại sao màu nước sơng lại xanh mà khơng là “dịng nước trong mát” (bài “Vàm cỏ đơng” của
Hồi Vũ), hay khơng là “dịng sơng đỏ nặng phù sa” trong thơ Nguyễn Đình Thi – bài Đất nước)?
Có phải đấu là màu nước của Hương Giang, hay chính là tín hiệu báo mùa xuân đang về? Mùa xuân
trang trải êm trôi một dòng xanh dịu mát. Màu xanh lam của dòng sơng hương hồ cùng màu tím
biếc của hoa, một màu tím giản dị, thuỷ chung, mộng mơ và quyến rũ. Đó là mầu sắc đặc trưng của
xứ Huế.

+ Tiếng chim chiền chiện tạo nên một nét đẹp nữa của mùa xuân: “Ơi con chim chiền chiện. Hót chi
mà vang trời”=>. nhạc điệu của câu thơ như giai điệu của mùa xuân tươi vui và rạo rực. Các từ than


gọi “ơi, chi, mang chất giọng ngọt ngào đáng yêu của người xứ Huế (thân thương, gần gũi) . Câu thơ
cứ như câu nói tự nhiên khơng trau chuốt từ ngữ nhưng vẫn mang âm hưởng thi ca. Câu hỏi tu từ
“hót chi” thể hiện tâm trạng đùa vui, ngỡ ngàng, thích thú của tác giả trước giai điệu của mùa xuân.
- Quả thật, thiên nhiên nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng trao tặng con người mọi vẻ đẹp
nếu con người biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa
của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao động,
bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
“Từng giọt long lanh rơi.
Tôi đưa tay tôi hứng”
Về hai câu thơ trên, có hai cách hiểu: từng giọt ở đây là giọt mưa xuân long lanh trong ánh
sáng của trời xn; nhưng cũng cịn có thể hiểu hai câu này gắn với hai câu trước: Tiếng chim đang
vang xa bỗng gần lại, rõ ràng, tròn trịa như kết thành những giọt sương óng ánh sắc màu, rơi rơi, rơi
mãi tưởng chừng không dứt và nhà thơ đưa tay hứng từng giọt âm thanh ấy. Như vậy từ một hình
tượng, một sự vật được cảm nhận bằng âm thanh ( thính giác), tác giả đã chuyển đổi biến nó thành
một sự vật có thể nhìn được bằng mắt ( thị giác) bởi nó có hình khối, màu sắc rồi lại được như cảm
nhận nó bằng da thịt, bằng sự tiếp xúc ( xúc giác).Nghệ thuật ví ngầm, chuyển đổi cảm giác quả đã
đạt tới mức tinh tế đáng khâm phục. Hai câu thơ đã biểu hiện niềm say sưa, ngây ngất, xốn xang,
rạo rực của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc vào xuân. Chắc hẳn trong lịng thi sĩ
đang dạt dào tình u q hương, đất nước, tình yêu cuộc đời.
2. Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, cảm hứng thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất
nước một cách tự nhiên.
-Đây là mùa xuân của con người đang lao động và chiến đấu, của đất nước vất vả và gian lao đang
đi lên phía trước. Hình ảnh “người cầm súng, người ra đồng” biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến đấu
và lao động dựng xây lại quê hương sau những đau thương mất mát. Ai cũng có nhiệm vụ của mình:
người lính tiếp tục bảo vệ q hương, vịng là nguỵ trang của người chiến sĩ đang nảy những chồi
non, lộc biếc như mang theo cả mùa xuân cùng các anh ra trận. Người nông dân ra đồng làm nên hạt

lúa, trên nương mạ, ruộng lúa của bác nông dân, mầm non, sức sống thanh xuân đang đua nhau trỗi
dậy, giục giã, thơi thúc lịng người. Sức gợi cảm của câu thơ được thể hiện qua hình ảnh “lộc” của
mùa xuân gắn với người cầm súng, người ra đồng. “Lộc” là chồi non, nhưng “lộc” cịn có nghĩa là
mùa xn, là sức sống, là thành quả hạnh phúc. Câu thơ vừa tả thực, vừa tượng trưng cho sức sống
của mùa xuân đất nước, sức sống của mỗi con người.
- Âm hưởng thơ hối hả, khẩn trương với nhiều điệp từ, điệp ngữ láy lại ở đầu câu.
- Sức sống của mùa xuân còn được cảm nhận trong nhịp điệu hối hả, trong âm thanh xơn xao. Và
đất nước được hình dung bằng một hình ảnh so sánh đẹp: đất nước như vì sao. Cứ đi lên phía trước”.
Hình ảnh so sánh gợi liên tưởng đến vẻ đẹp, ánh sáng và hi vọng. “Đất nước bốn nghìn năm”, hố
thành những vì sao đi lên, bay lên, ngời sáng lung linh => Cảm xúc của nhà thơ đối với đất nước:
say mê, tự hào, tin tưởng con người và cuộc sống của quê hương, đất nước khi vào xuân.
3. Từ cảm xúc về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ chuyển một cách tự nhiên sang bày
tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân đất nước.
( Đoạn này, tác giả dùng phương thức biểu cảm trực tiếp. Nhân vật “ta” trực tiếp bộc lộ tâm niệm
của mình. )
- Điều tâm niệm của nhà thơ: là khát vọng được hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến
phần tốt đẹp – dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.
- Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong những hình ảnh tự nhiên, giản dị và
đẹp.
Đẹp và tự nhiên vì nhà thơ đã dùng những hình ảnh đẹp của thiên nhiên để nói lên ước nguyện của
mình. Một con chim hót để cất tiếng thơ ngợi ca đất nước, làm một nhành hoa để đem lại hương
thơm cho cuộc đời. Bao trùm tất cả, ơng ước nguyện hố thành « một mùa xuân nho nhỏ », lặng lẽ,



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×