Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

LICH SU VIET NAM 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.33 KB, 16 trang )

Chương 3
XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TỪ 1975 ĐẾN NAY
3.1. Việt Nam trong năm đầu sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ (1975-1976)
3.1.1. Tình hình 2 miền Nam-Bắc nước ta sau năm 1975
- Miền Bắc trải qua hơn hai chục năm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa (1954-1975), nhưng
phải hai lần đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc
Mĩ hết sức ác liệt, chiến tranh đã tàn phá nặng nề, gây hậu quả lâu dài đối với miền Bắc, “đã làm
cho quá trình tiến lên sản xuất lớn bị chậm lại vài ba kế họach 5 năm”.
+ Chế độ mới, quan hệ sản xuất mới, lực lượng sản xuất được xây dựng và củng cố không ngừng,
tuy nhiên cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội miền Bắc còn rất nhỏ bé, năng suất lao
động thấp, đời sống nhân dân cịn nhiều khó khăn.
- Miền Nam đã hồn tồn giải phóng, bộ máy ngụy quyền tay sai ở trung ương bị sụp đổ, nhưng
cơ sở ngụy quyền tay sai ở địa phương vẫn tồn tại. Chế độ thực dân mới của Mĩ đã bị đánh đổ,
nhưng đã để lại bao di chứng xã hội như xì ke, ma túy, lưu manh, bụi đời, đĩ điếm.
+ Hơn hai chục năm là xã hội thuộc địa kiểu mới của Mĩ, miền Nam có nền kinh tế trong chừng
mực nhất định phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, nhưng vẫn mang tính chất của nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, phát triển mất cân đối, lệ thuộc nặng vào viện trợ
từ bên ngồi. Cơng nghiệp nặng nhỏ bé, cơ sở vật chất - kỹ thuật không nhiều, không đều.
3.1.2. Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định tình hình miền Nam
- Miền Bắc khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh
+ Ở miền Bắc, tuy chiến tranh đã chấm dứt sau Hiệp định Pari 1973 nhưng do sức tàn phá nặng
nề của 2 lần chiến tranh phá hoại do Mĩ gây ra nên nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi
phục kinh tế vẫn tiếp tục tiến hành. Mặc dù thời tiết thất thường, thiên tai dồn dập, miền Bắc vẫn
giành được vụ đông xuân 1975-1976 khá tốt. Nhiều cơng trình, nhà máy được xây dựng và mở
rộng thêm. Sản lượng phần lớn các sản phẩm quan trọng đạt và vượt mức trước chiến tranh. Sự
nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, nghệ thuật phát triển mạnh.
+ Đồng thời với nhiệm vụ tiếp tục khôi phục và phát triển kinh tế, hoàn thiện quan hệ sản xuất,
đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc ra sức làm tròn nghĩa vụ của căn cứ địa cách
mạng cả nước và nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và Campuchia trong giai đoạn mới. Trong những
điều kiện còn hết sức khó khăn, miền Bắc đã điều động vào miền Nam một khối lượng lớn vật


chất và nhân lực tăng cường cho các địa phương, các cơ sở sản xuất kinh tế, văn hóa, giáo dục, y
tế... góp phần vào việc tiếp quản vùng mới giải phóng, ổn định tình hình chính trị - xã hội.
- Ổn định tình hình miền Nam sau giải phóng
+ Ở miền Nam, tiếp quản vùng mới giải phóng là cơng việc được tiến hành từ rất sớm (trước
ngày 1-4-1975). Quán triệt chủ trương của Chính phủ cách mạng lâm thời, tại các vùng mới giải
phóng, các Ban tiếp quản triển khai công việc tiếp nhận các cơ sở vật chất - kĩ thuật, cơ sở kinh
tế, văn hóa, các căn cứ quân sự, các cơ sở sản xuất, các cơng trình cơng cộng của chế độ cũ khẩn
trương và kết quả thu nhận được gần như nguyên vẹn.
+ Việc thành lập chính quyền cách mạng và đồn thể quần chúng các cấp nhanh chóng được thực
hiện. Hệ thống chính quyền cách mạng từ trung ương đến các cấp cơ sở ở tỉnh, huyện, xã được
hình thành và giữ quyền kiểm sốt tồn bộ lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Mới đầu tại các thành
phố lớn, các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, chính quyền cách mạng duy trì chế độ quân
quản và thực hiện “quân sự hóa” các hoạt động xã hội. Tại các xã, thơn, chính quyền cách mạng


được thành lập dưới hình thức các Ban tự quản. Khi tình hình tương đối ổn định, các Ủy ban
nhân dân cách mạng được thành lập. Các đoàn thể quần chúng cách mạng cũng ra đời.
Chính quyền cách mạng các cấp cùng đoàn thể quần chúng đã thực hiện các biện pháp nhanh
chóng ổn định tình hình chính trị - xã hội, đồng thời với việc thực hiện nhiều biện pháp kiên
quyết, nhưng thận trọng đối với những người từng cộng tác trong chính quyền Mĩ - ngụy trước
đây: hoan nghênh những ai quay trở về với dân tộc, kêu gọi tất cả những người làm việc trong
hàng ngũ ngụy qn, ngụy quyền ra trình diện hoặc đăng kí trình diện và tạo mọi điều kiện thuận
lợi cả về pháp lí, tâm lí, dư luận xã hội để họ tự giác thực hiện.
+ Để từng bước giải quyết nạn thất nghiệp, chính quyền cách mạng tổ chức cho dân đi xây dựng
vùng kinh tế mới, chủ yếu là dân thành thị, thực hiện một loạt biện pháp nhằm khuyến khích sản
xuất, phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân. Tịch thu toàn bộ tài sản và ruộng đất của bọn
phản động và tư sản mại bản, bọn cầm đầu các tổ chức ngụy quân ngụy quyền và của những phần
tử chạy trốn ra nước ngoài. Tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, ruộng đất đem chia cho
nơng dân thiếu ruộng và cho các tập đồn sản xuất.
+ Chính quyền cách mạng quốc hữu hóa ngân hàng, giải thể tất cả các ngân hàng tư nhân, xóa bỏ

tiền ngụy, thay bằng đồng tiền cách mạng (22-9-1975), tuyên bố xóa bỏ bóc lột phong kiến, nắm
giữ, quản lí các cơ sở kinh tế lớn, giữ độc quyền đường biển, đường sắt, đường khơng, nắm tồn
bộ xuất nhập khẩu, quản lí vật tư, hàng hóa thiết yếu như xăng dầu, sắt thép, phân bón và bước
đầu quản lí lương thực.
+ Chính quyền cách mạng rất chú trọng khơi phục sản xuất nông nghiệp: phát động quần chúng
tháo gỡ bom mìn, khai hoang, phục hóa, làm thủy lợi, thâm canh, tăng vụ. Nơng dân được tổ
chức thành các tập đồn sản xuất, các tổ đổi công, vần công.
+ Các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội cũng được tiến hành khẩn trương ngay từ những
ngày đầu mới giải phóng. Đài phát thanh, vơ tuyến truyền hình, báo chí được kịp thời sử dụng
vào cơng tác thơng tin, tuyên truyền cổ động. Những biểu hiện của văn hóa phản động, đồi trụy
bị lên án và nghiêm cấm. Những tệ nạn xã hội cũ như mê tín dị đoan, cô đầu gái điếm, nghiện ma
túy bị bài trừ. Ngành giáo dục phổ thông, giáo dục và đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp
được chấn chỉnh, tổ chức lại và bước đầu phát triển. Các trường phổ thông cấp 1,2,3 trên toàn
miền Nam lần lượt mở lại. Hệ thống trường tư bị xóa bỏ chuyển thành trường cơng của Nhà
nước. Việc xóa mù chữ được chú trọng và phong trào bình dân học vụ được phát động...
- Những hoạt động trong hơn năm đầu sau khi miền Nam hoàn tồn giải phóng giành được thắng
lợi to lớn, đã đập tan sự xuyên tạc của kẻ thù, góp phần bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành
được và quyết định đến việc sớm hoàn thành thống nhất đất nước, làm tăng lịng tin của nhân dân
vào chế độ mới.
3.1.3. Hồn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước (1975-1976)
- Nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước là giành lại
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đã hoàn thành từ ngày 30-4-1975. Tuy nhiên, do đất nước
ta bị chia cắt trong thời gian dài hơn hai chục năm, ở mỗi miền tồn tại một chế độ chính trị - xã
hội khác nhau. Do đó sau khi giải phóng hồn tồn miền Nam, một trong những nguyện vọng tha
thiết trước mắt, đồng thời là tình cảm thiêng liêng nhất của nhân dân cả nước là hai miền Nam
-Bắc được xum họp trong một đại gia đình, mong muốn có một chính phủ thống nhất, một cơ
quan đại diện quyền lực chung cho nhân dân cả nước.
- Đáp lại nguyện vọng đó đồng thời cũng phù hợp với thực tế lịch sử dân tộc Hội nghị lần thứ 24
Ban chấp hành Trung ương Đảng họp 9-1975 đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước.



- Từ ngày 15 đến 21-11-1975, Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước ta họp tại Sài
Gịn. Hội nghị tiến hành thảo luận và đã đi đến nhất trí hồn tồn tất cả các vấn đề thuộc về chủ
trương, bước đi, biện pháp nhằm thống nhất đất nước về mặt Nhà nước trên cơ sở tổ chức sớm
cuộc Tổng tuyển cử trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam để bầu ra Quốc hội chung cho cả nước. Quốc
hội đó sẽ xác định thể chế nhà nước, bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và qui định Hiến
pháp mới của nước Việt Nam thống nhất.
- Ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tổ chức trong cả nước, hơn 23
triệu cử tri (chiếm 98,8% tổng số cử tri) đã đi bầu cử. 492 đại biểu đã trúng cử vào Quốc hội của
nước Việt Nam thống nhất (được gọi là Quốc hội khóa VI).
- Tại kì họp đầu tiên vào cuối tháng 6, đầu tháng 7-1976 ở Hà Nội, Quốc hội đã thông qua chính
sách đối nội và đối ngoại của nước Việt Nam thống nhất, quyết định lấy tên nước là Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 2-7-1976), Quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân
ca, Quốc huy mang dòng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hà Nội là thủ đô của nước
Việt Nam thống nhất, thành phố Sài Gòn được đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh.
+ Quốc hội bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam: Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ, Chánh án
Tịa án nhân dân tối cao... Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch nước, Trường Chinh được bầu
làm Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ.
+ Ở địa phương, Quốc hội quyết định tổ chức thành 3 cấp chính quyền: cấp tỉnh và cấp thành phố
trực thuộc Trung ương; cấp huyện và tương đương; cấp xã và tương đương. Ở mỗi cấp chính
quyền này đều có Hội đồng nhân dân được bầu theo nguyên tắc phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp,
bỏ phiếu kín, và ban chấp hành của Hội đồng nhân dân, tức Ủy ban nhân dân.
+ Quốc hội còn bầu Ủy ban dự thảo Hiến pháp, và quyết định trong khi chưa có Hiến pháp mới
thì nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và họat động trên cơ sở Hiến pháp năm
1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam chính thức được Quốc hội thơng qua ngày 18-12-1980.
Với kết quả của kì họp thứ I Quốc hội khóa VI, công việc thống nhất đất nước về mặt Nhà nước
đã hoàn thành.
- Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước là yêu cầu tất yếu, khách quan của cách mạng

Việt Nam. Kết quả giành được thể hiện lịng u nước, tinh thần đồn kết dân tộc, ý chí thống
nhất Tổ quốc, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Đã thể chế hóa
thống nhất lãnh thổ trước đó, tạo cơ sở pháp lý để thống nhất đất nước trên các lĩnh vực khác,
đồng thời đã tạo những điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
3.2. Việt Nam bước đầu đi lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc
(1976-1986)
3.2.1. Thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976-1980)
- Đại hội IV của Đảng (12-1976)
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ 14 đến 20-12-1976
đã tổng kết cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta, đề ra con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội cho cả nước. Đại hội đã thông qua nghị quyết đổi tên Đảng Lao động Việt Nam
thành Đảng Cộng sản Việt Nam, bầu Lê Duẩn giữ chức Tổng bí thư của Đảng.
+ Đại hội nêu sự tất yếu và tầm quan trọng của việc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội: “Chỉ có
chủ nghĩa xã hội mới thực hiện được ước mơ lâu đời của nhân dân lao động là vĩnh viễn thoát
khỏi cảnh bị áp bức, nghèo nàn, lạc hậu, để sống một cuộc đời no cơm, ấm áo, ngày mai được


bảo đảm, một cuộc đời văn minh, hạnh phúc... chỉ có chủ nghĩa xã hội Tổ quốc ta mới có kinh tế
hiện đại, văn hóa, khoa học tiên tiến, quốc phịng vững mạnh; do đó bảo đảm cho đất nước vĩnh
viễn độc lập, tự do và ngày càng phát triển phồn vinh”.
+ Đại hội thông qua đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kì quá độ. Đường lối mà Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra dựa
trên cơ sở kinh nghiệm cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc (1954-1975), nhất là xuất phát từ
đặc điểm tình hình đất nước và thế giới trong giai đoạn cách mạng mới.
+ Vận dụng đường lối chung và đường lối xây dựng kinh tế của Đảng trong tình hình cụ thể, Đại
hội quyết định phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần
thứ hai (1976-1980).
- Thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976-1980)
+ Khôi phục và phát triển kinh tế: đã khắc phục được những hậu quả nặng nề do chiến tranh xâm
lược và thiên tai bão lụt, úng hạn gây ra. Các cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải

bị địch bắn phá về cơ bản đã được phục hồi và bước đầu phát triển. Trong công nghiệp, nhiều nhà
máy được gấp rút xây dựng như xi măng, điện, cơ khí động lực, đường, giấy, kéo sợi. Ngành giao
thông vận tải được khôi phục và xây dựng mới, tuyến đường sắt thống nhất từ Hà Nội đi thành
phố Hồ Chí Minh sau 30 năm gián đọan đã hoạt động trở lại.
Trong nông nghiệp, nhờ tăng cường nhiều biện pháp khai hoang, thâm canh, tăng vụ mà diện
tích gieo trồng tăng thêm gần 2 triệu hécta. Diện tích trồng rừng đạt 580.000 hécta .
+ Về cải tạo quan hệ sản xuất: tiếp sau cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ bộ phận tư sản mại bản ở
miền Nam bắt đầu từ cuối 1975 đến giữa 1976 là công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công
thương nghiệp tư bản tư doanh bắt đầu từ 1978 tiến hành cùng một lúc trên qui mô toàn miền.
Phương châm là cải tạo kết hợp với xây dựng và tổ chức lại sản xuất.
+ Trong công nghiệp: đã chuyển quyền sở hữu 1.500 xí nghiệp tư bản loại lớn và vừa, sắp xếp lại
thành 650 xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh, ngành thủ công nghiệp và thương nghiệp
bước đầu được sắp xếp và tổ chức lại.
+ Trong nông nghiệp: đại bộ phận nông dân miền Nam đi vào con đường làm ăn tập thể, tham gia
vào các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp như: tổ đoàn kết, tập đoàn sản xuất, hợp tác xã.
+ Văn hóa, giáo dục, y tế: giáo dục mẫu giáo, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học và trung học
chuyên nghiệp phát triển mạnh. Tính chung số người đi học thuộc các đối tượng trong cả nước
năm học 1979-1980 là 15 triệu (bằng 1/3 số dân), tăng hơn năm học 1976-1977 là 2 triệu. Phong
trào bình dân học vụ thu hút được nhiều người tham gia.
+ Mạng lưới các bệnh viện, phòng khám chữa bệnh, trạm y tế, nhà hộ sinh, cơ sở điều dưỡng
được mở rộng. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao có nhiều tiến bộ. Văn học,
nghệ thuật, báo chí, thông tin, xuất bản đã phản ánh kịp thời nhiệm vụ chính trị, làm sáng rõ quan
điểm, đường lối của Đảng.
- Bên cạnh những thành tựu và tiến bộ, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta
cũng gặp khơng ít khó khăn và hạn chế:
+ Trên mặt trận kinh tế, đất nước đang đứng trước những vấn đề gay gắt: kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể trong sản xuất luôn bị thua lỗ, không phát huy được tác dụng; kinh tế tư nhân, kinh
tế cá thể bị ngăn cấm, không phát triển lên được. Thu nhập quốc dân vẫn chưa đảm bảo được tiêu
dùng xã hội. Nền kinh tế chưa tạo được tích lũy.
+ Lương thực, vải mặc, và các hàng tiêu dùng thiết yếu khác đều thiếu. Đời sống nhân dân lao

động còn nhiều khó khăn. Trong đời sống kinh tế, văn hóa, trong nếp sống xã hội có những biểu
hiện tiêu cực kéo dài.


- Thực trạng kinh tế - xã hội nước ta giai đoạn 1976-1980 bên cạnh yếu tố khách quan là hết sức
to lớn còn do “Khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước từ trung ương đến cơ sở
về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội”.
3.2.2. Thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981-1985)
- Đại hội V của Đảng (3-1982)
+ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ 27 đến 31-3-1982
tại Hà Nội. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng bí thư (tháng 7-1986, đồng chí từ trần,
đồng chí Trường Chinh lên thay).
+ Xuất phát từ đặc điểm tình hình trong nước và thế giới có thay đổi to lớn Đảng ta khẳng định:
“Trong giai đoạn mới của cách mạng, tồn dân, tồn qn ta đồn kết một lịng, ra sức phấn đấu
làm hai nhiệm vụ chiến lược: một là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, hai là sẵn sàng chiến
đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Hai nhiệm vụ chiến lược đó được
tiến hành đồng thời và quan hệ mật thiết với nhau. Đảng ta cũng khẳng định: “Trong khi không
một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
+ Đại hội V khẳng định tiếp tục đường lối chung và đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa
trong thời kì quá độ do Đại hội IV đề ra. Tuy nhiên, đến Đại hội V đường lối xây dựng xã hội chủ
nghĩa trong thời kì quá độ của Đảng bắt đầu có sự điều chỉnh, bổ sung, phát triển, cụ thể hóa cho
từng chặng đường, từng giai đoạn phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể.
+ Đại hội xác định thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta trải qua nhiều chặng. Chặng
đường trước mắt (chặng đường đầu) gồm 5 năm đầu (1981-1985) và những năm còn lại của thập
kỉ 80. Trong chặng đường đầu gồm 10 năm (1981-1990), cách mạng thực hiện những nhiệm vụ
tổng quát: “Tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường hơn nữa sự nhất trí về chính trị và
tinh thần của nhân dân, giảm bớt và khắc phục khó khăn, ổn định và cải thiện đời sống của nhân
dân, chặn đứng và loại trừ các biểu hiện tiêu cực... đồng thời chuẩn bị cho những bước tiến vững
chắc và mạnh mẽ hơn trong chặng đường tiếp theo”.

- Thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch 5 năm (1981-1985) do Đại hội V của
Đảng đề ra, nhân dân ta đạt được những thành tựu và tiến bộ quan trọng:
+ Trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp: đã chặn được đà giảm sút của những năm 19761980
Lương thực
Công nghiêp
Thu nhập quốc dân

1976 - 1980
13,4 triệu tấn
Tăng 0,6%
Tăng 0,4%

1981 - 1985
17 triệu tấn
9,5%
Tăng 6,4%

+ Về xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật: trong 5 năm đã hồn thành mấy trăm cơng trình tương
đối lớn và hàng nghìn cơng trình vừa và nhỏ, trong đó có những cơ sở quan trọng về điện, dầu
khí, xi măng, cơ khí, dệt, đường, thủy lợi, giao thơng. Các cơng trình thủy điện Hịa Bình, Trị An
đang được xây dựng, chuẩn bị đưa vào hoạt động trong những năm tới.
+ Trong cải tạo quan hệ sản xuất: đại bộ phận nông dân Nam Bộ đi vào con đường làm ăn tập
thể, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên có tiến bộ trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Cùng
với việc áp dụng những thành tựu về khoa học - kĩ thuật, việc thực hiện rộng rãi phương thức


khốn sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động, tuy chưa hồn thiện và cịn nhiều thiếu
sót, nhưng đã góp phần quan trọng tạo nên một bước phát triển sản xuất nông nghiệp, mở ra
phương hướng đúng đắn cho việc củng cố quan hệ kinh tế ở nông thôn.
+ Các ngành kinh tế quốc dân đã thu hút thêm 4 triệu lao động. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế,

thể dục thể thao, văn học, nghệ thuật phát triển và có những đóng góp nhất định vào việc xây
dựng nền văn hóa mới, con người mới.
- Khó khăn yếu kém:
+ Trước hết là những khó khăn trên lĩnh vực kinh tế, xã hội: những khó khăn, yếu kém của thời
kỳ trước không được hạn chế, khắc phục, thậm chí có mặt trầm trọng thêm. Hiệu quả sản xuất và
đầu tư thấp, năng suất lao động giảm, chất lượng sản phẩm thấp kém.
+ Tài nguyên của đất nước chưa được khai thác tốt lại bị sử dụng lãng phí, nhất là đất nơng
nghiệp và tài ngun rừng, mơi trường sinh thái bị phá hoại. Lưu thông không thông suốt, phân
phối rối ren, vật giá tăng nhanh tác động tiêu cực đến sản xuất, đời sống và xã hội.
+ Đời sống của nhân dân, nhất là công nhân viên chức cịn nhiều khó khăn. Nhiều nhu cầu chính
đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và tinh thần chưa được đảm bảo. Hiện tượng tiêu
cực trong xã hội phát triển. Pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Những hành vi lộng quyền, tham
nhũng của một số cán bộ và nhân viên Nhà nước, những hoạt động của bọn làm ăn phi pháp chưa
bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời.
3.2.3. Đấu tranh bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc (1975 - 1979)
- Cuộc chiến đấu chống Pơn Pốt - Iêngxary ở biên giới phía Tây Nam (12-1978)
+ Là một dân tộc chịu nhiều đau thương mất mát trong chiến tranh, khi đất nước được độc lập tự
do, nhân dân ta mong muốn được sống trong hòa bình để xây dựng đất nước, được chung sống
hịa bình với các dân tộc, nhưng thực tế lại không như vậy.
Sẵn có âm mưu từ trước, tập đồn phản động Pôn Pốt - Iêng xa ry - Khiêu Xam Phon, đại diện
cho phái “Khơ me đỏ” lên nắm quyền ở Campuchia sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ
đã quay súng bắn lại nhân dân ta. Chúng cho rằng một nước Việt Nam thống nhất và hùng mạnh
sẽ là cản trở cho chúng thực hiện những toan tính chính trị ở trong nước. Một mặt chúng cho
quân khiêu khích dọc biên giới Việt Nam - Campuchia, mặt khác thực hiện chế độ chính trị tàn
bạo ở trong nước (chế độ diệt chủng).
+ Ngày 3-5-1975, Pôn Pốt cho quân đánh chiếm đảo Phú Quốc. Ngày 10-5-1975, tiếp tục cho
quân đánh chiểm đảo Thổ Chu. Trong những ngày tiếp xâm phạm nhiều vùng lãnh thổ nước ta từ
Hà Tiên đến Tây Ninh.
+ Từ tháng 4-1977, Pôn Pốt càng tăng cường các hành động lấn chiếm nước ta, chúng mở rộng
dần thành cuộc chiến tranh quy mơ lớn trên tồn tuyến biên giới Tây - Nam Việt Nam, quân dân

ta buộc phải đánh lại chúng để tự vệ.
+ Giữa năm 1977, Pôn Pốt huy động lực lượng hàng sư đồn tiến cơng vào nhiều xã biên giới
thuộc tỉnh An Giang, chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Năm 1978, với
thiện chí hịa bình, mong muốn chấm dứt xung đột bằng thương lượng, Đảng và Nhà nước ta đã
chủ động đưa ra đề nghị đầy thiện chí nhằm chấm dứt các hành động quân sự thù địch dọc biên
giới.
+ Ngày 22-12-1978, Pơn Pốt huy động 19/23 sư đồn bộ binh cùng nhiều đơn vị pháo binh, xe
tăng, tiến vào khu vực Bến Sỏi thuộc tỉnh Tây Ninh, bắt đầu cuộc tấn công lớn đánh chiếm thị xã
Tây Ninh. Thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình, qn ta với một lực lượng lớn, với các
binh khí kỹ thuật hiện đại đã tổ chức cuộc phản công và tiến cơng mạnh, tiêu diệt tồn bộ cánh


quân xâm lược vừa tiến công vào nước ta. Tiếp đó phát triển cuộc tấn cơng tiêu diệt và làm tan rã
đại bộ phận quân chủ lực của địch tại địa bàn chúng xuất phát hành quân gây tội ác.
+ Chiến thắng biên giới phía Tây Nam của nhân dân ta đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho
cách mạng Campuchia giành thắng lợi. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận đoàn kết cứu nước, nhân
dân Campuchia đã đồng loạt nổi dậy đập tan chính quyền phản động Pơn Pốt từ trung ương đến
cơ sở. Ngày 7-1-1979, thủ đô Phnơm Pênh được giải phóng, nước Cộng hịa nhân dân Campuchia
và Hội đồng cách mạng Campuchia tuyên bố thành lập.
- Chiến đấu chống bọn phản động Trung Quốc ở biên giới phía Bắc (2-1979)
+ Từ lâu, một số người lãnh đạo trong giới cầm quyền Bắc Kinh theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi,
muốn bành trướng thế lực. Việc một nước Việt Nam hùng mạnh, thống nhất ở phương Nam là
một trở ngại đối với tham vọng của Trung Quốc. Vì vậy, hành động chống Việt Nam của Pơn Pốt
Iêngxary được Mĩ và một số nước khác ủng hộ, cổ vũ. Trung Quốc cịn có những hành động làm
tổn hại đến tình cảm của nhân dân hai nước, cho quân khiêu khích dọc biên giới, rút chun gia
nhằm gây khó khăn cho Việt Nam. Thậm chí, dựng nên sự kiện “nạn kiều” để cắt viện trợ, kêu
gọi người Hoa đang làm ăn sinh sống ở Việt Nam về với “Tổ quốc vĩ đại”.
+ Ngày 17-2-1979, Trung Quốc cho một lực lượng lớn gồm 60 vạn quân (32 sư đoàn) cùng các
phương tiện chiến tranh hiện đại mở cuộc tấn công dọc biên giới phía Bắc Việt Nam từ Móng Cái
(Quảng Ninh), đến Phong Thổ (Lai Châu) trên tuyến biên giới dài hơn 1.000 km.

+ Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, quân và dân ta, trực tiếp là quân dân 6 tỉnh biên giới phía
Bắc đã đứng lên chiến đấu. Trước cuộc chiến đấu ngoan cường vì độc lập tự do của quân dân ta,
trước sự phản đối chiến tranh xâm lược của Trung Quốc lan nhanh trên toàn thế giới. Trung Quốc
phải tuyên bố rút quân (từ 5-3 đến 18-3 thì rút hết).
+ Chiến thắng biên giới phía Tây Nam và phía Bắc đã bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, bảo vệ
nền độc lập tự do của dân tộc. Một lần nữa, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam lại chiến
thắng những toan tính hẹp hòi và hành động ăn cướp của các thế lực phản động quốc tế.
3.3. Việt Nam đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-nay)
3.3.1. Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Trong hơn một thập kỷ thực hiện 2 kế hoạch nhà nước 5 năm, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đã đạt được những thành tựu và ưu điểm đáng kể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Song cách mạng cũng gặp khơng ít khó khăn, đất nước lâm vào khủng hoảng, trước hết là khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Để khắc phục sai lầm khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng
và đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên, Đảng và Nhà nước ta tiến hành đổi mới.
Đường lối đổi mới của Đảng được đề ra đầu tiên tại Đại hội VI (12-1986), được điều chỉnh, bổ
sung và phát triển tại Đại hội VII (6-1991), Đại hội VIII (6-1996), Đại hội IX (4-2001), Đại hội X
(4-2006)
- Đổi mới đất nước trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, không phải là thay đổi mục tiêu chủ
nghĩa xã hội mà làm cho các mục tiêu đó được thực hiệu có hiệu quả, bằng những quan điểm
đúng đắn về chủ nghĩa xã hội. Đổi mới phải tồn diện, đồng bộ từ kinh tế, chính trị, đến tư tưởng,
văn hóa. Đổi mới kinh tế khơng thể khơng đi đơi với đổi mới chính trị, nhưng trọng tâm là đổi
mới kinh tế. Đổi mới chính trị phải tích cực nhưng vững chắc, tuyệt đối khơng gây mất ổn định
về chính trị, khơng làm phương hại đến tồn bộ công cuộc đổi mới.
+ Quan điểm đổi mới kinh tế: Phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm đổi mới ở Việt
Nam là quá trình giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng, động viên và tạo điều kiện


cho mọi người Việt Nam phát huy ý thức tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước.
+ Đổi mới về chính trị: Tăng cường khối đồn kết đại dân tộc, mở rộng mặt trận dân tộc thống

nhất, phát huy sức mạnh của cả cộng đồng. Nêu cao truyền thống yêu nước và lòng tự hào của
dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất và tiến lên xây dựng dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những
điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới hệ
thống chính trị nước ta. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp
luật và được pháp luật bảo đảm.
+ Về khoa học, giáo dục, văn hóa: Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Khoa học công nghệ hướng vào việc nâng cao năng
suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường.
Thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, đãi ngộ đặc biệt đối với các nhà khoa học có cơng
trình xuất sắc.
Giáo dục và đào tạo (cùng với khoa học và công nghệ) phải thực sự trở thành quốc sách hàng
đầu. Bằng nhiều hình thức đa dạng bảo đảm cho mọi người được học. Cải tiến chất lượng dạy và
học, khắc phục những tiêu cực, yếu kém trong ngành giáo dục, tăng cường giáo dục công dân,
giáo dục thế giới quan khoa học, lịng u nước, ý chí vươn lên vì tương lai bản thân và tiền đồ
của đất nước. Thực hiện “giáo dục cho mọi người”, cả nước trở thành một xã hội học tập.
Các hoạt động văn hóa có vị trí quan trọng trong việc hình thành nhân cách, làm phong phú đời
sống tinh thần nhân dân. Tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới phải đi đôi với việc coi trọng những
giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc. Hướng mọi hoạt động văn hóa vào việc xây dựng
con người Việt Nam phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, có năng
lực sáng tạo, ý thức cộng đồng, lịng nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, sống có văn hóa,
quan hệ hài hịa trong gia đình cộng đồng và xã hội, biết tổ chức cuộc sống trong mọi hoàn cảnh.
+ Về quan hệ đối ngoại: Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở đa phương hóa,
đa dạng hóa với tinh thần “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế”. Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ
chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của
nhau, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
3.3.2. Thành tựu và hạn chế của 20 năm đổi mới (1986 - nay)
- Thực hiện kế hoạch 5 năm (1986-1990)

+ Về lương thực thực phẩm: từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập khẩu hơn 45 vạn
tấn lương thực, đến năm 1990 đã vươn lên đáp ứng nhu cầu lương thực trong nước, có dự trữ và
có xuất khẩu. Năm 1988 là 19,5 triệu tấn, năm 1989 là 21,4 triệu tấn.
+ Sau một số năm đổi mới, hàng hóa trên thị trường, nhất là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng, và
lưu thông thuận lợi. Hàng trong nước tiến bộ về chủng loại và mẫu mã. Các cơ sở sản xuất gắn
chặt với thị trường, phần bao cấp của nhà nước về vốn, giá, vật tư, tiền lương giảm đáng kể.
+ Kinh tế đối ngoại phát triển mạnh, mở rộng hơn trước về quy mơ, hình thức góp phần quan
trọng vào việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội. Từ năm 1986-1990 hàng xuất khẩu tăng 3 lần.
+ Một thành tựu quan trọng nữa là đã kìm chế được một bước lạm phát:


Chỉ số giá tăng bình quân hàng tháng trên thị trường
1986
20%

1987
10%

1988
14%

1989
2,5%

1990
4,4%

+ Bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước. Chính sách này được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và nhanh chóng
đi vào cuộc sống.

+ Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy. Quốc phòng được giữ vững, an ninh
quốc gia được bảo đảm. Từng bước phá thế bao vây về kinh tế và chính trị của các thế lực thù
địch, mở rộng quan hệ quốc tế.
Hạn chế:
+ Đất nước ta chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cơng cuộc đổi mới cịn nhiều hạn chế,
nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng vẫn chưa được giải quyết, nền kinh tế còn mất cân đối
lớn, lạm phát ở mức cao, lao động thiếu việc làm, nhiều cơ sở sản xuất đình đốn kéo dài. Chế độ
tiền lương bất hợp lí, đời sống của những người sống bằng lương hoặc trợ cấp xã hội và một bộ
phận nông dân giảm sút. Tốc độ tăng dân số cịn cao. Tình trạng tham nhũng, ăn hối lộ, mất dân
chủ, bất công xã hội, vi phạm pháp luật, kỉ cương và nhiều hiện tượng tiêu cực khác còn nặng nề
và phổ biến. Sự nghiệp văn hóa - giáo dục có những mặt tiếp tục xuống cấp.
- Tiến bộ và hạn chế trong 5 năm 1991-1995
+ Nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước đạt 8,2% (kế hoạch là từ 5,5
đến 6,5%). Công nghiệp tăng bình quân hàng năm 13,3% (kế hoạch là từ 7,5 đến 8,5%). Nơng
nghiệp tăng bình qn hàng năm 4,5% (kế hoạch là 3,7 đến 4,5%), sản lượng lương thực trong 5
năm tăng 26%, kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản năm 1995 tăng 3 lần so với năm 1990.
+ Thị trường hàng hóa trong nước phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội về số
lượng, chất lượng, chủng loại.
+ Tài chính, tiền tệ đều tiến bộ đáng kể, nổi bật nhất là chặn được nạn lạm phát cao, từng bước
đẩy lùi lạm phát.
+ Năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp và dịch vụ tăng.
Đưa vào hoạt động một số cơng trình quan trọng của nền kinh tế như điện, dầu khí, xi măng, sắt
thép và các cơ sở dịch vụ du lịch.
+ Quan hệ sản xuất được củng cố và điều chỉnh phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tiếp tục được xây dựng. Cơ cấu kinh tế theo ngành và
vùng đã bắt đầu chuyển dịch theo hướng cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa. Các ngành dịch vụ phát
triển đa dạng.
+ Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngồi trong 5 năm tăng nhanh, bình qn là 50%, đến cuối năm
1995 số vốn đăng ký các dự án đầu tư trực tiếp là 19 tỷ đô la, trong đó 1/3 đã được thực hiện.
+ Khoa học và cơng nghệ có bước phát triển mới, văn hóa và xã hội có những chuyển biến tích

cực. Hoạt động khoa học - cơng nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thích
nghi dần với cơ chế thị trường.
+ Công tác giáo dục - đào tạo có bước phát triển mới sau một số năm giảm sút. Tỷ lệ người biết
chữ trong nhân dân tăng (đạt 90%), hình thức trường chuyên, lớp chọn phát triển ở nhiều địa
phương. Nhiều trường bán công và dân lập ra đời và hoạt động bước đầu có hiệu quả.


+ Cơng tác dân số và kế hoạch hóa gia đình phát triển sâu rộng và đạt được một số kết quả. Tỷ lệ
sinh mỗi năm giảm một phần nghìn.
+ Thu nhập và đời sống của các tầng lớp nhân dân ở các vùng đều được cải thiện ở những mức
độ khác nhau. Số hộ thu nhập trung bình, số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm đi. Nhiều địa
phương đã thanh tốn được nạn đói. Mỗi năm giải quyết được hơn 1 triệu lao động có việc làm.
+ Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của cơ chế không hợp lý, phát huy được quyền
làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong việc tìm việc làm, tăng thu nhập, tham
gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội. Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của
đất nước, vào Đảng và Nhà nước tăng lên.
+ Tình hình chính trị - xã hội được giữ vững, quốc phòng và an ninh được củng cố, tạo điều kiện
thuận lợi cho công cuộc đổi mới.
- Hạn chế: nước ta vẫn là một trong nhưng nước nghèo nhất thế giới, lực lượng sản xuất còn nhỏ
bé, cơ sở vật chất kỹ thuật, nhất là kết cấu hạ tầng cịn lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ
chuyển biến chậm, hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, chất
lượng cơng trình thấp. Nhiều hàng hóa kém sức cạnh tranh với hàng nước ngoài.
+ Ngân sách Nhà nước thường xuyên căng thẳng, còn bội chi lớn. Hệ thống thuế phức tạp, chồng
chéo, chưa hợp lý, có nhiều kẽ hở dễ bị lợi dụng. Tài sản quốc gia, tài chính cơng và tài chính
doanh nghiệp nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ.
+ Chất lượng giáo dục đào tạo thấp, công tác giáo dục vùng sâu, vùng xa cịn nhiều khó khăn. Hệ
thống khám chưa bệnh phần lớn bị xuống cấp cả về cơ sở vật chất kỹ thuật, tinh thần thái độ phục
vụ. Người nghèo không đủ tiền chữa bệnh và cho con em đi học. Tình trạng ô nhiễm môi trường
sinh thái, hủy hoại tài nguyên ngày càng tăng. Số người nhiễm HIV ngày càng tăng. Trật tự an
tồn xã hội cịn nhiều diễn biến phức tạp.

- Thành tựu và khó khăn trong 5 năm 1996-2000
Thành tựu:
Mặc dù cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính từ giữa năm 1997-1999 của khu vực và thiên tai
liên tiếp, hầu hết các mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm đều đạt và vượt mức đề ra. Nền kinh
tế vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực:
+ Duy trì được nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) là 7%/năm.
1989
3,7

1995
9,5

1996
9,3

1997
9,0

1998
6,0

1999
4,8

2000
7,0

+ Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp phát triển liên tục (tăng 5,7%), góp phần quan trọng vào
mức tăng trưởng chung và giữ vững ổn định kinh tế xã hội. Nông nghiệp tăng 5,6%, hàng năm
lương thực tăng 1,6 triệu tấn. Bình quân lương thực tăng từ 360 kg (1995) lên 444 kg (2000). Sản

lượng thịt lợn hơi tăng 1,4 lần so với 1995. Nghề nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản phát triển khá.
Sản lượng thủy sản năm 2000 xuất khẩu đạt 1.475 triệu USD. Công tác trồng rừng, chăm sóc, bảo
vệ rừng có tiến bộ.
+ Cơng nghiệp và xây dựng vượt qua những khó khăn, thách thức đạt được nhiều tiến bộ: cơng
nghiệp tăng bình quân 13,5%/năm, xuất khẩu (công nghiệp và thủ công nghiệp) đạt 10 tỷ USD,
gấp hơn 3,4 lần năm 1995. Một số khu công nghiệp, khu chế xuất với công nghệ hiện đại ra đời.
Ngành xây dựng tiếp nhận công nghệ xây dựng mới, đảm nhận thi cơng nhiều cơng trình phức


tạp, có quy mơ lớn và hiện đại, một số vật liệu chất lượng cao được sản xuất trong nước đạt tiêu
chuẩn châu Âu và khu vực (gạch lát nền, ốp lát).
+ Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển trong điều kiện khó khăn hơn trước, giá trị các ngành dịch
vụ tăng 6,8%/năm. Du lịch phát triển đa dạng, phong phú, chất lượng dịch vụ được tăng lên. Dịch
vụ bưu chính - viễn thơng có bước phát triển và hiện đại hóa nhanh (bình qn 4 máy/100dân).
+ Cơ cấu kinh tế đã có bước dịch chuyển tích cực: tỷ trọng nông, lâm, ngư giảm từ 27,2 xuống
24,3%, công nghiệp và xây dựng tăng từ 28,7 lên 36,6%, dịch vụ từ 44,1 xuống 39,1%.
- Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển:
+ Kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm đạt 51,6 tỷ USD (gấp 1,5 lần kế hoạch trước, tăng 21%). Thị
trường xuất nhập khẩu được củng cố và được mở rộng sang EU, châu Mĩ, Trung Đông...
+ Tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đưa vào thực hiện đạt khoảng 10 tỷ USD tăng
1,5 lần so với kế hoạch trước. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã đầu tư ra nước ngồi (có 40
dự án đầu tư vào 12 nước và vùng lãnh thổ).
- Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mơ, chất lượng, hình thức đào
tạo và cơ sở vật chất:
+ Quy mô giáo dục và đào tạo tiếp tục tăng ở tất cả các bậc học, ngành học. Năm học 1999-2000
đào tạo đại học tăng gấp 3 lần, đào tạo nghề gấp 1,8 lần. Sinh viên cao đẳng và đại học là
900.000 trên 77 triệu dân, cả nước có hơn 100 trường đại học, có 9.000 tiến sĩ và phó tiến sĩ. Đến
năm 2000, 100% tỉnh thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ. Phong
trào học tập văn hóa khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý, ngoại ngữ phát triển nhanh.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường học được nâng cấp, cải thiện. Mạng lưới các trường đại học,

cao đẳng được sắp xếp lại, hệ thống đào tạo nghề phát triển rộng khắp. Chất lượng giáo dục và
đào tạo có chuyển biến bước đầu. Việc xã hội hóa lĩnh vực này bước đầu được triển khai.
- Khoa học và cơng nghệ có bước chuyển biến tích cực:
+ Khoa học xã hội và nhân văn đã bước đầu cung cấp được những luận cứ khoa học phục vụ phát
triển kinh tế và đổi mới cơ chế chính sách. Khoa học tự nhiên và công nghệ tập trung nghiên cứu
những những đề tài cấp nhà nước, tỉnh, thành phố. Nhiều kết quả đã được ứng dụng trong sản
xuất kinh doanh. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các viện nghiên cứu được tăng cường một bước. Đội
ngũ cán bộ khoa học và công nghệ được chú trọng đào tạo chun sâu nhằm nâng cao trình độ
chun mơn có khả năng làm chủ một số công nghệ hiện đại.
- Các lĩnh vực văn hóa xã hội đã có bước phát triển khá:
+ Giải quyết có kết quả vấn đề việc làm cho người lao động. Trong 5 năm đã có thêm 6,1 triệu
lao động được thu hút vào làm việc trong các ngành kinh tế, xã hội. Công tác xóa đói giảm nghèo
đã được triển khai mạnh mẽ ở hầu hết các tỉnh.
+ Cơng tác văn hóa thơng tin có nhiều đóng góp tích cực trong việc động viên nhân dân tham gia
xây dựng kinh tế, tuyên truyền đường lối chính sách, đấu tranh chống tiêu cực... Đến năm 2000,
sóng truyền hình đã phủ trên 85% diện tích cả nước, sóng phát thanh là 95%, truyền hình và phát
thanh Việt Nam đã phủ sóng nhiều nơi trên thế giới.
+ Cơng tác dân số, kế hoạch hóa gia đình và bảo vệ chăm sóc trẻ em đạt được những kết quả tích
cực: tỷ lệ tăng dân số năm 1995 là 1,7% thì đến năm 2000 là 1,4%.
+ Các hoạt động về xã hội, chăm sóc người có cơng, đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn...
được mở rộng, thu hút sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân. Phong trào thể dục thể
thao phát triển triển rộng rãi ở các địa phương, trường học, lực lượng vũ trang, doanh nghiệp...
- Quốc phịng an ninh được giữ vững.
Khó khăn, tồn tại


- Tình hình kinh tế - xã hội cịn vẫn cịn nhiều mặt khó khăn yếu kém. Chất lượng và hiệu quả
phát triển kinh tế cịn thấp.
+ Trong nơng nghiệp: kỹ thuật và phương thức canh tác tiên tiến chậm đưa vào thực hiện trên
diện rộng. Chưa chú trọng đầu tư phát triển công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến, chậm

mở rộng các ngành nghề và thị trường ở nông thôn.
+ Một số ngành công nghiệp sản xuất cịn khó khăn, đổi mới cơng nghệ chậm. Một bộ phận
khơng ít doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thiếu năng động.
- Cơ chế chính sách về thị trường tài chính, tiền tệ chưa đồng bộ.
- Công tác giáo dục và đào tạo, khoa học và cơng nghệ cịn nhiều bất cập. Chất lượng, hiệu quả
của giáo dục tuy đã có những chuyển biến nhưng còn thấp so với yêu cầu. Việc giáo dục đạo đức
trong nhà trường chưa được quan tâm đúng mức, các hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục
còn nhiều nhưng chậm khắc phục.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo mới ở mức 20% (các nước là 50%).
- Nhiều vấn đề xã hội và môi trường đặt ra rất bức xúc: tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị còn ở mức
6,4%, tỷ lệ thời gian lao động ở nông thôn chỉ đạt 73,8%, đời sống của nhân dân vùng sâu, vùng
xa cịn khó khăn. Cơ sở vật chất của ngành y tế có được cải thiện nhưng vẫn cịn nhiều khó khăn,
nhất là ở tuyến huyện, xã.
- Các tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, nhất là nạn ma túy tiếp tục tăng và lan rộng đang là vấn
đề nhức nhối, ảnh hưởng lớn đến trật tự an tồn xã hội. Cuộc đấu tranh chống các thói hư tật xấu,
hủ tục mê tín dị đoan, thối hóa đạo đức... cịn mang nhiều tính hình thức, chậm đưa lại hiệu quả.
- Thành tựu trong 5 năm 2001-2005
+ Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương
đối toàn diện:
Tổng sản phẩm trong nước năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm đạt 7,51%, năm
2005 GDP đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng (khoảng 640 USD).
TỐC ĐỘ TĂNG GDP
2001
6,9%

2002
7,08%

2003
7,34%


2004
7,8%

2005
8,43%

Nông nghiệp tiếp tục phát triển khá, giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,4%
một số sản phẩm xuất khẩu chiếm được vị trí cao trên thị trường thế giới (năm 2005, Việt Nam
đứng thứ hai về xuất khẩu gạo, cà phê, hạt điều; thứ tư về cao su; thứ nhất về hạt tiêu).
Công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng cao: Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16%/năm
(kế hoạch là 13,1%). Cả nước có trên 100 khu cơng nghiệp, khu chế xuất, nhiều khu hoạt động có
hiệu quả.
Dịch vụ có bước phát triển cả về quy mơ, ngành nghề, thị trường và có tiến bộ về hiệu quả với
sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ tăng 7,6%/năm.
Ngành du lịch phát triển khá cả về lượng khách, loại hình và sản phẩm du lịch. Dịch vụ vận tải
tăng nhanh. Bưu chính viễn thơng phát triển nhanh theo hướng hiện đại. Đến cuối năm 2005 đạt
19 máy điện thoại và 3,2 thuê bao Internet trên 100 dân. 100% xã có điện thoại.
+ Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa


Về cơ cấu ngành: đến năm 2005 tỷ trọng giá trị nơng nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp trong
GDP cịn 20,9%, công nghiệp và xây dựng 41%, dịch vụ 38,1%.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu. Hệ thống luật
pháp, cơ chế, chính sách vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây
dựng tương đối đồng bộ. Một số thị trường mới hình thành, các thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao
động, khoa học và cơng nghệ, tài chính, bất động sản có bước phát triển phù hợp với cơ chế mới.
Hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới rất quan trọng: Quan hệ kinh tế
giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế được mở rộng, việc thực hiện cam kết về Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, đàm phán gia

nhập tổ chức thương mại thế giới WTO và thực hiện các hiệp định hợp tác đa phương, song
phương đã góp phần tạo ra bước phát triển rất quan trọng về kinh tế đối ngoại, nhất là xuất khẩu.
Xuất khẩu, nhập khẩu tăng nhanh: trong 5 năm đạt gần 111 tỷ USD tăng 17,5%, thị trường xuất
khẩu được mở rộng sang một số nước và khu vực, nhất là Hoa Kỳ. Nhập khẩu hàng hóa trong 5
năm tuy cịn ở mức cao nhưng có xu hướng giảm dần.
+ Giáo dục và đào tạo có bước phát triển khá
31 tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ học sinh đi học ở bậc tiểu học đạt 97,5%.
Số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 15,1%/năm, dạy nghề dài hạn tăng 12%, sinh viên đại
học và cao đẳng tăng 8,4%.
Đầu tư cho giáo dục đào tạo tăng lên đáng kể, năm 2005 chi khoảng 18% tổng chi ngân sách
nhà nước. Đã huy động nhiều nguồn vốn khác nhau để phát triển giáo dục. Cơ sở vật chất của
ngành được tăng cường.
+ Khoa học và cơng nghệ có tiến bộ
Khoa học và cơng nghệ đã tập trung hơn vào nghiên cứu ứng dụng, phục vụ các yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội, nhiều thành tựu được ứng dụng trong xây dựng, công nghiệp, nơng nghiệp.
Khoa học nhân văn đã có tiến bộ trong việc điều tra, nghiên cứu cung cấp tư liệu và luận cứ khoa
học phục vụ hoạch định chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội và phát huy các giá trị
văn hóa dân tộc. Khoa học tự nhiên đã tăng cường các hoạt động điều tra, nghiên cứu, đánh giá
tiềm năng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và phịng tránh thiên tai.
+ Văn hóa xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với giải quyết các
vấn đề xã hội có chuyển biến tích cực, chỉ số phát triển con người được nâng lên.
Đã tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước thu hút gần 91%
lực lượng lao động xã hội và tạo 90% việc làm mới. Xuất khẩu lao động và chuyên gia tăng 2,3
lần so với 5 năm trước. Năm 2005 thất nghiệp ở thành thị giảm xuống cịn 5,3%, thời gian sử
dụng lao động ở nơng thơn đạt 80,6%.
Thu nhập bình qn đầu người tăng 12,1%. Chỉ số phát triển con người nâng lên, theo báo cáo
của LHQ năm 2005 Việt Nam xếp thứ 108/177 nước.
Công tác xóa đói giảm nghèo được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức như tạo việc làm, nhà ở, tạo
cơ hội cho người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Năm 2005 tỷ lệ hộ nghèo còn 7%.
Cơng tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được chú trọng. Một số bệnh mới như

viêm phổi cấp (SARS) được ngăn chặn. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và phát triển (65%
trạm xá cấp xã có bác sĩ). Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 25%. Tuổi thọ bình
quân của dân số nước ta tăng lên 71,5 tuổi năm 2005.
Hoạt động văn hóa thơng tin phát triển da dạng hơn, góp phần nâng cao đời sống văn hóa của
nhân dân. Hoạt động thể dục thể thao tiếp tục phát triển theo chiều rộng và có bước nâng cao. Cơ


sở vật chất được tăng cường đáng kể. Đã tổ chức thành công Đại hội thể thao Đông Nam Á lần
thứ 22 và Đại hội thể thao người khuyết tật Đơng Nam Á lần thứ hai.
Cơng tác phịng chống tệ nạn xã hội được đẩy mạnh. Nhiều địa phương đã có những giải pháp
tốt phịng chống ma túy, tệ nạn mại dâm và ngăn chặn các hoạt động văn hóa khơng lành mạnh.
+ Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại được mở
rộng, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
+ Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân được phát huy.
Quốc hội có những đổi mới quan trọng trong công tác lập pháp, tiếp tục sửa đổi, bổ sung hiến
pháp và hệ thống pháp luật, cải tiến quy trình xây dựng luật, đã thơng qua 58 luật và 43 pháp lệnh
mới tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của nhà nước, vận hành nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.
Khuyết điểm, yếu kém
- Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế còn kém.
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 5 năm vẫn thấp hơn so với khả năng và thấp hơn nhiều nước
trong khu vực ở thời kỳ đầu cơng nghiệp hóa. Quy mơ nền kinh tế cịn nhỏ, thu nhập bình qn
đầu người thấp. Theo số liệu của ngân hàng thế giới
GDP
Đầu người

Trung Quốc
1.677tỷ

1.290

Malaixia
Philipin
117tỷ
97tỷ
4.650
1.170
(Đơn vị tính là USD)

Thái Lan
159tỷ
1.540

Việt Nam
45tỷ
562

- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cịn nhiều hạn chế, các cân đối vĩ mơ
chưa thật vững chắc.
- Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại còn nhiều hạn chế.
- Chất lượng giáo dục đào tạo còn thấp, nhiều vấn đề hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục
+ Chất lượng giáo dục còn nhiều yếu kém, khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh, sinh viên ít
được bồi dưỡng, năng lực thực hành còn yếu.
+ Phát triển giáo dục đào tạo đại học chưa cân đối với giáo dục trung học phổ thơng. Đào tạo
nghề cịn thiếu và cịn yếu. Việc xã hội hóa giáo dục thực hiện chậm, thiếu đồng bộ. Công tác
quản lý giáo dục đào tạo chậm đổi mới và còn nhiều bất cập, những biểu hiện tiêu cực như bệnh
thành tích, thiếu trung thực trong đánh giá kết quả giáo dục, trong học tập, tuyển sinh, thi cử cấp

bằng và tình trạng học thêm, dạy thêm tràn lan kéo dài, chậm được khắc phục.
- Khoa học và công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
+ Việc chuyển giao cơng nghệ cịn chậm. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật cịn hạn chế về trình
độ, bất hợp lý về cơ cấu, thiếu cán bộ đầu ngành và các tập thể khoa học cơng nghệ mạnh. Quyền
sở hữu trí tuệ chưa được coi trọng đúng mức và còn bị xâm phạm.
- Lĩnh vực văn hóa cịn nhiều vấn đề bức xúc chậm được giải quyết
+ Việc xây dựng nếp sống văn hóa chưa được coi trọng đúng mức. Tình trạng suy thoái, xuống
cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ.
Quản lý nhà nước về văn hóa cịn nhiều sơ hở, yếu kém.


+ Thành tựu xóa đói giảm nghèo chưa thật vững chắc. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới cịn cao.
Cơng tác bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân cịn nhiều bất cập. Một số tệ nạn xã hội chưa được
ngăn chặn có hiệu quả. Cuộc đấu tranh chống các thói hư tật xấu thiếu biện pháp đồng bộ, tệ nạn
ma túy, mại dâm còn diễn biến phức tạp. Tội phạm có tổ chức mà tội phạm ma túy có chiều
hướng gia tăng.
+ Việc bảo đảm trật tự an toàn giao thông chưa tốt, thiếu đồng bộ, tai nạn giao thơng vẫn cịn
nghiêm trọng, ý thức chấp hành luật giao thông trong xã hội rất kém.
- Bộ máy nhà nước chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế, xã hội
+ Những yếu kém của bộ máy quản lý nhà nước và công tác cán bộ chậm được khắc phục. Cải
cách hành chính chưa đạt yêu cầu, chưa gắn với xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
+ Năng lực và phẩm chất của nhiều cán bộ, cơng chức cịn yếu, một bộ phận khơng nhỏ thối
hóa, biến chất. Dân chủ ở nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm. Quan liêu
tham nhũng, lãng phí cịn nghiêm trọng, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, cửa quyền thiếu trách
nhiệm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức nhất là các cơ quan giải quyết
công việc cho dân và doanh nghiệp. Bộ máy chính quyền cơ sở ở nhiều nơi yếu kém.
Đà Nẵng hè năm 2009
Biên soạn

Nguyễn Mạnh Hồng



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Lao động Việt Nam : Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương
Đảng về “Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới” NXB Sự thật
HN.1975.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam : Báo cáo chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV .NXB Sự thật HN.1977.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V. NXB Sự thật
HN.1982.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. NXB Sự thật
HN.1987.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VII NXB Sự thật
HN.1991.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam : Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. NXB Sự thật. HN.1991.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam : Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm
2000. NXB Sự thật. HN.1991
8. Một số văn kiện của Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VII. Vụ cơng tác chính trị và học
sinh - Bộ giáo dục và Đào tạo. HN.1991.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII. NXB Chính
trị Quốc gia. HN.1996.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB Chính
trị Quốc gia. HN.2001.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị
Quốc gia. HN. 2006.
12. Các Đại hội đại biểu và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
NXB Chính trị Quốc gia. HN.2006




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×