Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TÌM HIỂU VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.63 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

2

CHƯƠNG 1: TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH TỪ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP
3
1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề giai cấp 3
1.1.1. Khái niệm giai cấp
3
1.1.2. Nguồn gốc hình thành giai cấp
3
1.1.3. Đặc trưng của giai cấp 4
1.1.4. Đấu tranh giai cấp
4
1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc 5
1.2.1. Khái niệm dân tộc
5
1.2.2. Sự hình thành dân tộc 5
1.2.3. Các đặc trưng cơ bản của dân tộc
6
1.2.4. Hai xu hướng phát triển của dân tộc 7
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và giai cấp
8
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH
10
2.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh


10

2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp
2.2.1. Vấn đề dân tộc thuộc địa
10
2.2.2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp

10
12

CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH HIỆN NAY 16
3.1.Thực tiễn vấn đề dân tộc và giai cấp của Việt Nam hiện nay

16

3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp vào thực
tiễn Việt Nam
17
KẾT LUẬN 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

21

1


MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh - vĩ lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, Người không chỉ là một nhà quân
sự tài ba, một nhà chính trị sáng suốt mà cịn là một nhà tư tưởng lớn. Người không

chỉ mang lại cho người dân Việt Nam nền hịa bình thống nhất mà còn để lại cho
chúng ta một tài sản tinh thần vơ giá, đó chính là tư tưởng Hồ Chí Minh với hạt nhân
là chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng sâu sắc tới cách
mạng Việt Nam, như ngọn đuốc soi đường đưa cách mạng nước ta đến thắng lợi. Một
trong những nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là mối quan hệ biện chứng giữa
vấn đề dân tộc và giai cấp, một trong những nhân tố đảm bảo thành công cho cách
mạng Việt Nam, một đóng góp to lớn cho kho tàng lí luận cách mạng của thế giới. Vì
vậy, trong q trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu vấn đề dân tộc,
giai cấp và mối quan hệ giữa chúng là điều hết sức cần thiết. Nhìn lại lịch sử dân tộc
ta trong thế kỉ XX, một thế kỉ vận động và phát triển mau lẹ và phức tạp của tình hình
quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc và giai cấp. Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến
tranh ác liệt lẫn trong những khó khăn của hồ bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ ra rằng khi nào và ở đâu, vấn đề dân tộc
và giai cấp không được kết hợp một cách đúng đắn; quan điểm dân tộc và giai cấp
được vận dụng một cách cứng nhắc, giáo điều hoặc bị coi nhẹ thì ở đó cách mạng sẽ
khơng chỉ gặp khó khăn mà thậm chí cịn bị tổn thất nặng nề. Qua đó, chúng ta có thể
rút ra được bài học trong việc vận dụng xem xét vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp và
mối quan hệ của chúng với vấn đề dân tộc trong tình hình hiện nay và trong giai đoạn
sắp tới của thời kì quá độ khi mà nền kinh tế nước nhà phát triển mạnh mẽ theo hướng
thị trường và hội nhập quốc tế, sự phát triển chắc chắn sẽ đem lại cho chúng ta nhiều
cơ hội nhưng cũng kéo theo không ít những nguy cơ, thách thức cũng như mn vàn
khó khăn.

2


CHƯƠNG 1: TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH TỪ CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP
1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề giai cấp

1.1.1. Khái niệm giai cấp
Học thuyết Mác – Lênin về giai cấp là bộ phận hữu cơ của chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Học thuyết đó chứng minh giai cấp là phạm trù kinh tế - xã hội có tính chất
lịch sử. Giai cấp chỉ xuất hiện và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định của
sự phát triển sản xuất. Trong những điều kiện đó, mỗi giai đoạn phát triển của xã hội,
với phương thức sản xuất tương ứng, có một hệ thống giai cấp nhất định bao gồm giai
cấp thống trị, giai cấp bị trị cơ bản và giai cấp, tầng lớp trung gian. Sự tồn tại của các
giai cấp sẽ khơng cịn là tất yếu khi lực lượng sản xuất phát triển cao đến mức có khả
năng thoả mãn mọi nhu cầu của xã hội và các cá nhân , khi sự “phân công” bộ phận
thống trị , bộ phận bị trị trở nên không cần thiết.
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin đã đưa ra định nghĩa giai cấp như sau:
“Người ta gọi là giai cấp , những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa
vị của họ trong một hệ thống sản xuất nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ
của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với
những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là
khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được
hưởng”. Theo định nghĩa trên đây, thực chất của sự phân hóa những con người trong
một cộng đồng xã hội thánh các giai cấp khác nhau, đối lập nhau là do có sự khác
nhau và đối lập nhau về địa vị của họ trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định, do
đố tất yếu dẫn tới việc “tập đồn này có thể chiếm đoạt được lao động của tập đoàn
khác”. Do vậy, V.I.Lênin khẳng định: “Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn
này có thể chiếm đoạt lao động của tập đồn khác, do chỗ các tập đồn đó có địa vị
khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”.
1.1.2. Nguồn gốc hình thành giai cấp
Mác chỉ ra rằng: “Sự tồn tại của giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát
triển của lịch sử nhất định của sản xuất”.
3


Giai cấp được hình thành từ 2 nguồn gốc. Nguồn gốc trực tiếp của sự hình thành

giai cấp là sự ra đời của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Về sâu xa, đó là
do sự phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ nhất định.
1.1.3. Đặc trưng của giai cấp
Mỗi giai cấp có những đặc trưng riêng, giai cấp không phải là sản phẩm của sản
xuất nói chung mà là sản phẩm của hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử.
Có thể chỉ ra bốn đặc trưng cơ bản của giai cấp là:


Giai cấp là những tập đồn người có địa vị khác nhau trong một hệ thống
sản xuất xã hội nhất định.



Các giai cấp khác nhau có mối quan hệ khác nhau đối với tư liệu sản xuất.



Các giai cấp khác nhau có vai trị khác nhau trong tổ chức lao động xã
hội.



Các giai cấp khác nhau có phương thức và quy mô thu nhập của xã hội
khác nhau.

Như vậy giai cấp không phải là phạm trù xã hội thông thường mà là phạm trù
kinh tế - xã hội có tính chất lịch sử.
1.1.4. Đấu tranh giai cấp
Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. Lênin định nghĩa
đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước đoạt hết quyền, bị áp bức

và lao động chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu
tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống lại những
người hữu sản hay giai cấp tư sản.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp
và tầng lớp bị trị khơng chỉ về lợi ích kinh tế mà cịn về chính trị, tinh thần. Lợi ích
của giai cấp bị trị hoàn toàn đối lập với lợi ích của giai cấp thống trị. Có áp bức thì tất
có đấu tranh chống áp bức. Vì vậy đấu tranh giai cấp không do một lý thuyết xã hội
nào tạo ra mà là động lực phát triển và là hiện tượng tất yếu khơng thể thiếu được
trong xã hội có áp bức.
4


1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc
1.2.1. Khái niệm dân tộc
Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:
- Thứ nhất, khái niệm dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó có
những mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngơn ngữ chung
của cộng đồng và trong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù so với những cộng
đồng khác; xuất hiện sau cộng đồng bộ lạc; có kế thừa và phát triển hơn những nhân
tố tộc người ở cộng đồng bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự giác của các thành viên
trong cộng đồng đó.
- Thứ hai, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền
vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung, nền kinh tế thống nhất,
quốc ngữ chung, có truyền thống văn hóa, truyền thống đấu tranh chung trong quá
trình dựng nước và giữ nước.
Như vậy, nếu theo nghĩa thứ nhất, dân tộc là bộ phận của quốc gia, là cộng đồng
xã hội theo nghĩa là các tộc người, cịn theo nghĩa thứ hai thì dân tộc là toàn bộ nhân
dân một nước, là quốc gia dân tộc. Với nghĩa như vậy, khái niệm dân tộc và khái niệm
quốc gia có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, dân tộc bao giờ cũng ra đời trong một quốc
gia nhất định và thực tiễn lịch sử chứng minh rằng những nhân tố hình thành dân tộc

chín muồi thường khơng tách rời với sự chín muồi của những nhân tố hình thành quốc
gia. Đây là những nhân tố bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình phát triển.
1.2.2. Sự hình thành dân tộc
Dân tộc là sản phẩm của q trình phát triển lâu dài của lồi người.
Trước khi cộng đồng dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua các cộng đồng
khác nhau từ thấp đến cao như: thị tộc (ở giai đoạn đầu xã hội cộng sản nguyên thủy),
bộ lạc (ở giai đoạn cuối xã hội cộng sản nguyên thủy), bộ tộc (trong chế độ nơ lệ và
phong kiến, khi xã hội có sự phân chia giai cấp, có sự xuất hiện của Nhà nước - Quốc
gia). Mỗi quốc gia, khu vực thì sự hình thành dân tộc có những nét đặc thù khác nhau,
trên thế giới, thời điểm các dân tộc ra đời cũng không đều nhau.

5


-

Ở phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác
lập - đó là dân tộc tư bản chủ nghĩa (do giai cấp tư sản đại diện).

-

Ở một số nước phương Đông, cộng đồng dân tộc xuất hiện trước chủ nghĩa tư bản - đó
là dân tộc tiền tư bản chủ nghĩa.
Trên con đường phát triển của lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
loại hình dân tộc tư bản chủ nghĩa và dân tộc tiền tư bản chủ nghĩa sẽ trải qua sự cải
biến sâu sắc để trở thành dân tộc xã hội chủ nghĩa, trong đó giai cấp cơng nhân đóng
vai trị lãnh đạo, nhân dân lao động trở thành chủ thể tích cực quyết định mọi vấn đề
liên quan đến vận mệnh và sự tiến bộ của dân tộc.
1.2.3. Các đặc trưng cơ bản của dân tộc


-

Về kinh tế


Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế.



Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở để liên kết các bộ phân, các thành viên
của dân tộc lại. Nó tạo nên nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng
dân tộc.

- Về lãnh thổ


Có thể cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của quốc gia, hoặc cư trú
đan xen với nhiều dân tộc anh em.



Lãnh thổ dân tộc thể hiện quyền làm chủ của dân tộc đối với khơng gian
cư trú của mình. Vận mệnh dân tộc một phần rất quan trọng gắn với việc
xác lập ra và bảo vệ lãnh thổ đất nước.

-

Về ngôn ngữ



Có ngơn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngơn ngữ
chung của quốc gia).



Ngơn ngữ dân tộc là công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, tình cảm,... trong nội bộ dân tộc.

6


-

Về văn hóa


Có nét tâm lý riêng (tâm lý dân tộc) biểu hiện kết tinh trong đặc thù văn
hóa dân tộc, gắn bó với nền văn hóa của cả cộng đồng các dân tộc (quốc
gia dân tộc).



Nền văn hóa của một dân tộc được thể hiện qua lối sống, phong tục, tập
quán, tín ngưỡng,... thể hiện bản sắc riêng của từng dân tộc, là “thẻ căn
cước” của dân tộc.

Các đặc trưng chủ yếu của dân tộc gắn bó chặt ché với nhau trong một chỉnh thể,
mỗi đặc trưng có một vị trí xác định, làm cho khái niệm dân tộc và khái niệm quốc gia
gắn bó chặt chẽ với nhau.
1.2.4. Hai xu hướng phát triển của dân tộc

Khi nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, Lênin
đã phân tích và chỉ ra hai xu hướng phát triển có tính khách quan của dân tộc:
-

Xu hướng thứ nhất: Do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống
của mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc
lập. Thực tế này đã diễn ra ở những quốc gia, khu vực nơi có nhiều cộng đồng dân cư
với nguồn gốc tộc người khác nhau trong chủ nghĩa tư bản. Xu hướng này biểu hiện
thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc để hướng tới thành lập các quốc gia
dân tộc độc lập và có tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản. Trong
xu hướng đó, nhiều cộng đồng dân cư đã ý thức được rằng, chỉ trong cộng đồng dân
tộc độc lập họ mới có quyền quyết định con đường phát triển của dân tộc mình.

-

Xu hướng thứ hai: Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia
muốn liên hiệp lại với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế,
văn hóa trong chủ nghĩa tư bản đã tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế mở rộng
giữa các dân tộc, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.

7


1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và giai cấp
Giai cấp và quan hệ giai cấp có vai trị quyết định tới sự hình thành xu hướng
phát triển, bản chất xã hội của dân tộc, tính chất quan hệ giữa các dân tộc với nhau.
Giai cấp nào lãnh đạo dân tộc nào thì dân tộc đó mang bản chất của giai cấp đó.
(Ví dụ: Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: giai cấp tư sản phù hợp với phương
thức sản xuất này đã nắm quyền lãnh đạo ở các nước phương Tây, các dân tộc này

mang bản chất của giai cấp tư sản (năng động, thực dụng, coi trọng lợi ích, có nền
kinh tế phát triển nhưng cũng ln tồn tại những bất ổn về chính trị…)).
Nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc. Áp bức
giai cấp là cơ sở của áp bức dân tộc.
Giai cấp và dân tộc sinh ra và mất đi không đồng thời. Trong lịch sử nhân loại,
giai cấp có trước dân tộc hàng nghìn năm nhưng khi giai cấp mất đi dân tộc vẫn tồn tại
lâu dài. Muốn hiểu được mối quan hệ phức tạp giữa giai cấp và dân tộc thì phải nhận
thức rõ vai trò của nhân tố kinh tế.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường của
một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, chỉ trên lập trường
của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc. Trong
Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mác-Ăngghen đã đề cập mối quan hệ dân tộc và giai cấp:
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, ở giai
đoạn đầu của nó là mang tính chất dân tộc. Mác kêu gọi : “giai cấp vô sản mỗi nước
trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự
mình trở thành giai cấp dân tộc,… không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản
hiểu”. Cũng theo Mác –Ăngghen, chỉ có giai cấp vơ sản mới thống nhất được lợi ích
dân tộc - lợi ích của mình với các lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ
có xố bỏ áp bức, bóc lột giai cấp thì mới xoá bỏ áp bức dân tộc, đem lại độc lập thật
sự cho dân tộc mình và cho dân tộc khác. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen không đi sâu
nghiên cứu vấn đề dân tộc vì ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách
mạng tư sản, đối với Mác, vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp.

8


Thời đại Lênin, khi chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới, cách
mạng giải phóng dân tộc trở thành bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới phát
triển vấn đề dân tộc thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin cho rằng: “cách
mạng vô sản ở chính quốc khơng thể giành thắng lợi nếu không liên minh với cuộc

đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa”. Khẩu hiệu của Mác được bổ sung:
“vơ sản tồn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”. Lênin đã thực sự “đặt tiền
đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa”.
Như vậy, có thể thấy chủ nghĩa Mác- Lênin luôn đề cao vấn đề giai cấp, cho
rằng vấn đề dân tộc lệ thuộc vào vấn đề giai cấp, là một bộ phận của vấn đề giai cấp.
Ngồi ra, chủ nghĩa Mác- Lênin cịn khẳng định: “Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định,
việc giải quyết nhiệm vụ dân tộc bao giờ cũng thuộc về một giai cấp tiêu biểu”. Quan
điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin căn cứ và khái quát dựa trên tình hình châu Âu nên nó
hồn tồn phù hợp với thực tiễn ở đây.
Trong giai đoạn quốc tế chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một
bộ phận của cuộc cách mạng vô sản thế giới. Mác, Ănghen và Lênin đã nêu những
quan điểm biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và
phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng sản về
vấn đề dân tộc và thuộc địa. Nhưng trong điều kiện từ đầu thế kỉ XX trở đi, cần vận
dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin cho phù hợp với thực tiễn, chính Hồ
Chí Minh là người đáp ứng yêu cầu đó.

9


CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP TRONG TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH
2.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội lần thứ IX (2001) của Đảng đưa ra khái niệm: “ Tư tưởng Hồ Chí Minh
là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hố của nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho
cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và
của dân tộc ta”.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp

2.2.1. Vấn đề dân tộc thuộc địa
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa.
a. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa
-

Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh sớm nhận thấy, yêu cầu của xã hội thuộc địa là phải tiến hành cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc chứ không phải là đấu tranh giai cấp như trong các xã
hội tư bản chủ nghĩa phương Tây. Đối tượng của cách mạng thuộc địa là chủ nghĩa
thực dân, chứ không phải là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc nói chung. Người
dành sự quan tâm đến các thuộc địa, vạch ra thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa
là vấn đề chống chủ nghĩa thực dân, vấn đề độc lập dân tộc. Người chỉ rõ sự đối kháng
giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở
thuộc địa, đó là mâu thuẫn khơng thể điều hòa được.

-

Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc
Để giải phóng dân tộc, cần xác định phương hướng phát triển của dân tộc, đề ra
quy định những yêu cầu và nội dung trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc lập. Mỗi
phương hướng phát triển gắn liền với một hệ tư tưởng và một giai cấp nhất định.

10


Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh
khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới là chủ
nghĩa xã hội.
Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một vấn đề hết sức
mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua nhiều giai đoạn

chiến lược khác nhau. Trong Cương lĩnh chinh trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Hồ Chí Minh viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản”.
Sự hoạch định con đường phát triển dân tộc của Hồ Chí Minh là biện chứng và
khách quan, không nhập hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến vào một
cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Nó phù hợp với hồn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc
địa. Đó cũng là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển của các dân tộc đã
phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.
b. Độc lập tự do - nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
-

Cách tiếp cận từ quyền con người
Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con người. Người đã tìm hiểu và tiếp
nhận những nhân tố về quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của
nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp như
“quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Người khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được".
Nhưng từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao thành quyền
dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
- Nội dung của độc lập dân tộc
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Độc lập dân tộc là
quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, là điều kiện tốt nhất cho dân tộc phát triển. Hồ
Chí Minh nói: “Tự do cho đồng bào tơi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những
điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.

11


Độc lập dân tộc theo Hồ Chí Minh là:



Dân tộc phải có quyền tự quyết về tất cả các mặt.



Dân tộc phải có hịa bình thực sự.



Dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân.

c. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết
theo lập trường của một giai cấp nhất định. Thế nhưng ngày nay, chỉ có theo lập
trường của giai cấp cơng nhân thì vấn đề dân tộc mới được giải quyết đúng đắn.
Hồ Chí Minh cũng thống nhất với quan điểm trên. Tức là cách mạng giải phóng
dân tộc ngày nay phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh khơng những
thấy rõ mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vơ sản mà cịn
khẳng định khả năng giành thắng lợi trước của cách mạng thuộc địa. Vấn đề dân tộc
gắn với giai cấp ngày nay cũng có nghĩa là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
d. Chủ nghĩa yêu nước chân chính - một động lực lớn của đất nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính “là một bộ phận
của tinh thần quốc tế”, “khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động”.
Theo Người: “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã mấy năm
trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan bọn thực dân cướp
nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một nước Việt Nam độc lập,
thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt Nam dân chủ mới”.
Nguyễn Ái Quốc đánh giá rất cao chủ nghĩa yêu nước, coi đó là động lực lớn mà
những người cộng sản cần phải nắm lấy và phát huy động lực đó để giải phóng dân

tộc.
2.2.2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
a. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường của
một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, chỉ trên lập trường
của giai cấp công nhân, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc.
12


Tuy nhiên, Mác và Ăngghen không đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc vì ở Tây Âu vấn
đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản, đối với Mác, vấn đề dân tộc chỉ
là thứ yếu so với vấn đề giai cấp.
Hồ Chí Minh là người cộng sản sớm nhận thức mối quan hệ giữa dân tộc với giai
cấp và vận dụng nhuần nhuyễn mối quan hệ này trong cách mạng Việt Nam. Người
chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh cơng-nơng và trí
thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng; sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để
chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù; thiết lập nhà nước của dân, do dân, vì
dân; gắn kết độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
b. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh khẳng định: “Các nước thuộc địa phương Đơng không phải làm
ngay cách mạng vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc rồi
mới bàn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Khác với các con đường cứu nước của cha ông, gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa phong kiến (cuối thế kỉ XIX), hoặc với chủ nghĩa tư bản (đầu thế kỉ XX), con
đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc
theo con đường của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất
giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định

con đường của cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Năm 1960, Hồ Chí Minh lại khẳng định rõ hơn: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ”, “Nước được độc lập mà dân khơng được hưởng hạnh
phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại
13


cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân
tộc với các mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Do đó “giành được
độc lập rồi phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “làm sao
cho dân giàu, nước mạnh”, “là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”.
Hồ Chí Minh nói: “u Tổ Quốc, u nhân dân phải gắn với u chủ nghĩa xã hội, vì
có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ Quốc
mỗi ngày một giàu mạnh thêm”.
c. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng
thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị
thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp, có độc lập rồi mới có địa bàn để làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc.
Tháng 5 - 1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt trước sự sinh tử, tồn vong của quốc gia
dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng
địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những quốc gia dân tộc còn
chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng
khơng địi lại được”.
d. Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các

dân tộc khác
Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa u nước chân chính ln ln thống nhất với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình
mà cịn đấu tranh cho tất cả các dân tộc bị áp bức. Người nói: “Chúng ta phải tranh
đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”.
Người nêu cao tinh thần tự quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế
cao cả của mình trong việc giúp đỡ các đảng cộng sản ở một số nước Đông Nam Á,
ủng hộ nhân dân Trung Quốc chống Nhật, ủng hộ Lào và Campuchia chống Pháp và
khẳng định: “giúp bạn là tự giúp mình”, bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà
đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
14


Tóm lại, quan niệm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang một nội dung toàn
diện, sâu sắc và triệt để; không chỉ bao hàm độc lập, tự do, thống nhất cho dân tộc, mà
còn chứa đựng cả con đường và điều kiện phát triển dân tộc. Đó là gắn độc lập dân tộc
với dân chủ của nhân dân, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Quan điểm
đó trở thành mục tiêu, lý tưởng, thành khẩu hiệu động viên, cổ vũ nhân dân Việt Nam
làm nên kì tích oai hùng, đánh thắng mọi kẻ thù, đưa đến độc lập, thống nhất cho đất
nước, đồng thời là cơ sở lý luận để hoạch định chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ Quốc.

15


CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP CỦA VIỆT NAM TRONG
BỐI CẢNH HIỆN NAY
3.1.Thực tiễn vấn đề dân tộc và giai cấp của Việt Nam hiện nay
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Xã hội

Chủ nghĩa hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về
mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kì
quan trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kì, khi triển khai
các nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội,
chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc
trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích
các giai cấp, tầng lớp khơng được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hồ, sức mạnh dân
tộc khơng được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay
sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương diện nhận thức lý
luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay,
Đảng ta đã ngày càng cụ thể hố và hồn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực
chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây
đựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác
định rõ: Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu
tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp cơng nhân thống nhất với
lợi ích tồn dân tộc trong mục tiêu chung là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội”. Điều này đã thể hiện rõ quan điểm biện chứng về sự thống nhất giữa vấn đề
giai cấp và vấn đề dân tộc, giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Mục tiêu này vừa
thể hiện vừa đáp ứng nguyện vọng của toàn thể dân tộc, của các giai cấp và của mỗi
người dân u nước.
Mặc dù tình hình đã có nhiều thay đổi so với trước đây nhưng cả hiện nay và
trong giai đoạn sắp tới của thời kì quá độ khơng thể chỉ chú ý đến lợi ích của một giai
cấp riêng biệt nào đó, kể cả lợi ích của giai cấp cơng nhân ra khỏi lợi ích của tồn thể
16


dân tộc. Tuy nhiên không thể không nhận thấy rằng trong bối cảnh hiện nay của đất

nước và thế giới, nội dung, tính chất và mức độ của cuộc đấu tranh này trên đất nước
ta khơng hồn tồn giống như trước đây. Không thể để lặp lại một quan niệm sai lầm
cho rằng khi đã có độc lập dân tộc hồn tồn rồi thì chỉ cần tập trung vào việc giải
quyết mâu thuẫn giai cấp. Thật ra độc lập dân tộc chưa thể thực sự bền vững và vẫn bị
đe dọa khi mà đất nước còn nghèo và kém phát triển, khi tiềm lực về mọi mặt còn rất
thấp, khi mà sự chống đối từ bên trong của một số phần tử vẫn chưa chấm dứt và sự
tiếp tay cho sự chống đối đó từ bên ngồi vẫn cịn. Với cách hiểu vấn đề như vậy,
chúng ta sẽ thấy được sự cần thiết phải bằng mọi cách tập trung toàn bộ sức mạnh của
các thành phần kinh tế, của các giai cấp và của toàn dân tộc vào nhiệm vụ trung tâm
của cả thời kì q độ là nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện thắng lợi
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp vào thực
tiễn Việt Nam
Chúng ta đều biết rằng, chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh
đạo Đảng ta, trong bản Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng do chính
Người soạn thảo đã khẳng định: “…làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Ngay từ trước đó khá lâu và nhất là trong suốt cả quá
trình lãnh đạo cách mạng về sau này, Người luôn luôn kết hợp chặt chẽ vấn đề giai
cấp với vấn đề dân tộc, kết hợp đấu tranh về giải phóng dân tộc với đấu tranh để xố
bỏ bóc lột và áp bức giai cấp.
-

Thứ nhất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam – một nước thuộc địa nửa phong kiến,
trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược,
đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hồ bình và thống
nhất đất nước.
Độc lập, tự do, hồ bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của
người dân mất nước. Chính vì vậy mà “Khơng có gì q hơn độc lập tự do” - một
trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành
chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri. “Cái mà tơi cần nhất

trên đời là Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…”.
17


-

Thứ hai, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc
hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc. “Tơi chỉ
có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành.”

-

Thứ ba, phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Lịch sử của Việt Nam đã chứng minh trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta
khơng hề có dân tộc lớn (dân tộc nhiều người) đi áp bức, bóc lột dân tộc nhỏ (dân tộc
ít người), mà quan hệ giữa các dân tộc với nhau là quan hệ anh em, ruột thịt. Truyền
thống quý báu đó của dân tộc Việt Nam như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đồng bào
Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xơđăng hay Bana… đều là con cháu
Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau,
no đói giúp nhau”.
Bên cạnh việc lên án thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân, phong kiến dùng chính
sách “chia để trị” nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam và để kìm hãm các dân tộc trong
vịng nghèo nàn và dốt nát, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính ưu việt của chế độ mới để
nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Việt Nam: “Chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nước ta là: Các dân tộc đều bình đẳng và phải đồn kết chặt chẽ, thương yêu
giúp đỡ nhau như anh em. Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền

ngược cùng tiến bộ về mọi mặt”.

-

Thứ tư, phải đoàn kết, thương yêu người Việt Nam sống ở nước ngoài và thân thiện
với người nước ngoài sống ở Việt Nam. Đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, Hồ
Chí Minh chủ trương đoàn kết, thương yêu họ, kêu gọi họ hướng về quê hương đất
nước, nơi quê cha, đất tổ của mình, vì tất cả bà con đều là “con Lạc cháu Hồng” của
đất Việt. Đồng thời, Người cũng kêu gọi và khuyên nhủ bà con phải giữ mối quan hệ
thân thiện với nhân dân các nước và thực hiện tốt luật pháp của họ. Trong những năm
chiến tranh và cách mạng, với lòng yêu nước, thương dân, Hồ Chí Minh

18


đã thu phục được nhiều trí thức tài ba về nước phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân,
trong đó có nhiều người đã trở thành anh hùng của Việt Nam.
Đối với người nước ngoài sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh ln thể hiện thái độ
ơn hồ và thân thiện với họ. Trong Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về (ngày
23 tháng 10 năm 1946), Hồ Chí Minh nêu rõ: “Người Pháp ở Pháp đối với ta rất thân
thiện, thì người Việt ở Việt đối với người Pháp cũng nên thân thiện. Đối với quân đội
Pháp ta phải lịch sự. Đối với kiều dân Pháp ta phải ơn hồ. Những nười Pháp muốn
thật thà cộng tác với ta, thì ta thật thà cộng tác với họ, ích lợi cho cả đơi bên. Để tỏ
cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh. Để cho số người Pháp ủng hộ ta
càng thêm đông, sức ủng hộ càng thêm mạnh. Để cho những kẻ thù khiêu khích muốn
chia rẽ, khơng có thể và khơng có cớ mà chia rẽ. Để cho cơng cuộc thống nhất và độc
lập của chúng ta chóng thành cơng”.
Xuất phát từ tình hình đất nước, từ thực trạng của sự phân hoá giai cấp và mâu
thuẫn giai cấp trong xã hội Việt Nam vào những năm 20 của thế kỉ XX, Người đã
khẳng định một cách dứt khoát rằng: “Ở nước ta cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra

giống như ở phương Tây”. Đứng trên quan điểm này, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê
phán việc sao chép một cách máy móc quan điểm đấu tranh giai cấp của nước ngồi
mà khơng tính đến tình hình thực tế của nước nhà: “ Nghe người ta nói giai cấp đấu
tranh mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà khơng xét đến hồn cảnh nước
mình như thế nào để làm cho đúng”. Sự uốn nắn rất cần thiết và đúng lúc đó của chủ
tịch Hồ Chí Minh, cũng như sự kết hợp khéo léo vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước nhà, đã đưa tới những thắng lợi vang dội, vừa
thành công trong việc đánh đuổi thực dân xâm lược giành lại được độc lập cho Tổ
Quốc, vừa giải phóng được người lao động khỏi tình trạng bị áp bức và bị bóc lột. Sự
uốn nắn và nhắc nhở trên của chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn rất có giá trị trong điều kiện
hiện nay của chúng ta.

19


KẾT LUẬN
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho sự
nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thốt khỏi mọi
áp bức, bất cơng, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Cũng chính vì vậy
mà chúng ta cần nghiên cứu vấn đề giai cấp, dân tộc để hiểu rõ về nguồn gốc, quá
trình tồn tại và xu hướng phát triển của cộng đồng các dân tộc trên thế giới. Đồng thời
tìm hiểu bản chất căn nguyên của sự biến đổi và phát triển thơng qua việc tìm hiểu về
quan hệ giai cấp nội tại trong mỗi quốc gia, dân tộc.
Chặng đường lịch sử hơn 70 năm qua kể từ ngày ra đời đến nay, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và
những quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc
để đề ra chính sách dân tộc đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Chính sách đó vừa
phù hợp với hồn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế phát
triển tiến bộ của nhân loại, nên nó đã được cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam đón nhận
với niềm phấn khởi và đầy tin tưởng, cũng bởi lẽ đó mà cách mạng Việt Nam có được

sức mạnh to lớn để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước
đây cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày
nay.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sáng kiến vĩ đại – Lênin.
2. Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia.
3. Hồ Chí Minh - biên niên tiểu sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ

Chí Minh.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,

2000.
5. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Trẻ - Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
6. Giáo trình Những ngun lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc

gia.
7. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia.
8. Tạp chí triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Triết học.
9. Tạp chí cộng sản ().
10. Wikipedia- Bách khoa tồn thư mở ().

21




×