Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

THBK6LE THI CUC PHUONGKTGHP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.91 KB, 6 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC – MẦM NON

BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: PPDH TIẾNG VIỆT 1
NĂM HỌC: 2018 - 2019

N
À
M

Giáo viên giảng dạy: Ths Trần Dương Quốc Hòa
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Cúc Phương
Lớp: ĐHTHB – K6
Mssv:1161070070

Đồng Nai,ngày 7 tháng 11 năm 2018

Yêu cầu 1: Xem xét việc đánh giá thực hiện 3 nguyên tắc dạy học Tiếng
Việt ở trường tiểu học ( Nguyên tắc phát triển tư duy; Nguyên tắc giao tiếp;
Nguyên tắc chú ý đến tâm lý và trình độ Tiếng việt vốn có của HSTH.
Trong 1 tháng kiến tập ở trường Phan Chu Trinh thì em đã được sự giúp đỡ
hướng dẫn nhiệt tình của các thầy cô giáo trong trường đặc biệt là giáo viên hướng
dẫn và các em học sinh.Em được nhà trường phân công vào dạy lớp 2 và hơn thế
nữa về kiến tập tại trường vào mùa hội giảng.Nên trong suốt quá trình thực tập ở


đấy thì e nhận thấy rằng việc thực hiện 3 nguyên tắc ở trường tiểu học được đảm
bảo.
 Nguyên tắc 1: Nguyên tắc phát triển tư duy


- Trong các tiết dạy thì giáo viên đã đảm bảo được việc hình thành phát triển tư
duy cho học sinh thông qua các câu hỏi mà học sinh thắc mắc và tự thắc mắc hay
học sinh tự đưa ra các vấn đề có trong bài học và giúp nhau tự đưa ra các bài học
về kĩ năng sống thông qua các bài tập đọc.
VD: Sau khi học xong bài tập đọc “ vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi” của lớp 4 giáo
viên sẽ để học sinh nêu được ý nghĩa bài học và kĩ năng sống của bài“ có ý chí
vươn lên,khơng ngại khó khăn gian khổ đê thành cơng”.
Ngồi ra giáo viên cịn đưa các câu hỏi mở rộng ngồi sách giáo khoa để học sinh
tự tư duy và trả lời.
VD: - Trong tiết tập làm văn “ tả người thân trong gia đình em” lớp 2, ngồi những
gợi ý giáo viên đưa ra là tên, tuổi, nghề nghiệp thì học sinh tự suy nghĩ thêm và
hoàn thành bài tập làm văn sao cho hay và đúng.
-Trong bài tập đọc” cây xoài của ơng em” lớp 2 ngồi các câu hỏi trong sách
giáo khoa thì giáo viên hỏi em học được gì từ câu bé trong bài tập đọc học sinh suy
nghĩ và nêu ra ý kiến của mỗi người.(biết ơn ông bà,yêu thương cha mẹ…).
 Nguyên tắc 2: Nguyên tắc giao tiếp
- Trong các tiết dạy thì giáo viên đã đảm bảo nguyên tắc giao tiếp trong dạy học.
+Qúa trình giao tiếp giữa giáo viên và học sinh:Thông qua việc giáo viên hỏi học
sinh trả lời, giáo viên nhận xét hay những thắc mắc của học sinh cần giáo viên giải
đáp.
+Qúa trình giao tiếp giữa học sinh và học sinh: Thơng qua việc học sinh này trả lời
câu hỏi và học sinh kia nhận xét,hay trong các cuộc thảo luận nhóm.
VD: - Trong phân môn tập đọc giáo viên sẽ cho học sinh thảo luận nhóm bàn tự
đọc cho nhau nghe, thì sẽ hình thành cho học sinh kĩ năng tự sửa lỗi phát âm cho
nhau hình thành cho học sinh kĩ năng giao tiếp nhận xét với các bạn mình,hay
trong các trò chơi học sinh tự giao tiếp với nhau để tham gia trị chơi.
- Phân mơn tập làm văn bài “chia buồn, an ủi” lớp 2, giáo viên sẽ cho học sinh tình
huống “ khi cây hoa do ơng trồng bị chết, em sẽ nói gì cho ơng đỡ buồn”.Sau đó



u cầu học sinh thảo luận nhóm đơi tự phân vai và đóng lại trước lớp cho các bạn
cùng xem.Hoạt động này giúp chúng có thể giao tiếp với bạn mình, tự nêu được ý
kiến cũng như sắp xếp được lời thoại của bản thân một cách hợp lý.
 Nguyên tắc 3: Nguyên tắc chú ý đến tâm lý và trình độ tiếng việt
vốn có của HSTH.
- Thường thì các phần đọc các câu dài thì giáo viên khơng mời những học sinh
đọc yếu đứng lên đọc như vậy thì rất mất thời gian cho nên giáo viên sẽ luyện đọc
cho những học sinh đó vào những lúc rảnh hay giờ ra chơi hoặc cho học sinh
luyện đọc nhóm để các bạn luyện đọc và chỉnh sửa lỗi âm vần và phát âm. Nếu
muốn học sinh tự đọc và trả lời câu hỏi thì giáo viên đưa ra các câu hỏi ngắn trong
bài đọc, những câu hỏi dễ mà học sinh có thể đọc và đứng lên trả lời trước lớp.
- Những học sinh hay viết sai lỗi chính tả hoặc phát âm sai nhiều với các tiết
chính tả tập đọc thì giáo viên lưu ý với các học sinh này cho viết và luyện đọc
nhiều hơn.
- Trong tiết Tiếng Việt giáo viên chú ý lồng ghép các trò chơi vào hoạt động kiểm
tra bài cũ hay củng cố bài mới để thu hút sự chú ý của học sinh giúp các em có
hứng thú khi học tập. Ngồi ra, vì tư duy của các em ở lứa tuổi tiểu học cịn nhỏ
mang tính trực quan cụ thể nên ln phải sử dụng đồ dung dạy học như tranh, ảnh,
mô hình hay vật thật để các em dễ quan sát và dễ dàng tìm hiểu.
- Giáo viên thường sẽ mở dầu bằng một bài hát hay một trò chơi nhỏ để tạo sự
hứng khởi cho học sinh(qua phần kiểm tra bài cũ hay giữa tiết).Nếu trong lớp học
giáo viên thấy học sinh khơng tập trung thì có thể thay bằng lời động viên khích lệ,

- Khi dạy giữa bài mà cảm thấy học sinh mệt mỏi, mất tập trung giáo viên đã nắm
bắt được tâm lý học sinh cho học sinh chơi 1 trò chơi để lấy lại tinh thần.
VD: Trong tiết dự giờ lớp 1 tiết học vần “ ung – ưng”, khi học xong 2 vần ungưng để chuyển qua từ ứng dụng giáo viên cho các em chơi trò chơi “ vắt nước
cam” khi chơi xong các em lại hứng khởi tập trung vào bài học.


- Với những học sinh nhút nhát: giáo viên thường gọi đứng lên trả lời câu hỏi và

động viên khích lệ bằng những lời nhận xét, và đứng cạnh học sinh để dẫn dắt trả
lời câu hỏi.
- Với những học sinh hiếu động:giáo viên thường mời trả lời câu hỏi thường
xuyên, tham gia nhận xét bài làm, câu trả lời của bạn, và nhắc nhở và đưa ra các lời
khuyên nhủ cho học sinh để học sinh tập trung vào bài.
 Hiện các tiết dạy Tiếng Việt ở trường tiểu học đều là những tiết học theo
các tiêu chí của một tiết dạy học tích cực, đổi mới phương pháp dạy học
theo văn bản hợp nhất 03 (thông tư 22 và thông thư 30).
- Trong các tiết dạy lấy học sinh làm trung tâm
- Trong các tiết dạy thì giáo viên đã đảm bảo được 4 mức độ của học sinh: hiểu,
biết, thực hành và vận dụng.Tuy nhiên mức độ vận dụng vẫn cịn hạn chế.
- Giáo viên ln quan tâm đến việc truyền tải nội dung cho học sinh sao cho dễ
hiểu nhất bằng cách chơi trò chơi hay thay đổi hình thức học.
VD: Bài luyện từ và câu “ từ ngữ về đồ dung gia đình” lớp 2, giáo viên thay bài
tập tìm các vật dụng trong sách giáo khoa và nêu cơng dụng của nó thì giáo viên
thay bằng chơi trò chơi “ ai nhanh nhất” hỏi về tên và các đồ dung,vật dụng mà
giáo viên yêu cầu các em chuẩn bị từ trước.
- Đối với phần đọc hiểu ở phân mơn tập đọc, ngồi các câu hỏi trong sách giáo
khoa giáo viên thường hỏi thêm: qua bài tập đọc, em học được gì?
- Đối với phân môn tập làm văn, giáo viên đã rèn luyện kĩ năng viết đoạn cho học
sinh,giáo viên chỉ gợi ý câu hỏi chứ không đưa ra các bài văn rập khuôn, máy móc
để phát huy tính sáng tạo của học sinh.
VD: Giáo viên cho học sinh làm bài trực tiếp trên lớp, chọn những bài hay để đọc
cho cả lớp nghe.Sửa các lỗi sai học sinh thường mắc phải, hạn chế tối đa về nhà
làm.
Yêu cầu 2: Các băn khoăn, thắc mắc của bản thân khi tiếp cận thực tế với các
tiết dạy học Tiếng Việt ở trường tiểu học.
Bên cạnh học hỏi được những kinh nghiệm giảng dạy của các thầy cô thông
qua các môn dạy ở trường tiểu học,bản thân em có những thắc mắc khi lần đầu tiếp



cận với thực tế, cảm thấy những điều học ở trường đại học có vài điểm khơng
giống với thực tế:
-Về giáo án: Ở trường đại học giáo án được soạn theo các mục tiêu kiến thức, kĩ
năng, thái độ và các động từ được sắp xếp theo thang bloom và được chia theo cột
dọc.Còn ở trường tiểu học soạn mục tieu có thể phân ra kiến thức kĩ năng,thái độ
cũng được và các động từ thường là “giúp học sinh”,và mỗi hoạt động được soạn
phải ghi mục tiêu ở dưới.
-Giáo viên thường cho học sinh về nhà làm những bài tập hay câu hỏi của tiêt tiết
theo, hôm sau chỉ lên gợi ý lại, có một số học sinh đưa bố mẹ làm ln, vậy trong
cách làm đó của giáo viên có hợp lý khơng?
-Em có đi dự giờ tiết dạy mẫu môn tập đọc lớp 2. Như trên trường đại học thời
gian đẹp nhất là từ 35 – 38 phút nhưng khi thực tế không thể dạy vào thời gian như
vậy, vì cịn tùy thuộc vào học sinh như thế nào và tiết dạy tập đọc đó kéo dài tới 55
phút mới truyền tải hết nội dung của giáo viên thi hội giảng.Vậy cái vấn đề thời
gian có quan trọng k hay truyền tải hết nội dụng cho học sinh hiểu bài?
-Trong quá trình giảng dạy giáo viên chỉ ghi tên bài vào chứ khơng ghi bất cứ thứ
gì trên bảng( trừ môn học vần và môn tập đọc phần các từ khó). Điều này có nên
hay khơng?
- Giáo viên khi chọn bảng của học sinh, thì chọn những bảng viết đúng rất ít khi
chọn bảng của những học sinh làm sai với lý do tốn nhiều thời gian để sửa bài sai,
chỉ cần sửa những bài làm đúng, những bài làm sai học sinh sẽ tự mình sửa. Cách
làm này phù hợp không? Và nên hay không nên?
- Khi cho học sinh làm bài tập thì giáo viên vẫn còn phụ thuộc vào sách giáo
khoa,chưa đổi mới các dạng bài tập.
VD: Trong tiết chính tả,có bài tập điền từ, giáo viên chỉ cho học sinh điền các từ
có trong sách giáo khoa mà không mở rộng ra các từ khác. Điều này đã đủ và phù
hợp vứi tiết dạy học tích cực chưa?
 Bên cạnh những thắc mắc thì em đưa ra một số biện pháp.
- Thành lập hội đồng tự quản để giúp đỡ các em cùng học tập và phát huy tính tích

cực của học sinh
- Cho học sinh làm những bài tập mở rộng tương tự sách giáo khoa


- Sửa bảng cho những học sinh viết sai, động viên khuyến khích các em về viết lại
cho nhớ.
- Khơng giao bài tập của tiết sau cho học sinh vè nhà làm mà chỉ cho học sinh về
nhà xem bài trước.
- Tổ chức cho học sinh chơi trị chơi có chứa nội dung bài học để giảm bớt phần
nhàm chán của lý thuyết.
Trên đây là phần trình bày về việc nhận xét- đánh giá các tiết học Tiếng Việt
ở trường tiểu học qua chuyến đi thực tế kiến tập cũng như những thắc mắc,
bất cập mà em còn nhiều điều chưa biết chưa hiểu. Một số biện pháp đưa ra
để khắc phục những bất cập có thể chưa đúng hoặc có thiếu sót. Kính mong
thầy xem xét và giải quyết những thắc mắc và chỉnh sửa những điều sai, cịn
sót trong bài. Em chân thành cảm ơn thầy.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×