SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
---------- ----------
BÀI KIỂM TRA GIỮA
HỌC PHẦN
Môn: Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hải Yến
Lớp: Đại học Tiểu học C K6
Khoa: Sư phạm Tiểu học – Mầm non
Giảng viên hướng dẫn: Trần Dương Quốc Hòa
BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: PPDH TIẾNG VIỆT 1
I.Vấn đề 1: Xem xét, đánh giá việc thực hiện 3 nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở
trường tiểu học ( Nguyên tắc phát triển tư duy; Nguyên tắc giao tiếp; Ngun tắc
chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của HSTH).
Trong thời gian kiến tập tại trường Tiểu học Quang Vinh vừa qua em đã được trực
tiếp theo dõi và nắm bắt rõ hơn về phương pháp dạy học thực tế ở trường tiểu học,
cụ thể là ở lớp 2. Trên thực tế, giáo viên đã thực hiện dạy học môn Tiếng Việt theo
đúng 3 nguyên tắc : nguyên tắc phát triển tư duy; nguyên tắc giao tiếp; nguyên tắc
chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của HSTH.
1.Về ngun tắc phát triển tư duy:
- Trong mọi giờ học giáo viên đều chú ý rèn các thao tác tư duy cho học sinh bằng
cách đặt ra câu hỏi, các vấn đề mà học sinh phải tư duy, phải vận dụng các thao tác
phân tích, so sánh, tổng hợp, tư duy logic khác để khái quát hoá thành những khái
niệm, những tri thức về ngôn ngữ. Và từ những kiến thức đã thu nhận được, các
em, một lần nữa, lại vận dụng năng lực tư duy lơgic của mình để sử dụng những
kiến thức đó trong giao tiếp bằng ngơn ngữ.
- Trong các tiết dạy giáo viên đã đảm bảo được yếu tố hình thành tư duy cho học
sinh, thơng qua các câu hỏi học sinh tự thắc mắc và tự giúp nhau giải quyết các
thắc mắc về nghĩa của từ mới hay tự đưa ra các bài học kĩ năng sống học được
thông qua các bài tập đọc, các lưu ý về sử dụng từ ngữ thơng qua các bài chính tả,
kể chuyện,..
• Phân mơn Tập đọc:
+ Ở phần luyện đọc học sinh đều được đọc ít nhất 1 lần, mọi quy trình đều đi đúng,
từng câu hỏi giáo viên đưa ra đều cho học sinh tự suy nghĩ và trả lời.
Ngồi ra giáo viên cịn đưa ra các câu hỏi mở, các câu hỏi nâng cao về kỹ năng
sống hay giáo dục bảo vệ mơi trường có liên quan đến bài đọc để nâng cao trình độ
nhận thức, khả năng tư duy của học sinh.
Ví dụ: Sau khi học xong bài tập đọc “ Câu chuyện bó đũa” lớp 2 giáo viên sẽ để
học sinh tự nêu được bài học ý nghĩa, kĩ năng sống của bài : “Biết yêu thương,đoàn
kết với mọi người xung quanh”,…
+ Tuy nhiên hoạt động học sinh tự trao đổi với nhau để trả lời câu hỏi hay sửa lỗi
đọc sai cho nhau vẫn chưa được thực hiện rõ ràng, giáo viên đa phần đều chỉ chú
trọng đến những học sinh học và đọc tốt để mời lên trình bày ý kiến, chưa cho các
học sinh yếu kém có cơ hội đọc lại bài và tự trả lời câu hỏi mà giáo viên đưa ra.
• Phân môn Luyện từ và câu:
+ Đa phần các tiết LTVC giáo viên đều cho học sinh chơi trò chơi, để học sinh tự
quản lớp tự điều khiển các bạn cùng chơi.Giáo viên cịn đặt thêm những câu hỏi
khác ngồi bài học để học sinh thi nhau trả lời.
Ví dụ: bài “Từ ngữ về tình cảm, dấu phẩy” ở hoạt động xem tranh giáo viên sẽ yêu
cầu các em thảo luận nhóm và nêu nội dung bức tranh, như vậy có thể cho học sinh
có thể phát triển tư duy tự tạo ra ngơn ngữ của chính mình để có thể trình bày được
suy nghĩ.
2. Về nguyên tắc giao tiếp:
Trong các tiết dạy giáo viên đã đảm bảo nguyên tắc được thực hiện trong quá
trình giảng dạy, đảm bảo được :
+ Quá trình giao tiếp giữa giáo viên và học sinh : thông qua việc giáo viên hỏi, học
sinh trả lời, giáo viên nhận xét hay việc học sinh thắc mắc các vấn đề giáo viên giải
đáp các thắc mắc.
+ Quá trình giao tiếp giữa học sinh với học sinh : thông qua việc cho học sinh trả
lời các câu hỏi, học sinh khác sẽ nhận xét phần trình bày của bạn hay thông qua
việc cho các học sinh tiến hành làm việc thảo luận nhóm.
Ví dụ: Trong các hoạt động kiểm tra bài cũ ở đầu các tiết học, giáo viên tổ chức trò
chơi để chọn ngẫu nhiên một số học sinh lên thực hiện yêu cầu, khi chọn ra được
rồi thì những việc còn lại sẽ do học sinh thực hiện, học sinh đó sẽ tự đọc ra yêu cầu
của giáo viên và thực hiện, sau khi thực hiện sẽ tự điều khiển mời bạn khác nhận
xét và trả lời câu hỏi giao lưu (nếu có) rồi giáo viên mới nhận xét lại và chốt ý.
Thường ở tất cả các phân mơn, ngun tắc này đều phải có.
• Phân mơn Tập đọc:
Giáo viên sẽ đưa ra những câu hỏi hay yêu cầu để học sinh có thể xung phong trả
lời trao đổi với giáo viên. Đó là hoạt động nhằm cải thiện khả năng giao tiếp của
học sinh.
• Phân mơn Tập đọc và phân mơn kể chuyện:
Phần tìm hiểu bài ở (bài Cây xồi của ơng em) và phần luyện kể chuyện ở (bài
Bông hoa niềm vui) giáo viên đều cho học sinh thảo luận nhóm đơi hay nhóm bốn
trao đổi với nhau về câu trả lời, tự nhận xét bạn và sửa lỗi cho bạn, qua đó hình
thành thói quen giao tiếp hiệu quả và tự nhận xét bản thân.
• Phân môn Tập làm văn:
Giáo viên sẽ cho học sinh tình huống “Nếu bà bị gãy kính em sẽ làm gì để bà đỡ
buồn?” sau đó u cầu học sinh thảo luận nhóm đơi tự phân vai và tự đóng trước
lớp cho các bạn cùng xem. Hoạt động này sẽ giúp học sinh có thể giao tiếp được
với bạn của mình, tự nêu được ý kiến cũng như sắp xếp lại lời thoại của bản thân
một cách hợp lí.
3. Về nguyên tắc chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của HSTH
Ở ngun tắc này, giáo viên đã thực hiện tương đối tốt. Đa số ở các tiết học Tiếng
Việt, giáo viên đều tổ chức hoạt động dưới hình thức trị chơi, hoạt động giải lao có
sử dụng âm thanh, hình ảnh, đồ vật màu sắc, … phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 2
• Phân mơn Chính tả: ( bài Qùa của bố)
Giáo viên luôn biết học sinh yếu ở đâu và viết chữ như thế nào để có thể thực hiện
được các hoạt động dạy học một cách hợp lí. Treo tranh giới thiệu ở bài chính tả.
Gíao viên đã thực hiện việc rút từ khó, sửa lỗi và giải nghĩa từ khó một cách hồn
chỉnh; học sinh thi nhau tìm từ khó theo nhóm đơi và xung phong trình bày ý kiến,
vừa trau dồi vốn từ vựng trong Tiếng Việt của học sinh vừa kích thích sự hứng thú
học tập cho các em để tiết học khơng bị gị bó và nhàm chán.
Vậy có thể thấy rằng đa số các tiết dạy hiện nay của giáo viên luôn đảm bảo
dạy học môn Tiếng Việt theo đúng 3 nguyên tắc đồng thời cũng thực hiện đủ
các tiêu chí của một tiết dạy tích cực: mọi học sinh đều được tham gia học tập;
tự học sinh sản sinh ra tri thức; không khí lớp học sinh động, vui vẻ, thoải
mái. Ở đây em sẽ ví dụ cụ thể ở hai tiết mà em được dự giờ của lớp 4 ở phân
môn Tập đọc (bài Ơng Trạng thả diều) và phân mơn Chính tả (bài Nếu chúng
mình có phép lạ).
Tiết
Tiêu chí
Mọi học sinh
đều được
tham gia học
tập
Tự học sinh
sản sinh ra
tri thức
Tập đọc
“Ông Trạng thả diều”
(Tiếng Việt 4 tập 1)
- Ở phần luyện đọc:
Tất cả các HS đều luyện đọc
bằng nhiều hình thức khác
nhau; đọc nối tiếp, đọc theo
nhóm bàn.
- Ở phần tìm hiểu bài:
Tất cả HS đều có thời gian để
tự trả lời câu hỏi trong bài Tập
đọc theo hình thức cá nhân,
sau đó giơ tay phát biểu.
Chính tả
“Nếu chúng mình có phép lạ”
(Tiếng Việt 4 tập 1)
- Ở phần hướng dẫn Chính
tả:
Tất cả các HS đều được tham
gia các hoạt động tìm từ khó
trong bài bằng cách viết vào
bảng con.
- Ở phần bài tập:
Tất cả các HS đều tham gia
vào việc làm bài tập theo hình
thức cá nhân.
- Ở phần tìm hiểu bài:
+ HS tự trả lời câu hỏi trong
bài tập đọc theo hình thức cá
nhân, sau đó mới giơ tay phát
biểu.
- Ở phần bài tập:
Tất cả các HS tự làm bài tập
theo hình thức cá nhân, sau đó
GV mới sửa bài.
Khơng khí
lớp học sinh
động, vui vẻ,
thoải mái
+ HS tự rút ra ý chính của
từng doạn.
+ HS trả lời câu hỏi mở:
“Ngồi Nguyễn Hiền các em
cịn biết tấm gương nào vượt
khó trong học tập?”
+ HS trả lời câu hỏi:
“Câu chuyện ca ngợi ai và ca
ngợi điều gì?”
- Ở phần giới thiệu bài:
GV cho HS xem tranh minh
họa và hỏi HS: “Bức tranh vẽ
gì? Bức tranh thể hiện nội
dung gì?”
Cách vào bài tạo sự tò mò,
hứng thú khi vào bài mới cho
HS
- Ở phần giới thiệu bài:
GV cho HS xem tranh minh
họa và hỏi HS:
“Bức tranh này đã được học ở
bài tập dọc nào? Bức tranh vẽ
cảnh gì?”
Cách vào bài tạo sự tò mò,
hứng thú khi vào bài mới cho
HS
II. Vấn đề 2: Các băn khoăn, thắc mắc của bản thân khi tiếp xúc thực tế với các tiết
dạy học Tiếng Việt ở tiểu học
Bên cạnh việc học hỏi những kinh nghiệm giảng dạy của thầy cô thông qua các
tiết dạy ở trường tiểu học, bản thân em vẫn có những thắc mắc khi lần đầu được
tiếp cận với thực tế:
- Phân mơn Luyện từ và câu:
Hình thức làm việc nhóm ln được chú trọng, là chủ yếu nhưng khi chia nhóm
và phát lệnh bài tập thì giáo viên sẽ không để học sinh để học sinh tiến hành làm
việc nhóm ngay mà ln để học sinh làm việc cá nhân trước sau đó mới tiến hành
làm việc nhóm (dạy theo PP khăn trải bàn). Nếu bỏ qua bước học sinh làm việc cá
nhân mà để học sinh trực tiếp làm nhóm ln thì có được hay khơng? Phương pháp
dạy học theo “ Khăn trải bàn” có đảm bảo hiệu quả hay không?
- Phân môn Tập đọc:
Một bài tập đọc có nhiều câu dài và từ khó. Ví dụ bài Qùa của bố có đến 3 câu dài
cần hướng dẫn cho học sinh đọc đúng và giải nghĩa từ. Ở phần này em thấy giáo
viên hướng dẫn đủ cả 3 câu dài và các từ khó. Như vậy có quá tốn thời gian và làm
học sinh thụ động hay không ạ?
- Phân môn Tập viết:
Dạy tiết tập viết em thấy giáo viên sử dụng powerpoint hướng dẫn học sinh viết
chữ H như vậy có đảm bảo cho một tiết của phân môn tập viết không?
Tập viết thường giáo viên không xem nhẹ dẫn tới khi dự giờ của phân môn này,
giáo viên lúng túng và phải phát tài liệu về cách viết cũng như khoảng cách trong
các con chữ. Như vậy tiết dạy của giáo viên đó có đảm bảo chất lượng hay khơng?
- Phân mơn Chính tả:
Phần tìm các từ khó trong bài chính tả giáo viên tự tìm và cho học tập viết. Như
vậy học sinh có thụ động khơng?
- Ngồi ra khi cho học sinh xem clip giáo viên để học sinh xem xong clip đó mới
đặt câu hỏi ( phân môn Tập đọc và Luyện từ và câu). Như vậy có hơi khó cho học
sinh khơng?
Bên cạnh những thắc mắc trên bản thân em còn đưa ra những giải pháp của
mình để giải quyết các bất cập như:
- Phân mơn Tập đọc:
Giáo viên chỉ hướng dẫn một câu dài, những câu còn lại sẽ tự học sinh dựa trên
câu giáo viên đã hướng dẫn và đọc cho đúng. Sau đó giáo viên sẽ gọi một số bạn
đọc và cho các học sinh còn lại nhận xét nêu ý kiến. Giáo viên sửa lỗi và chốt đáp
án.
- Phân môn Tập viết:
Giáo viên viết mẫu lên bảng, vừa nói vừa viết để các em theo dõi cách đặt bút,
chỗ nào cần lia chỗ nào cần rê bút. Khơng xem nhẹ bất kì phân mơn nào.
- Phân mơn Chính tả:
Giáo viên để tự học sinh tìm ra từ khó trong bài vào bảng con, sau đó giáo viên
hướng dẫn học sinh đọc các từ ấy. Nếu cịn từ khó trong bài mà học sinh chưa phát
hiện ra thì giáo viên sẽ nêu ra và hướng dẫn cho học sinh.
- Ngoài ra khi cho học sinh xem tranh ảnh giáo viên đặt câu hỏi trước nhằm tạo sự
tập trung vào những điều đề cập đến trong câu hỏi, tránh lan man
Trên đây là phần nhận xét đánh giá các tiết học Tiếng Việt ở trường tiểu học
qua chuyến đi thực tập lần 1cũng như những thắc mắc, bất cập mà em còn
nhiều điều chưa biết, chưa hiểu. Một số biện pháp đưa ra để khắc phục bất
cập vẫn còn chưa đúng hoặc còn nhiều thiếu sót. Kính mong thầy xem xét giải
quyết các thắc mắc và chỉnh sửa những điều còn sai, còn thiếu sót trong bài.
Em xin chân thành cảm ơn!
Biên Hịa, ngày 5 tháng 12 năm 2018
Sinh viên thực hiện