Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học về Cách mạng không ngừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.69 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC
1
CHỮ VIẾT TẮT
2
MỞ ĐẦU
3
CHƯƠNG I: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỚI TƯ TƯỞNG CÁCH
4
MẠNG KHÔNG NGỪNG TRONG CMVS

1.
1.
1.
1.
2.
2.
2.
1.
2.
2.

Cơ sở hình thành tư tưởng cách mạng khơng ngừng của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong CMVS
Tư tưởng cách mạng không ngừng của C.Mác

4

Tư tưởng cách mạng không ngừng của Lênin


5

Nội dung và thực tiễn tư tưởng cách mạng không ngừng của
chủ nghĩa Mác - Lênin trong CMVS
Nội dung tư tưởng cách mạng không ngừng của
chủ nghĩa Mác - Lênin trong CMVS
Thực tiễn sử dụng cách mạng không ngừng của
chủ nghĩa Mác - Lênin trong CMVS

9

4

9
11

CHƯƠNG II: CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CÁCH MẠNG KHÔNG NGỪNG
VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM

13

1.

13

Quá trình Đảng tổ chức thực hiện vận dụng tư tưởng cách
mạng không ngừng vào cách mạng Việt Nam
1. Khi chưa giành được chính quyền đến Cách
1. mạng tháng Tám năm 1945

1. Khi giành được chính quyền Cách mạng tháng
2. Tám năm 1945 đến năm 1975
2.
Vận dụng tư tưởng cách mạng không ngừng vào sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc ngày nay
2.1. Phương hướng vận dụng tư tưởng cách mạng
không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay
2.2. Sự cần thiết vận dụng tư tưởng cách mạng
không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày nay
3.
Vận dụng tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa
Mác - Lênin của các đơn vị Hải quân trong sự nghiệp bảo vệ
chủ quyền biển, đảo Tổ quốc hiện nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

13
14
16
16
18

22

27
28
1



2


CHỮ VIẾT TẮT
THỨ TỰ

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG

1

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

2

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

3

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

4


CMVS

Cách mạng vô sản

5

BVTQ

Bảo vệ Tổ quốc

6

QPTD

Quốc phịng tồn dân

7

ANND

An ninh nhân dân

8

QP-AN

Quốc phịng - An ninh

9


KVPT

Khu vực phòng thủ

10

LLVT

Lực lượng vũ trang

11

BQP

Bộ Quốc phòng

12

BTTM

Bộ Tổng Tham mưu

13

CQQS

Cơ quan quân sự

14


QĐND

Quân đội nhân dân

15

SSCĐ

Sẵng sàng chiến đấu

16

KT-XH

Kinh tế - Xã hội

17

QS, QP

Quân sự, Quốc phòng

18

CTĐ, CTCT

Cơng tác Đảng, cơng tác Chính trị

3



MỞ ĐẦU
Cách mạng XHCN là một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc, triệt để và
lâu dài nhất trong lịch sử nhân loại, đó là con đường duy nhất đúng đắn để giai
cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình là xây dựng thành cơng chủ
nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
Cách mạng XHCN là một quá trình vận động phát triển liên tục lâu dài,
gian khổ trải qua nhiều giai đoạn và thời kỳ khác nhau. Mỗi giai đoạn và thời kỳ
cách mạng có mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, phương pháp cách mạng cụ thể.
Giai cấp công nhân phải liên tục chiến đấu để giành thắng lợi từng bước, thực
hiện thắng lợi mục tiêu của từng giai đoạn, làm cho cách mạng XHCN phát triển
không ngừng, đi từ thắng lợi này,đến thắng lợi khác cho đến thắng lợi cuối cùng.
Đó chính là“Tư tưởng cách mạng không ngừng”. Tư tưởng cách mạng không
ngừng là vấn đề cốt lõi của phạm trù cách mạng XHCN. Thực chất của tư tưởng
cách mạng không ngừng là giải quyết mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược
cách mạng trong tồn bộ tiến trình cách mạng XHCN của giai cấp công
nhân.“Tư tưởng cách mạng không ngừng” chỉ đạo hành động của các Đảng
Cộng sản, sự thành công hay thất bại của cách mạng phụ thuộc vào việc thực
hiện“Tư tưởng cách mạng khơng ngừng” của các Đảng Cộng sản trong q
trình lãnh đạo cách mạng XHCN ở các nước.“Tư tưởng cách mạng không
ngừng” được C.Mác - Ph.Ăng ghen khái quát từ thực tiễn phong trào cộng sản
công nhân quốc tế, được Lênin bổ xung phát triển trên cơ sở tổng kết thực tiễn
phong trào cộng sản công nhân quốc tế và phong trào công nhân Nga trong thời
đại đế quốc chủ nghĩa và CMVS.
Từ những vấn đề trên, tôi đã chọn chủ đề cho bài tiểu luận của mình là:
“Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự vận
dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Bài tiểu luận được kết cấu gồm 3 phần:
Phần 1: MỞ ĐẦU

Phần 2: NỘI DUNG
Chương I: Chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng cách mạng không ngừng
trong CMVS
Chương II: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng
tư tưởng cách mạng không ngừng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
Phần 3: KẾT LUẬN
Do kiến thức có hạn nên bài tiểu luận của tôi không tránh khỏi những
thiếu sót, vì vậy tơi rất mong sự đóng góp, giúp đỡ nhiệt tình từ đồng chí giảng
viên và Bộ mơn CNXH khoa học để bài tiểu luận của tôi được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỚI TƯ TƯỞNG CÁCH MẠNG
KHƠNG NGỪNG TRONG CMVS

1. Cơ sở hình thành tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa
Mác - Lênin trong CMVS
1.1. Tư tưởng cách mạng không ngừng của C.Mác - Ph.Ăng ghen
Trong điều kiện CNTB đang phát triển, giai cấp tư sản đang đứng vị trí
trung tâm của lịch sử. Giai cấp cơng nhân cịn hạn chế về số lượng và chất
lượng. Giai cấp nông dân chưa hiểu và chưa tin vào khả năng cách mạng của
giai cấp công nhân. Xã hội tư bản tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản. Một là, mâu
thuẩn giữa giai cấp tư sản với địa chủ phong kiến. Hai là mâu thuẫn giữa giai
cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư sản. C.Mác - Ph.Ăng ghen
vạch rõ: quá trình vận động cách mạng của những người cộng sản là một quá
trình phát triển cách mạng liên tục trải qua những giai đoạn khác nhau. Giai

cấp công nhân với tư cách lực lượng chính trị độc lập, phải chủ động tham gia
vào cuộc cách mạng dân chủ tư sản để đánh đổ chế độ phong kiến, thúc đẩy
nhanh tiến trình lịch sử. Sau khi cùng giai cấp tư sản đánh đổ chế độ phong
kiến, hoàn thành cách mạng dân chủ tư sản phải ngay lập tức “chuyển súng
sang vai” đấu tranh chống giai cấp tư sản làm nhiệm vụ của cách mạng XHCN.
Nhưng để làm cho cách mạng trở thành cách mạng khơng ngừng, thì trong suốt
q trình cùng với giai cấp tư sản làm cách mạng dân chủ tư sản giai cấp cơng
nhân phải giữ vững độc lập về chính trị; thành lập tổ chức Đảng của giai cấp
công nhân; thường xuyên giáo dục giai cấp, sứ mệnh lịch sử của mình cho giai
cấp cơng nhân; khơng được qn kẻ thù của mình, khơng được sao nhãng mục
tiêu chính trị và phải kết hợp phong trào vô sản với phong trào nông dân.
C.Mác - Ph.Ăng ghen viết: Ở Đức, Đảng cộng sản đấu tranh chung với giai cấp
tư sản trong hết thảy những khi giai cấp này hành động cách mạng chống lại
chế độ chuyên chế, chống chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến và giai cấp tiểu
tư sản phản động. Nhưng không một phút nào Đảng cộng sản lại sao lãng việc
gây cho giai cấp công nhân một ý thức sáng suốt và rõ rệt về sự đối kháng kịch
liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân để lúc thời cơ đến công nhân
Đức biết đổi bao nhiêu điều kiện chính trị và xã hội do chế độ tư sản tạo ra
thành bấy nhiêu vũ khí chống lại giai cấp tư sản, để ngay sau khi diệt xong
những giai cấp phản động ở Đức thì có thể tiến hành đấu tranh chống lại ngay
chính giai cấp tư sản.
Tổng kết kinh nghiệm cách mạng Pháp - Đức (1848 – 1849), C.Mác - Ph.
Ăng ghen chỉ rõ cách mạng thất bại chính là do giai cấp cơng nhân khơng có
một chính đảng lãnh đạo, khơng liên minh với nông dân, không làm cho cách
mạng trở thành cách mạng không ngừng. C.Mác - Ph. Ăng ghen kết luận:
CNXH này là lời tuyên bố cách mạng không ngừng, là chun chính cách mạng
của giai cấp cơng nhân.
5



1.2. Tư tưởng cách mạng không ngừng của Lênin
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, CNTB chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa
đế quốc; giai cấp tư sản trở thành lực lượng kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ; giai cấp nông dân đã nhận rõ bộ mặt
phản động của giai cấp tư sản. Thời kỳ này có nhiều phần tử cơ hội trong Quốc tế
II tìm mọi cách vùi dập những tư tưởng cách mạng hết sức quan trọng ấy của
C.Mác - Ph.Ăng ghen. Mặt khác, thời kỳ này, phong trào công nhân phát triển
mạnh, tạo điều kiện để cách mạng XHCN nổ ra. Trước hồn cảnh đó, trung thành
với chủ nghĩa C.Mác - Lênin đã đấu tranh không khoan nhượng với các quan
điểm của chủ nghĩa cơ hội xét lại trong Quốc tế II và trong phong trào công nhân
Nga, đồng thời phát triển tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác.
Đầu thế kỷ XX, nước Nga vẫn là một nước quân chủ chuyên chế, tuy ở
đây CNTB đã phát triển đến mức trung bình chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa
chủ vẫn còn là phổ biến. Quan hệ sản xuất phong kiến và chế độ Nga Hồng kìm
hãm nghiêm trọng sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Tính chất bóc lột
kiểu phong kiến cịn in dấu ấn của nó cả trong những nhà máy và xí nghiệp tư
bản chủ nghĩa. Nước Nga là một nước mà “giai cấp cơng nhân khổ vì CNTB ít
hơn là khổ vì CNTB khơng được phát triển đầy đủ”.
Xã hội Nga lúc này chứa đựng nhiều mâu thuẫn, nhưng có hai mâu thuẫn
lớn là mâu thuẫn giữa chế độ quân chủ chuyên chế với toàn thể nhân dân và mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Vấn đề đặt ra trước hết cho Đảng
công nhân dân chủ xã hội Nga là phải giải quyết mâu thuẫn giai cấp giữa chế độ
quân chủ chuyên chế với toàn thể nhân dân bằng một cuộc cách mạng dân chủ
tư sản. Theo Lênin cuộc cách mạng dân chủ ở Nga, xét về phương diện kinh tế
vẫn là cuộc cách mạng tư sản. Cuộc cách mạng ấy chủ yếu và trước hết nhằm
đập tan mọi xiềng xích của của chế độ quân chủ chuyên chế, cuộc cách mạng ấy
về cơ bản là nhằm xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, chế độ chiếm hữu ruộng
đất và những đặc quyền, đặc lợi phong kiến. Nó có mục đích là thực hiện cuộc
cải cách ruộng đất, đem lại ruộng đất cho nông dân, đồng thời cải thiện một
phần đời sống của giai cấp cơng nhân. Nó chưa xố bỏ hồn tồn chế độ tư hữu,

chỉ mới xố bỏ sự bóc lột kinh tế của giai cấp địa chủ phong kiến, nhưng chưa
xố bỏ chế độ người bóc lột người. với điều kiện chế độ tư hữu còn tồn tại cuộc
cách mạng ấy vẫn mang tính chất tư sản. Lênin viết: tính chất tư sản của cuộc
cách mạng dân chủ tựu trung được biểu hiện ở chỗ là có nhiều giai cấp, nhiều bộ
phận và tầng lớp xã hội vốn hoàn toàn thừa nhận chế độ tư hữu và nền sản xuất
hàng hố và vốn khơng có khản năng thốt khỏi khn khổ đó thì đều đã vì
tình thế mà đi đến chỗ buộc phải thừa nhận sự bất lực của chế độ chuyên chế và
toàn bộ chế độ phong kiến và đi theo cuộc vận động đòi tự do. Nhưng cuộc cách
mạng dân chủ tư sản ở Nga do những điều kiện lịch sử mới quy định đã khơng
hồn tồn giống như các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Châu Âu vào thế kỷ
trước. Cách mạng dân chủ tư sản Nga vào đầu thế kỷ XX khơng cịn là cuộc
cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ mà là cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu
mới, khơng cịn là cuộc cách mạng mang tính chất tư sản thuần tuý mà là một
6


cuộc cách mạng dân chủ triệt để ngồi tính chất tư sản nó cịn mạng tính chất
nhândân: cuộc cách mạng dân chủ tư sản Nga không phải là nhằm mang lại
nhiều quyền lợi nhất cho giai cấp tư sản mà trái lại về cơ bản là đem lại quyền
lợi thật sự cho nhân dân lao động chủ yếu là công nơng.
Xét về mục đích, về vai trị lãnh đạo, về lực lượng tham gia và về phương
pháp tiến hành cuộc cách mạng ấy chẳng những mạng tính chất nhân dân mà
cịn mang tính chất vơ sản, tuy chưa phải là cuộc CMVS. Cách mạng dân chủ tư
sản Nga không lấy việc đánh đổ chế độ Nga hồng làm mục đích cuối cùng mà
chỉ coi đó là một bước đường tất yếu phải đi qua để tiến lên CNXH và chủ nghĩa
cộng sản. Nó khơng thừa nhận giai cấp tư sản là giai cấp lãnh đạo cách mạng,
trái lại vai trò lãnh đạo cách mạng dân chủ tư sản ở Nga đã được lịch sử giao
cho giai cấp vô sản. Lực lượng cách mạng không phải là khối liên minh giữa
giai cấp tư sản với quần chúng công nông, mà là khối liên minh giữa giai cấp vô
sản và tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác, chủ yếu là nông dân lao động.

Về phương pháp, cuộc cách mạng dân chủ tư sản Nga không tiến hành theo lối
tư sản, tức là theo con đường thoả hiệp với chế độ Nga hoàng và lập ra chế độ
quân chủ lập hiến, mà sẽ được tiến hành theo phương pháp vô sản, có nghĩa là
bằng bãi cơng, tổng bãi cơng chính trị và chuyển lên khởi nghĩa vũ trang để lật
đổ mọi trật tự phong kiến bằng bạo lực cách mạng. Cách mạng dân chủ tư sản ở
Nga là một cuộc cách mạng dân chủ triệt để, một cuộc đấu tranh cho cho những
mục tiêu “dân chủ tiên tiến” thoát khỏi phạm vi chật hẹp của những yêu cầu dân
chủ tư sản thuần tuý, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho sự chuyển biến từ
cách mạng dân chủ tư sản lên cách mạng XHCN. Lênin viết: cách mạng dân chủ
được thực hiện đầy đủ bao nhiêu thì cuộc đấu tranh mới ấy càng diễn ra nhanh
chóng, rộng lón rõ rệt và kiên quyết bấy nhiêu. Tiến lên giai đoạn cách mạng
XHCN là xu hướng tất yếu của cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới - một cuộc
cách mạng dân chủ triệt để do giai cấp vô sản lãnh đạo và lấy liên minh công
nông làm lực lượng chủ yếu.
Vận dụng sáng tạo những luận điểm của chủ nghĩa Mác về cách mạng
khơng ngừng vào hồn cảnh thực tiễn của nước Nga, kiên quyết đấu tranh chống
lại những khuynh hướng “hữu” và “tả” của bọn cơ hội trên vấn đề phát triển
cách mạng không ngừng. Những kẻ cơ hội “tả” nêu khẩu hiệu “khơng có chính
phủ Nga Hồng chỉ có chính phủ cơng nhân” thực chất của khẩu hiệu này là
muốn xoá bỏ giai đoạn cách mạng dân chủ tư sản làm gay cuộc cách mạng
XHCN và muốn thiết lập ngay chun chính vơ sản. Đường lối sai lầm ấy bất
chấp điều kiện lịch sử cụ thể, phủ nhận vai trị cách mạng của giai cấp nơng dân,
phủ nhận u cầu khách quan của cách mạng dân chủ tư sản. Nó khơng tránh
khỏi hậu quả tai hại lực lượng sản xuất là cô lập giai cấp vô sản, thủ tiêu vai trị
lãnh đạo của giai cấp vơ sản, xét đến cùng là từ bỏ chun chính vơ sản, từ bỏ
thắng lợi của CNXH.
Bọn cơ hội “hữu” khuynh thì từ chối vai trị lãnh đạo của giai cấp vơ sản
trong cách mạng dân chủ tư sản, từ chối vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản
trong cách mạng dân chủ tư sản, từ chối việc giành thắng lợi cho giai cấp vô sản
7



và có ý đồ cho cách mạng dừng lại nửa chừng. Họ cho rằng sau thắng lợi của
của cách mạng dân chủ tư sản giai cấp sẽ tách khỏi cách mạng vì thế cần có một
thời kỳ cách mạng tạm ngừng thời kỳ “yên tĩnh” kéo dài từ 50 - 100 năm hoặc
lâu hơn nữa. Trong thời kỳ ấy giai cấp vơ sản có thể bị bóc lột “một cách hồ
bình” cịn giai cấp tư sản có thể làm giàu “một cách chính đáng” cho đến khi
một cuộc cách mạng mới - cách mạng XHCN có đủ điều kiện để nổ ra.
Trung thành với chủ nghĩa Mác, Lênin chỉ ra rằng giai cấp vô sản và
những người dân chủ - xã hội Nga cần phải thấy rõ những điều kiện KT - XH và
sự phát triển trước mắt của xã hội Nga không cho phép họ xa lánh cuộc cách
mạng dân chủ tư sản, càng không cho phép họ đốt cháy giai đoạn cách mạng ấy
họ không thể tiến hành ngay cuộc cách mạng XHCN, không thể chủ trương vừa
đánh đổ chế độ Nga hoàng, vừa đánh bại toàn bộ giai cấp tư sản và thiết lập
ngay chun chính vơ sản được. Lênin phân tích rõ nước Nga lúc này trình độ
phát triển kinh tế, tức là điều kiện khách quan và trình độ giác ngộ chính trị,
trình độ tổ chức của đông đảo quần chúng vô sản, tức là điều kiện chủ quan chưa
cho phép giải phóng hồn tồn giai cấp vô sản. Theo Lênin, thời kỳ này quần
chúng công nhân chưa hiểu biết nhiều về những mục tiêu cả CNXH và về
phương pháp để thực hiện những mục tiêu đó. Thế mà sự nghiệp XHCN lại là sự
nghiệp của bản thân quần chúng công nhân, nghĩa là phải do họ làm lấy. Cho
nên giai cấp công nhân chưa được giác ngộ đầy đủ, chưa được tổ chức một cách
vững chắc, chưa được rèn luyện nhiều trong đấu tranh cách mạng cơng khai và
trực tiếp chống tồn bộ giai cấp tư sản, thì chưa thể nói đến cách mạng XHCN.
Trước yêu cầu phát triển khách quan của xã hội Nga, nếu bỏ qua cuộc
cách mạng dân chủ tư sản, làm ngay một cuộc cách mạng XHCN và thực hiện
ngay chun chính vơ sản, thì có nghĩa là giai cấp vô sản đã tự nguyện đẩy giai
cấp nông dân đi theo giai cấp tư sản, tự cơ lập mình, từ bỏ vai trị lãnh đạo của
mình, nhường vai trị ấy cho giai cấp tư sản và không tránh khỏi đi đến thất bại.
Cho nên trước hết giai cấp vô sản phải làm cách mạng dân chủ tư sản. Đó là con

đường duy nhất đúng đắn để đưa phong trào cách mạng Nga tiến lên, chứ khơng
có con đường nào khác. Lênin kịch liệt phê phán ý kiến của những người Men
sê vích cho rằng giai cấp vơ sản chỉ nên tham gia cuộc cách mạng dân chủ tư
sản với tư cách là một lực lượng hậu thuẫn cho giai cấp tư sản, giai cấp vô sản
Nga không nên giành quyền lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ tư sản, vì làm
như thế giai cấp tư sản tự do có thể lìa bỏ cách mạng làm cho qui mơ cách mạng
bị thu hẹp, lực lượng cách mạng bị yếu đi, theo Lênin cuộc cách mạng dân chủ
tư sản đương nhiên cũng có lợi cho giai cấp tư sản. Nhưng nếu giai cấp vơ sản
đóng vai trị lãnh đạo cách mạng, thì xét về triển vọng của cách mạng giai cấp
vô sản sẽ có lợi nhiều hơn giai cấp tư sản. Lênin viết: xét về mặt lợi ích của giai
cấp vơ sản thì cách mạng tư sản là tuyệt đối cần thiết, cuộc cách mạng ấy càng
kiên quyết triệt để bao nhiêu, thì những khả năng đấu tranh cho của giai cấp vô
sản cho CNXH chống giai cấp tư sản sẽ càng được bảo đảm bấy nhiêu. Kết luận
ấy chỉ có những kẻ khơng hiểu biết chút gì về CNXH khoa học mới cho là mới
mẻ lạ lùng hoặc ngược đời.
8


Lênin khẳng định rằng cuộc cách mạng dân chủ tư sản Nga là một cuộc
cách mạng của nhân dân với tư cách là giai cấp triệt để cách mạng, giai cấp vô
sản không những phải tham gia vào cuộc cách mạng ấy một cách hết sức kiên
quyết mà còn phải giữ trong đó một vai trị lãnh đạo. Giai cấp vơ sản khơng thể
giao phó cuộc cách mạng ấy cho giai cấp tư sản được vì nó đã bộc lộ rõ khuynh
hướng thoả hiệp với Nga hồng và chỉ có giai cấp vô sản mới là lực lượng đấu
tranh triệt để cho những mục tiêu tự do và dân chủ. Nếu giai cấp vô sản bỏ rơi
quyền lãnh đạo cách mạng, thì tất nhiên giai cấp tư sản sẽ nắm lấy, lịch sử sẽ lại
phát triển theo chiều hướng có lợi cho giai cấp tư sản, cách mạng dân chủ tư sản
sẽ không tạo ra những điều kiện thuận lợi mà tạo ra những trở ngại trên con
đường đấu tranh của giai cấp vơ sản vì CNXH. Lê nin chỉ rõ nếu giai cấp vô sản
chưa làm cách mạng CNXH thì như vậy tuyệt nhiên khơng có nghĩa là trì hoãn

cuộc cách mạng ấy. Trái lại làm cách mạng dân chủ tư sản triệt để là chuẩn bị
tích cực nhất để tiến lên cách mạng XHCN. Lênin khẳng định: chúng ta khơng
làm trì hỗn nó, chúng ta đang đi bước đầu để đạt tới nó bằng phương pháp duy
nhất có thể làm được và bằng con đường duy nhất chắc chắn, tức là con đường
chế độ cộng hoà dân chủ. Kẻ nào muốn đi tới CNXH bằng một con đường
khác… thì nhất định sẽ đi đến kết luận phi lý và phản động cả về phương diện
kinh tế cũng như về phương diện chính trị “cuộc cách mạng chống chế độ
chuyên chế chỉ là một nhiệm vụ tạm thời, chốc lát của những người XHCN,
nhưng nếu làm ngơ hay coi thường nhiệm vụ ấy thì ít nhiều chẳng khác gì phản
lại CNXH và làm lợi cho phe phản động, chuyên chính dân chủ cách mạng của
gai cấp vơ sản và nơng dân hồn tồn chỉ là một nhiệm tạm thời, chốc lát của
những người XHCN nhưng trong vòng thời kỳ cách mạng dân chủ làm ngơ
trước những nhiệm vụ ấy thì thật là phản động”1.
Lênin cũng vạch ra rằng: giai cấp vô sản làm cuộc cách mạng dân chủ tư
sản triệt để không phải là để dọn đường cho “một kết cục bi thảm” trong đó
những người lao động bị bóc lột “một cách hồ bình” cịn giai cấp tư sản “thì
được quyền làm giàu “một cách chính đáng” như bọn cơ hội chủ nghĩa đã nêu ra,
trái lại cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới phải tạo ra những tiền đề để
chuyển lên cách mạng XHCN một cách nhanh nhất và chắc chắn nhất. Theo
Lênin tương lai của cách mạng dân chủ tư sản ở Nga tất yếu sẽ là cuộc đấu tranh
của giai cấp những người lao động làm thuê chống giai cấp tư sản, một cuộc đấu
tranh cho CNXH. Lê nin khẳng định sau cuộc cách mạng dân chủ tư sản thắng
lợi, người ta không thể hứa hẹn một sự bình quân nào, một sự xã hội hoá êm thắm
nào, mà trước hết là “một cuộc đấu tranh mới, một sự bất bình mới” mà giai cấp
cơng nhân và những người Bơn sê vích phải đem hết sức ra thực hiện, vì rằng
cách mạng khơng còn ở trên con đường từ chế độ quân chủ chuyên chế tới chế
độ cộng hoà nữa, mà là trên con đường từ chế độ cộng hoà dân chủ tiểu tư sản tới
CNXH. “Một ngày kia, cuộc đấu tranh chống chế độ chuyên chế Nga hoàng sẽ
kết thúc và thời kỳ cách mạng dân chủ sẽ đi qua đối với nước Nga; lúc bấy giờ
1()


Lênin, toàn tập, tập 11 Nxb TBM 78 Tr 95.

9


nói đến chun chính vơ sản dân chủ thì thật là buồn cười, lúc bấy giờ chúng ta
sẽ nghĩ ngay đến chun chính cách mạng XHCN của giai cấp vơ sản”2.
2. Nội dung và thực tiễn tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong CMVS
2.1. Nội dung tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác Lênin trong CMVS
Trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” C.Mác - Ph.Ăng ghen đã chỉ ra con
đường giải phóng giai cấp công nhân phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thứ
nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản phải tiến hành cách
mạng giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền. Giai cấp vơ sản từ vị trí là giai
cấp tận cùng của xã hội tư bản chủ nghĩa phải phải vùng lên làm cách mạng
giành lấy chính quyền tự mình xây dựng thành giai cấp thống trị, thiết lập quyền
thống trị chính trị của mình.
Giai đoạn thứ hai trong cuộc cách mạng công nhân C.Mác - Ph.Ăng ghen
vạch rõ “giai cấp vô sản dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một
đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công
cụ sản xuất vò tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức
thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản
xuất”3. Lênin khẳng định: “Giữa cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và cách
mạng XHCN có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng, khăng khít, tác động lẫn
nhau. Cách mạng dân chủ tư sản càng triệt để bao nhiêu càng tạo điều kiện cho
cách mạng XHCN phát triển và giành thắng lợi cách mạng dân chủ tư sản và
cách mạng XHCN là hai giai đoạn tuy có khác nhau về tính chất, nhiệm vụ
nhưng đều nằm trong một quá trình vận động của cách mạng XHCN, đều đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng không được lẫn lộn giữa hai cuộc cách

mạng đó “cuộc cách mạng dân chủ thắng lợi chỉ có dọn đường cho một cuộc
đấu tranh thật sự và kiên quyết cho CNXH”4. Cách mạng dân chủ tư sản là màn
giáo đầu, tạo tiền đề cho cách mạng XHCN, còn cách mạng XHCN là xu thế tất
yếu của cách mạng dân chủ tư sản do giai cấp công nhân lãnh đạo. “Cuộc cách
mạng thứ nhất chuyển thành cuộc cách mạng thứ hai, nhân tiện giải quyết luôn
cả những vấn đề của cuộc cách mạng lần thứ nhất, cuộc cách mạng lần thứ hai
củng cố sự nghiệp của cuộc cách mạng lần thứ nhất” 5. Những người XHCN
không được quên rằng cuộc đấu tranh giai cấp nhất định sẽ còn diễn ra giữa giai
cấp tư sản và giai cấp vơ sản trong q trình chuyển biến từ CNTB lên CNXH.
Lênin khẳng định: “đấu tranh và chỉ có đấu tranh mới quyết định được chừng
mực nào cuộc cách mạng thứ hai vượt được cuộc cách mạng thứ nhất”6.
Về sự chuyển biến từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng XHCN
2( )

Lênin, toàn tập, tập 11 Nxb TBM 78 Tr95.
C.Mác - Ph.Ăng ghen toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, HN, 1995 Tr626.
4()
Lênin, toàn tập, tập 11 Nxb TBM 78 Tr163.
5()
Lênin, toàn tập, tập 44 Nxb TBM 80 Tr184.
6()
Lê nin, toàn tập, tập 44 Nxb TBM 80 Tr184.
3()

10


theo Lênin là khơng có “bức tường thành” ngăn cách hai giai đoạn cách mạng
đó, là khơng thể để một khoảng thời gian nghỉ ngơi nào cho giai cấp vô sản mà
là phải chuyển biến ngay cuộc cách mạng trước sang cuộc cách mạng thứ hai.

Lênin viết: phải vượt qua giai đoạn thứ nhất đó càng nhanh càng tốt, kết thúc
giai đoạn đó giành lấy chế độ cộng hồ, tiêu diệt thẳng tay phe phản cách mạng
và chuẩn bị cơ sở cho giai đoạn sau càng nhanh càng tốt. Trong bài Đảng dân
chủ - xã hội đối với phong trào nông dân, Lênin lại viết:“sau khi hàn thành cuộc
cách mạng dân chủ, chúng ta sẽ chiếu theo đúng lực lượng của chúng ta lực
lượng của giai cấp vô sản giác ngộ và có tổ chức mà tiến ngay lên con đường
cách mạng XHCN, chúng ta chủ trương làm cách mạng không ngừng, chúng ta
quyết không dừng lại nửa chừng”7.
Điều kiện để cách mạng phát triển không ngừng:
Quyền lãnh đạo của giai cấp cơng nhân thơng qua chính đảng của nó
khơng ngừng được tăng cường, củng cố trong suốt quá trình cách mạng.
Khối liên minh công - nông được củng cố, phát triển trong tiến trình
cách mạng.
Chun chính cơng - nơng phải chuẩn bị những điều kiện cần thiết để
chuyển sang thực hiện nhiệm vụ của chun chính vơ sản.
Ba điều kiện trên quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó điều kiện đảng lãnh
đạo giữ vai trò quyết định.
Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Lênin đã được kiểm
nghiệm trong thực tiễn thông qua cuộc cách mạng XHCN tháng Mười Nga năm
1917. Kỷ niệm lần thứ tư cuộc cách mạng tháng Mười, Lê nin viết: “chúng ta đã
tiến hành triệt để cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Chúng ta đã tiến hành một
cách hoàn toàn tự giác, kiên định và vững vàng tới cách mạng XHCN, biết rằng
khơng có một bức vạn lý trường thành nào ngăn cách cuộc cách mạng XHCN
với cuộc cách mạng dân chủ tư sản cả”8. Về tính triệt để của cuộc cách mạng
dân chủ tư sản thì khơng một cuộc cách mạng nào so sánh được với cuộc cách
mạng dân chủ tư sản Nga, nhưng không phải mọi vấn đề của cách mạng tư sản
đều đã được giải quyết, muốn củng cố được những thành quả của cách mạng dân
chủ tư sản giành được thì phải tiếp tục tiến lên, thực hiện cuộc cách mạng
XHCN.
Khái quát phong trào cộng sản công nhân quốc tế, phân tích hồn cảnh

thực tiễn của thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, tổng kết kinh nghiệm của cách mạng
Nga Lê nin nêu ra cho ba loại hình CMVS ở những nước khác nhau:
Những nước đã tiến hành cách mạng dân chủ tư sản thì giai cấp vơ sản
cần kết hợp đấu tranh cho dân chủ với cuộc đấu tranh để thực hiện mục tiêu của
cách mạng XHCN.
7()
8()

Lê nin, toàn tập, tập 11 Nxb TBM 78 Tr280.
Lê nin, toàn tập, tập 44 Nxb TBM 80 Tr180.

11


Những nước chưa qua cách mạng dân chủ tư sản, thì vẫn phải tiến hành
cách mạng dân chủ tư sản. Trong cuộc cách mạng đó, giai cấp cơng nhân khơng
chỉ tham gia mà còn phải nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng, đồn kết với
giai cấp nơng dân và các tầng lớp lao động khác, cô lập tư sản phản động, đánh
đổ phong kiến giành chính quyền, thiết lập chun chính cơng - nơng. Sau khi
cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới thành công chuyển sang làm nhiệm vụ của
chun chính vơ sản.
Những nước phụ thuộc, thuộc địa, trước hết phải làm cách mạng giải
phóng dân tộc, thực hiện quyền tự do dân chủ, từng bước tiến lên CNXH.
Những luận điểm về cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và nội dung phát
triển của Lênin về tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác đã trở
thành bộ phận quan trọng trong toàn bộ lý luận về cách mạng XHCN. Đó là
ngọn đuốc soi sáng con đường giải phóng cho các dân tộc trên thế giới.
2.2. Thực tiễn sử dụng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác
-Lênin trong CMVS
- Giai đoạn Mác - Ph.Ăng ghen:

Năm 1850 trong “lời kêu gọi của ban chấp hành trung ương gửi liên đoàn
những người cộng sản” C.Mác - Ph.Ăng ghen đã nêu lên khẩu hiệu “cách mạng
không ngừng” phải là khẩu hiệu chiến đấu của công nhân Đức: “lợi ích và
nhiệm vụ của những người cộng sản là làm cho cách mạng trở thành cách
mạng không ngừng cho đến khi tất cả các giai cấp hưu sản lớn hay nhỏ bị gạt
ra khỏi địa vị thống trị, cho đến khi giai cấp vơ sản giành được chính quyền nhà
nước, cho đến khi liên hợp của những người cộng sản không chỉ ở trong một
nước mà ở trong tất cả các nước chiếm địa vị thống trị trên thế giới đều phát
triển đến mức khiến cho sự cạnh tranh giữa những người vô sản trong những
nước sẽ ấy chấm dứt và chí ít thì những lực lượng sản xuất có tính chất quyết
định cũng sẽ được tập trung vào trong tay những người vô sản” 9. Công xã Pa-ri
là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử phong trào công nhân thế giới, lần đầu tiên
trong lịch sử giai cấp cơng nhân giành được chính quyền, giai cấp cơng nhân pa
ri đã làm nên nhiều kỳ tích mà từ đó C.Mác - Ph.Ăng ghen khái quát và phát
triển nhiều nguyên lý của CNXH khoa học. Nhưng Công xã chỉ tồn tại sau 72
ngày đêm chiến đấu và xây dựng xã hội mới, Cơng xã thất bại có nhiều ngun
nhân nhưng trong đó có ngun nhân cơng xã đã khơng làm cho cách mạng trở
thành “cách mạng không ngừng”: Nếu như sau khi giành được chính quyền ở
Pa ri, Cơng xã vũ trang cho cơng nhân truy kích kẻ thù tàn quân Chi e đến tận
Véc xây tiêu diệt hoàn toàn sinh lực của giai cấp tư sản, Công xã thực hiện được
nhiệm vụ “tước đoạt kẻ đi tước đoạt” quốc hữu hố ngân hàng - một cơng cụ
quan trọng trong tay tư bản tài chính, thì chắc chắn Cơng xã đã làm nên kỳ tích
của phong trào cộng sản cơng nhân quốc tế. Tiếc thay Công xã hăng hái, say xưa
xây dựng một xã hội mới nhưng công xã quên mất kẻ thù đang rình rập ở cửa
9()

C.Mác - Ph.Ăng ghen toàn tập, tập7, Nxb CTQG, HN,1995 Tr346.

12



ngõ nhà mình. Cơng xã thiếu tinh thần cách mạng tiến công, tạo cơ hội cho giai
cấp tư sản tập hợp lực lượng quay về tấn công Công xã và cuối cùng gây ra tuần
lễ đẫm máu - Công xã thất bại.
- Giai đoạn Lênin:
Sau Cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai năm 1917, ở Nga tồn tại tình
trạng 2 chính quyền song song, một bên là Chính phủ lâm thời tư sản và một bên
là Xô Viết các đại biểu công nhân và binh sĩ, đứng đầu là Xơ Viết Pê-tơ-rơ-grát.
Trước tình hình đó, V.I.Lênin và Đảng Bơn-sê-vích đã xác định cách mạng Nga
là chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng XHCN.
Tháng 4-1917, V.I.Lênin về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Nga.
Đêm 24-10-1917 theo lịch cũ nước Nga (tức đêm 6-11-1917), khởi nghĩa vũ
trang nổ ra ở thủ đô Pê-tơ-rô-grát. Ngày 25-10-1917 theo lịch cũ nước Nga (tức
ngày 7-11-1917), các lực lượng khởi nghĩa đã làm chủ tình hình ở thủ đơ Pê-tơrô-grát, trừ cung điện Mùa Đông và một vài nơi. Tới 2 giờ 10 phút, rạng sáng
26-10-1917, cung điện Mùa Đơng được giải phóng, các bộ trưởng trong chính
phủ lâm thời bị bắt giữ. Cuộc khởi nghĩa vũ trang tại Pê-tơ-rô-grát kết thúc
thắng lợi.
Ngày 25-10-1917 theo lịch cũ nước Nga (tức ngày 7-11-1917) đã được
ghi vào lịch sử là ngày thắng lợi của Cách mạng XHCN tháng Mười vĩ đại.
Cách mạng tháng Mười Nga là một trong những sự kiện vĩ đại nhất của
thế kỷ XX, đánh dấu một mốc mới trong lịch sử phát triển của nhân loại. Nó đã
xóa bỏ các giai cấp bóc lột, tư sản, địa chủ và chế độ người bóc lột người, đưa
giai cấp vơ sản bị áp bức, bóc lột nặng nề thành giai cấp đứng đầu và làm chủ xã
hội; giải phóng nhân dân lao động, đưa người lao động từ thân phận nô lệ trở
thành chủ nhân của đất nước.
Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã dẫn tới sự ra đời của Nhà nước
XHCN - nhà nước chun chính vơ sản đầu tiên trong lịch sử loài người và làm
cho CNXH từ lý luận trở thành hiện thực trong đời sống chính trị thế giới. Nó báo
hiệu q trình cải tạo thế giới theo CNXH và chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu.
Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra một bước ngoặt căn bản trong lịch

sử loài người, từ thế giới tư bản chủ nghĩa sang thế giới XHCN, mở ra một thời
đại mới - thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Cách mạng tháng Mười Nga đánh đổ chủ nghĩa đế quốc ở ngay “chính
quốc”, đồng thời đánh vào hậu phương của nó là các nước thuộc địa của Nga
hồng, mở ra thời kỳ vùng dậy khơng gì ngăn cản được của các dân tộc bị áp
bức, giành độc lập, tự do, làm lay chuyển hậu phương rộng lớn của chủ nghĩa đế
quốc khắp thế giới.
Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã cổ vũ, lôi cuốn mạnh mẽ
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của những nước thuộc địa ở châu Á,
châu Phi, châu Mỹ Latinh. Thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân
tộc và cách mạng XHCN ở một loạt nước, như: Ba Lan, Bulgaria, Cộng hòa Dân
13


chủ Đức, Hungary, Tiệp Khắc, Albania, Mông Cổ, Triều Tiên, Cu Ba và Việt
Nam đã tạo nên những tiền đề thực tế cho sự ra đời của một hệ thống xã hội mà
trước đó chưa từng tồn tại trong lịch sử và chỉ một thời gian ngắn sau khi ra đời
- hệ thống các nước XHCN đã đóng vai trị chi phối với nhiều quá trình quan
trọng của thế giới hiện đại.
Cách mạng tháng Mười Nga có ý nghĩa lịch sử và tính chất quốc tế vơ
cùng sâu rộng; khơng một cuộc cách mạng nào trong thời đại ngày nay lại không
chịu ảnh hưởng sâu xa của Cách mạng tháng Mười. Nó cho thấy: trong thời đại
ngày nay, sự kết hợp tất yếu và tự nhiên giữa cuộc đấu tranh vì dân chủ và cuộc
đấu tranh vì CNXH, giữa dân chủ và CNXH chẳng những là mục tiêu mà còn là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy tiến bộ xã hội, đưa xã hội lồi người tới tự do, cơng
bằng, bình đẳng và văn minh.
CHƯƠNG 2
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG
TƯ TƯỞNG CÁCH MẠNG KHƠNG NGỪNG VÀO THỰC TIỄN
CÁCH MẠNG VIỆT NAM


1. Q trình Đảng tổ chức thực hiện vận dụng tư tưởng cách mạng
không ngừng vào cách mạng Việt Nam
1.1. Vận dụng tư tưởng cách mạng khơng ngừng khi chưa giành được
chính quyền đến Cách mạng tháng Tám năm 1945
Cuối thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam suy tàn triều đình nhà
Nguyễn mục ruỗng với chính sách cai trị hà khắc, bế quan toả cảng không chịu
tiếp thu những kế sách canh tân đất nước của các sỹ phu yêu nước có tư tưởng
tiến bộ, đã làm cho đất nước Việt Nam ngày càng trở nên nghèo nàn lạc hậu, khối
đại đoàn kết dân tộc, cội nguồn sức mạnh làm nên những chiến công hiển hách
trong lịch sử dựng nước và giữ nước, tạo dựng nên nền văn hiến hàng nghìn năm
rực rỡ của dân tộc bị phá hoại. Sự yếu hèn của triều đình phong kiến, sự ly tán của
lịng dân… đã tạo ra thời cơ cho thực dân pháp nổ súng tấn công xâm lược nước
ta vào năm 1858. Nhà nguyễn đã khơng cịn đủ sức mạnh và dũng khí để lãnh
đạo dân tộc Việt Nam chống pháp, gìn giữ giang sơn, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Ngược lại, vì lợi ích hẹp hịi của mình vua quan nhà Nguyễn từng bước đầu hàng
thực dân pháp. Hiệp ước Patơ nốt mà triều đình nhà Nguyễn ký với thực dân Pháp
đã dâng nước ta cho giặc. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam chưa có một triều đình
phong kiến nào hèn hạ đến mức bán rẻ cả oai linh dân tộc, hào khí con cháu Lạc
Hồng, q gối thừa nhận kẻ xâm lược ngoại bang là “nước mẹ” như triều đình nhà
Nguyễn. Nhưng, nhân dân Việt Nam với truyền thống yêu nước nồng nàn, kiên
cường, bất khất, ý chí độc lập tự chủ noi gương những anh hùng xã thân vì xã tắc
của Hồng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Tơn Thất Thuyết đã liên tiếp đứng lên
chống thực dân pháp xâm lược. Những phong trào chống pháp của nông dân Yên
thế, Phan Đình Phùng…làm cho kẻ thù khiếp sợ. Đầu thế kỷ XX do ảnh hưởng
của tư tưởng dân chủ phương tây, trực tiếp nhất là tác động của cách mạng Tân
Hợi Trung Quốc nhiều nhà chí sỹ Việt Nam như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
14



Nguyễn Thái Học muốn giành độc lập cho dân tộc. Nhưng tất cả các phong trào
đấu tranh đều bị thất bại bởi vì các phong trào đó thiếu một đường lối chính trị
đúng đắn, tuy nhiên các phong trào đó đã thổi bùng lên phong trào yêu nước của
nhân dân các dân tộc Việt Nam.
Sinh thời Nguyễn Ái Quốc rất khâm phục tinh thần yêu nước thương nòi
của các bậc sỹ phu, nhưng người khơng đồng tình với con đường họ lựa chọn.
Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Sau nhiều năm
bơn ba ở nước ngoài, người tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin, khi đọc luận
cương của Lê nin về vấn đề thuộc địa người thốt lên như đang nói trước đồng
bào của mình: hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ hạnh phúc là đây cơm áo đây
rồi. Cách mạng XHCN tháng Mười như mặt trời chiếu rọi khắp năm châu, “biến
người nơ lệ thành người tự do”. Từ đó Người hoàn toàn tin tưởng đi theo con
đường của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người đi đến kết luận rằng: muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác ngồi con đường CMVS.
Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam. Ngày 3/2/1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra
đời chấm dứt sự khủng khoảng về đường lối chính trị của phong trào yêu nước.
Với đường lối chính trị đúng đắn trên cơ sở trung thành và vận dụng sáng tạo lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn một nước thuộc địa nửa phong kiến
Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn thành sự nghiệp
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên xây dựng CNXH.
1.2. Vận dụng tư tưởng cách mạng không ngừng khi giành được chính
quyền Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975
Giá trị lý luận tư tưởng cách mạng không ngừng của Lê nin, kinh nghiệm
cách mạng tháng Mười Nga, đã được Hồ chí Minh nắm bắt và vận dụng vào quá
trình lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Tư tưởng cách
mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lê nin là cơ sở lý luận chỉ đạo đường
lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, trên tất cả các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, qn sự, ngoại giao trong tồn bộ q trình đấu tranh giành chính
quyền, cũng như trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc CNXH.

Ngay trong cương lĩnh chính trị đầu tiên Đảng ta đã xác định:“làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản” 10. Như
vậy là ngay từ cương lĩnh đầu tiên đảng ta đã xác định quá trình cách mạng Việt
Nam phải trải qua hai giai đoạn giai đoạn thứ nhất là làm cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, sau khi hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân thì tiến lên
CNXH. Giữa hai cuộc cách mạng đó khơng có sự ngăn cách. Cách mạng Tháng
Tám thành cơng, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hồ - nhà nước cơng nơng
đầu tiên ở Đơng nam Á ra đời không được bao lâu thực dân pháp lại quay lại âm
mưu xâm chiếm Việt Nam một lần nữa. Cả dân tộc ta bước vào cuộc kháng
chiến chống mới thực dân pháp xâm lược. Đứng trước kẻ thù mạnh hơn ta gấp
nhiều lần, vận dụng tư tưởng cách mạng khơng ngừng của chủ nghĩa Mác 10()

Hồ chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, HN, 1995, Tr28.

15


Lênin và thực tiễn cách mạng Việt Nam Đảng cộng sản Việt Nam đề ra đường
lối chiến lược “Vừa kháng chiến vừa kiến quốc”; cuộc kháng chiến của dân tộc
chỉ giành được thắng lợi khi chính quyền cách mạng được giữ vững, chúng ta có
đủ sức mạnh để đánh thắng đội quân nhà nghề của thực dân Pháp trên chiến
trường. Trong điều kiện chiến tranh ác liệt nhưng đảng ta vẫn kiên trì con đường
cách mạng XHCN Đại hội lần thứ hai Đảng cộng sản Việt Nam tháng 2/1951
khẳng định: sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chúng ta sẽ
tiến thẳng ngay lên CNXH mà không kinh qua con đường tư bản chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực quân sự Đảng ta xác định: cuộc kháng chiến của chúng ta trải qua
ba giai đoạn: giai đoạn cầm cự, giai đoạn phịng ngự, giai đoạn phản cơng; vừa
đánh vừa xây dựng lực lượng; đánh thắng từng bước, đánh bại từng phần các
chiến lược quân sự của địch. Lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, phát triển
chiến tranh nhân dân, buộc địch phải đánh theo cách đánh của ta; từ tác chiến

nhỏ từng bước phát triển tác chiến chiến dịch nhỏ, vừa, lớn; từ các đơn vị nhỏ
phát triển dần thành các trung đoàn, đại đoàn quân; từng bước chuyển hoá tương
quan so sánh lực lượng trên chiến trường, giành quyền chủ động, nắm vững thời
cơ, tổ chức tác chiến chiến lược, chủ động tổng phản công tiêu diệt địch, kết
thúc chiến tranh bằng chiến thắng Điện Biên Phủ.
Sau năm 1954 đất nước tạm thời bị chia cắt, Miền Bắc hồn tồn giải
phóng, nhưng ở Miền Nam chính quyền Ngơ Đình Diệm can tâm làm tay sai cho
đế quốc Mỹ, phản bội hiệp ước Giơ-ne-vơ lê máy chém đi khắp Miền Nam đàn áp
cách mạng. Không chịu khuất phục nhân dân Miền Nam vùng lên “đồng khởi” vũ
trang đánh giặc. Tháng 1/1959 Đảng ta ra Nghị quyết Trung ương 15 về đường lối
quân sự của cách mạng miền nam. Nghị quyết Trung ương 15 là sự thể hiện đặc
sắc tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lê nin trong đường
lối quân sự của Đảng: đánh địch ở cả ba vùng chiến lược, đánh địch bằng ba mũi
giáp công, ba lực lượng, khởi nghĩa vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần phát
triển thành chiến tranh cách mạng giải phóng miền nam thống nhất đất nước. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ ba năm 1960 xác định con đường của cách mạng Việt
Nam: Miền Bắc tiến lên xây dựng CNXH, làm hậu phương lớn chi viên cho Miền
Nam, Miền Nam tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải
phóng miền nam thống nhất đất nước. Một đảng đồng thời chỉ đạo hai chiến lược
cách mạng khác nhau, ở hai miền khác nhau để thực hiện một mục tiêu chung là
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, đưa cả nước tiến
lên CNXH. Đây là điều mà ngay chủ nghĩa Mác - Lê nin cũng chưa hề đề cập đến
trong lý luận cách mạng XHCN của mình. Trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ
cứu nước “tư tưởng cách mạng không ngừng” của chủ nghĩa Mác - Lê nin được
Đảng ta vận dụng linh hoạt sáng tạo và phát triển trở thành nghệ thuật chỉ đạo
chiến tranh cách mạng: Nghệ thuật đánh thắng từng bước. Trên chiến trường
Miền Nam, quân và dân ta, từng bước giành quyền chủ động tác chiến, chuyển
hoá tương quan so sánh lực lượng quân sự; “tìm Mỹ mà đánh, tìm nguỵ mà diệt”
chủ động đánh địch trên khắp chiến trường Miền Nam, lần lượt đánh bại 5 chiến
lược chiến tranh của Mỹ, buộc Mỹ phải tìm cách rút quân khỏi cuộc chiến tranh

16


Việt Nam. Nghệ thuật đánh thắng từng bước được đúc kết trong lời thơ chúc tết
năm 1969 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào.
Miền Bắc vừa xây dựng CNXH vừa đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ bảo vệ Miền Bắc, chi viện cho chiến trường Miền Nam, quân dân cả
nước thi đua thực hiện thắng lợi hai chiến lược cách mạng của Đảng. Trên mặt
trận ngoại giao ta chủ động tranh thủ các nước XHCN, các lực lượng tiến bộ trên
thế giới, ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của ta. Đối với Mỹ ta chủ trương
“vừa đánh, vừa đàm”; đàm phán để tranh thủ thời cơ, tạo điều kiện để đánh địch
trên chiến trường; đẩy mạnh tác chiến giành thắng lợi trên chiến trường tạo ra sức
mạnh của ta trên bàn đàm phán. Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược mùa hè
1972 và chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” đánh bại cuộc tiến công bằng
không quân chiến lược của Mỹ trên bầu trời Hà Nội đã buộc đế quốc Mỹ phải
chấp nhận ký hiệp định Pari, rút quân khỏi Miền nam Việt Nam theo những điều
khoản có lợi cho ta. Quán triệt sâu sắc “tư tưởng cách mạng khơng ngừng” phát
triển nó trở thành nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng, trong suốt cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước Đảng ta đã tích cực tạo thời cơ, nắm thời cơ,
chớp thời cơ chiến lược, chủ động mở cuộc tổng tiến công chiến lược mùa xuân
1975 giải phóng Miền nam thống nhất Tổ quốc.
Ngay sau khi đất nước hồn tồn giải phóng đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ V khẳng định: Chúng ta đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
và tiến lên xây dựng CNXH không trải qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa.
Nhưng trong thời gian dài chúng ta phạm phải nhiều sai lầm khuyết điểm, trong
cải tạo và xây dựng CNXH, chủ quan duy ý chí, thiếu tôn trọng qui luật khách
quan làm cho kinh tế kém phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn…
trước tình hình đó Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI đề ra đường lối đổi mới để
tiếp tục con đường XHCN mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa
chọn.

Hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới chúng ta đã đứng vững trước
những cơn sóng gió chính trị của thời đại khi mà Liên xơ và Đơng Âu sụp đổ,
thốt ra khỏi thời kỳ khủng khoảng kéo dài và đạt được những thành tựu to
lớn: kinh tế phát triển, chính trị ổn định, đời sống của nhân dân không ngừng
được cải thiện, QPAN được giữ vững, uy tín của Việt Nam ngày càng được
nâng cao trên trường quốc tế. Giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và
CNXH Việt Nam ngày nay đã có đủ sức mạnh để từng bước hội nhập vào đời
sống quốc tế.
2. Vận dụng tư tưởng cách mạng không ngừng vào sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc ngày nay
2.1. Sự cần thiết vận dụng tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ
nghĩa Mác - Lê nin vào thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày nay
Thực tiễn công cuộc bảo vệ Tổ quốc XHCN từ sau Cách mạng Tháng
Mười ở các nước XHCN đã khẳng định những giá trị khoa học và cách mạng
của học thuyết Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc XHCN. Những tư tưởng cơ bản
17


trong học thuyết của Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc XHCN khơng những có giá
trị lịch sử, mà cịn có ý nghĩa hiện thực tiếp tục chỉ đạo công cuộc bảo vệ Tổ
quốc XHCN trong giai đoạn hiện nay.
Trung thành và vận dụng, phát triển sáng tạo học thuyết của Mác - Lênin
về bảo vệ Tổ quốc XHCN, trong q trình lãnh đạo cơng cuộc bảo vệ Tổ quốc
XHCN trên miền Bắc từ năm 1954 và trên cả nước từ sau thắng lợi của cuộc
tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Đảng ta đã đề ra đường lối chiến
lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đúng đắn, sáng tạo và đã triển khai tổ
chức thực hiện đem lại những thành tựu to lớn, toàn diện, đảm bảo cho Tổ quốc
Việt Nam XHCN được bảo vệ vững chắc, tạo cơ sở cho việc tổ chức và triển
khai công cuộc xây dựng đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, từng bước hiện thực hoá

mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trên đất nước ta.
Trong thời kỳ mới, công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN tiếp tục
diễn ra trong bối cảnh mới với những nhận định rất quan trọng của Đảng ta về
bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH” (Bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ: “Đặc điểm
nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và
trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh
tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các
nước vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp
nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật
tiến hóa của lịch sử, lồi người nhất định sẽ tiến tới CNXH”. Báo cáo Chính trị
tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục nhận định: “Trên thế giới: hịa bình,
hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp,
tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc
tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố
vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công
nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thơng, sinh học,
mơi trường…cịn tiếp tục gia tăng” và “Ở trong nước: Những thành tựu, kinh
nghiệm của hơn 30 năm đổi mới (1986-2017) đã tạo cho đất nước thế và lực
mới, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước…Tuy nhiên, nước ta vẫn
đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến
phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình
trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là
nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến
hồ bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”
hịng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa
rời mục tiêu của CNXH, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến
phức tạp.

Trong những điều kiện đó, hơn lúc nào hết, chúng ta phải tiếp tục trung
18


thành, vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết của Mác - Lê nin về bảo vệ Tổ
quốc XHCN phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể hiện nay ở nước ta.
Trong đó, phải tiếp tục khẳng định những vấn đề rất cơ bản về mục tiêu, nhiệm
vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN;
kết hợp phương thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh phi vũ trang để bảo vệ Tổ
quốc XHCN; tổ chức và động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tạo nên lực
lượng tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc XHCN; phát huy sức mạnh vật chất và sức
mạnh tinh thần, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh của truyền
thống và hiện đại trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; kết hợp
chặt chẽ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc XHCN theo tư duy mới về bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới.
2.2. Phương hướng vận dụng tư tưởng cách mạng không ngừng của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay
Quan điểm về bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta khẳng định trong Đại hội
XII: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu,
thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta”. Là sự trung thành, vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện
mới và từ tư duy, phát triển lý luận đến tổng kết thực tiễn của Đảng, nhất là 30
năm đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc vừa qua. Đây là cơ sở, nền tảng quan
trọng để Đảng, Nhà nước và nhân dân ta triển khai, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc mà Đại hội XII của Đảng đã đề ra.
Tập trung vào các nội dung sau:
Một là xây dựng thế trận lòng dân trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Đảng ta xác định: “Ngăn ngừa, loại bỏ nguy cơ chiến tranh, xung đột từ
sớm, từ xa” để bảo vệ Tổ quốc là phù hợp với xu thế chung và tinh thần chủ
động giữ nước của dân tộc ta. Để thực hiện được chiến lược này, trước hết

phải xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ
Tổ quốc...
Đây là nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, của cả hệ thống chính trị, trong đó vai trị lãnh đạo của Đảng, sự điều
hành, quản lý của Nhà nước là yếu tố quyết định. Xây dựng thế trận lòng dân
vững chắc trong thời bình nhằm chuyển hóa thế trận đó thành sức mạnh trong
thời chiến. Đây cũng chính là kế sách chiến lược để ngăn ngừa nguy cơ chiến
tranh trong tương lai.
Do vậy, cần tăng cường giáo dục quan điểm, đường lối của Đảng về xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, tự
tôn dân tộc, đấu tranh bất khuất, ý thức quốc phịng cho cả hệ thống chính trị,
mọi tầng lớp nhân dân trong khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố nói riêng và cả
nước nói chung. Xây dựng nền QPTD gắn với xây dựng thế trận chiến tranh
nhân dân; xây dựng quân đội, LLVT đủ mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới.
19


Cần tăng cường hợp tác, mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo sự tin tưởng, ủng
hộ chống chiến tranh phi nghĩa, lên án hành động gây chiến tranh của đối
phương và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng, lơi kéo, kích động, chia
rẽ, ly khai... của các thế lực thù địch. Kết hợp chặt chẽ phát triển KT-XH với
QP-AN và QP-AN với phát triển KT-XH để không ngừng tăng cường tiềm lực
quốc phòng; phát triển KT-XH và thực hiện chủ trương, chính sách hợp lịng
dân, tạo sức mạnh, khả năng đối phó với chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới.
Hai là xây dựng LLVT và nền QPTD vững mạnh.
Xây dựng nền QPTD là nhân tố cốt lõi, nền tảng để đất nước ta tăng
cường sức mạnh quốc phịng, bảo vệ Tổ quốc. Đó cũng là tư tưởng chỉ đạo nhất
quán, xuyên suốt của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, được Nghị quyết

Trung ương 8 (khóa XI) tiếp tục quán triệt, coi đó là một trong những nhiệm vụ
và giải pháp chủ yếu để thực hiện thắng lợi “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới”. Xây dựng nền QPTD vững mạnh, tạo nền tảng vững chắc để
tăng cường sức mạnh quốc phòng là quan điểm cơ bản, tư tưởng chỉ đạo nhất
quán của Đảng ta xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Trước yêu cầu cao
của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhiệm vụ này càng quan
trọng và là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống
chính trị, trong đó LLVT nhân dân là nòng cốt.
Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn thực hiện Nghị quyết Trung ương
8 (khóa IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc” (BVTQ), Hội nghị Trung ương 8
(khóa XI) đã ra Nghị quyết 28-NQ/TW về Chiến lược BVTQ trong tình hình
mới. Trong đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: củng cố vững chắc nền
QPTD và ANND. Điều đó thể hiện quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta trong việc thực hiện thắng lợi mục tiêu, phương hướng cơ bản của cách
mạng Việt Nam mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH (bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác định; đồng thời, thể hiện sự phát
triển mới về nhận thức và hành động của Đảng đối với sự nghiệp BVTQ trong
tình hình mới. Đặc biệt hiện nay, trong điều kiện đất nước hịa bình, hội nhập
quốc tế sâu, rộng, sự nghiệp BVTQ không chỉ nhằm đối phó với nguy cơ can
thiệp, xâm lược từ bên ngồi, mà cịn góp phần quan trọng làm thất bại âm mưu,
thủ đoạn “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch thì đẩy
mạnh xây dựng nền QPTD như Nghị quyết đã xác định càng có ý nghĩa quan
trọng.
LLVT ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ)
được xây dựng ngày càng vững mạnh, thực sự là lực lượng nòng cốt trong xây
dựng nền QPTD; cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, ln kiên định
với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ được giao. Cùng với nhiệm vụ SSCĐ bảo vệ chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lực lượng quân đội đã phối hợp chặt chẽ với lực
lượng công an theo Nghị định số 77/2010/NĐ-CP của Chính phủ, nâng cao khả

20


năng, hiệu quả phịng ngừa, ngăn chặn, xử trí các tình huống về QP-AN. Đồng
thời, thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ,
cứu nạn; tích cực tham gia giúp đỡ nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nơng
thơn mới, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới,
hải đảo,... Những kết quả quan trọng, thiết thực đó góp phần tăng cường tiềm lực,
sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Thời gian tới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta tiến hành trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục
diễn biến phức tạp, tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen.
Đáng chú ý là, tình hình Biển Đơng vẫn tiềm ẩn nguy cơ khó lường, khơng loại
trừ có đột biến. Các thế lực thù địch tiếp tục ráo riết chống phá nước ta bằng
chiến lược “diễn biến hịa bình”, với thủ đoạn hết sức thâm độc, nguy hiểm; thúc
đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” LLVT, nhằm xóa bỏ sự
lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN,...Trước tình hình đó, chúng ta phải tiếp tục
đẩy mạnh xây dựng nền QPTD vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong mọi tình huống.
Ba là xây dựng các khu vực phịng thủ quốc gia vững mạnh.
Trong q trình lãnh đạo cơng cuộc đổi mới từ Đại hội VI đến nay, Đảng
ta luôn khẳng định: phải đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy, lý luận.
Về phương diện QP-AN, BVTQ, có thể nói rằng: xây dựng KVPT là một nội
dung, hay đúng hơn là một chủ trương thể hiện rõ sự đổi mới tư duy, phát triển
lý luận của Đảng, theo tư tưởng chỉ đạo đó.
KVPT được tổ chức theo địa giới hành chính tỉnh (thành phố), huyện
(quận, thị xã) là bộ phận của nền QPTD, nằm trong hệ thống phòng thủ chung
của quân khu và cả nước. Mục tiêu xây dựng KVPT là nhằm ngăn ngừa, làm
thất bại âm mưu và hoạt động “Diễn biến hịa bình”, gây bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch; giữ vững ổn định chính trị, mơi trường hịa bình để phát triển

KT-XH, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; xử lý có hiệu quả các tình huống về
QP-AN, giữ vững chủ quyền biên giới, biển đảo; sẵn sàng đánh thắng chiến
tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc địa phương, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ
quốc XHCN. Như vậy, có thể khẳng định: xây dựng và hoạt động của KVPT là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược vừa mang tính cấp thiết, vừa cơ bản lâu dài trong
sự nghiệp xây dựng và BVTQ; là nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân.
Qua hơn 20 năm triển khai xây dựng và hoạt động của KVPT theo Nghị
quyết 02- NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VI), chúng ta đã đạt được những kết
quả quan trọng: công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP-AN được đẩy mạnh,
tạo sự chuyển biến rõ về nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và toàn
dân đối với nhiệm vụ xây dựng KVPT; tiềm lực và sức mạnh của KVPT được
tăng cường; chất lượng tổng hợp của LLVT địa phương được nâng cao; thế trận
KVPT được củng cố ngày càng vững chắc, tạo sự liên hồn trong thế phịng thủ
chung của qn khu và cả nước; cơ chế lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và
21


hoạt động của KVPT được thực hiện nghiêm túc, vận dụng sáng tạo, hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được là cơ bản, trong quá trình xây dựng KVPT
cũng còn bộc lộ một số hạn chế, khuyết điểm cần được kịp thời rút kinh nghiệm,
có biện pháp khắc phục.
Từ thực tiễn cho thấy, để tổ chức xây dựng và hoạt động của KVPT đi vào
chiều sâu, vững chắc, đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra, điều quan trọng trước hết là
phải bám sát tư tưởng chỉ đạo của Đảng; cụ thể là: nắm vững 4 quan điểm cơ
bản, 5 nguyên tắc và 5 giải pháp chủ yếu mà Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ
Chính trị “Về tiếp tục xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành
khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới” và Nghị định 152/2007/NĐCP của Chính phủ “Về khu vực phịng thủ” đã xác định. Trên cơ sở đó, từng địa
phương vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với tình hình thực tiễn của mình,
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ.

Bốn là phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tận dụng thời cơ,
đẩy lùi thách thức, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là quan điểm cơ bản của
Đảng và cũng là một bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, trước bối
cảnh quốc tế và yêu cầu mới của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bài học
đó cần tiếp tục được quán triệt, thực hiện; song điều quan trọng là cần có chiến
lược, sách lược, hình thức, phương pháp đúng đắn, sáng tạo.
Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu nhiều bài học quý; trong đó, "Kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc
tế " là một trong những bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Hơn 80 năm qua,
nhất là trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược
(1945-1975), ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo nên sức mạnh đoàn kết to lớn của dân tộc, của
tất cả những người Việt Nam yêu nước, yêu độc lập, tự do, không phân biệt trai
gái, già trẻ, giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc..., dựa trên nền tảng vững chắc là liên
minh cơng nhân với nơng dân và trí thức, dưới chế độ dân chủ nhân dân và
XHCN, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Mặt khác, do mục tiêu cách mạng, mục
đích chính trị của cuộc chiến tranh yêu nước, chính nghĩa của dân tộc ta phù hợp
với khát vọng chung, mục tiêu chung của thời đại là hồ bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội; cùng với chiến lược đối ngoại đúng đắn của Đảng và
nghệ thuật đấu tranh ngoại giao tài tình, khơn khéo, sáng tạo, chúng ta đã phát
huy cao độ yếu tố quốc tế, yếu tố thời đại thành sức mạnh hiện thực, nên cuộc
kháng chiến của nhân dân ta ngày càng được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to
lớn, chí tình cả về vật chất và tinh thần của các nước XHCN và lực lượng cách
mạng, tiến bộ trên thế giới. Vận dụng và phát triển sáng tạo bài học đó trong quá
trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng hơn 30 năm qua, chúng ta đã đạt
được những thành tựu to lớn và rất quan trọng: kinh tế tăng trưởng nhanh; chính
trị - xã hội ổn định; QP-AN được giữ vững; công tác đối ngoại, hội nhập kinh tế
22



quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả. Thế và lực của đất nước đã vững
mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo
tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Những thực tiễn lịch sử đó chứng minh
rằng, để tạo nên sức mạnh to lớn, giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc và đổi mới xây dựng đất nước, chúng ta phải biết khai thác
và phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, sức
mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, trên cơ sở kiên định ý chí độc lập, tự
chủ, phát huy sức mạnh nội lực, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ
ngoại lực, khai thác tối đa sức mạnh của thời đại.
Hiện nay, bối cảnh quốc tế, khu vực có những biến đổi to lớn và sâu sắc,
với nhiều mối quan hệ đan xen, đa dạng, phức tạp; trong đó, các nước với chế độ
xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh,
cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cùng với đó, những thách thức
về an ninh đối với nước ta cũng đa dạng, phức tạp, nguy hiểm hơn, nhất là việc
giải quyết tranh chấp chủ quyền biển, đảo và chống lại mưu đồ lợi dụng “mở
cửa” để đẩy mạnh “diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Tình hình đó địi hỏi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới phải có chiến lược, sách
lược, hình thức và phương pháp xử lý đúng đắn, sáng tạo.
2.3. Vận dụng tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác Lênin của các đơn vị Hải quân trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo
Tổ quốc hiện nay
Hiện nay, tình hình Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy
cơ khó lường, tác động trực tiếp đến ổn định chủ quyền, an ninh vùng biển, đảo
của Tổ quốc. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ của Quân chủng Hải quân rất nặng
nề, yêu cầu cao. Để hoàn thành trọng trách là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ
chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc, vận dụng tư tưởng cách mạng không ngừng của
chủ nghĩa Mác - Lênin của các đơn vị Hải quân trong sự nghiệp bảo vệ chủ

quyền biển đảo Tổ quốc hiện nay, các đơn vị cần phải có tư duy mới, nỗ lực
mới, triển khai đồng bộ các giải pháp; trong đó tập trung vào những nội dung
chủ yếu sau:
Một là, thường xuyên giáo dục, xây bản lĩnh chính trị, niềm tin, ý chí với
quyết tâm huấn luyện SSCĐ cho cán bộ, chiến sỹ trong đấu tranh bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc ở các đơn vị cơ sở.
Quá trình thực hiện, các cơ quan, đơn vị cần đặc biệt chú trọng công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng. Trước hết, tập trung quán triệt cho bộ đội nhận thức
đúng tầm quan trọng của biển đảo, nắm chắc nhiệm vụ, quan điểm, đường lối
quân sự, quốc phòng được thể hiện trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, trọng
tâm là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới”; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về “Chiến lược biển Việt
Nam đến năm 2020”. Trên cơ sở đó, chủ động, sáng tạo trong tổ chức triển khai
23


thực hiện nhiệm vụ, chuẩn bị tốt các phương án đấu tranh theo đúng chủ trương,
đối sách của Đảng khi xử lý các vấn đề phức tạp, nhạy cảm ở Biển Đông, không
để xảy ra bất ngờ hoặc sơ hở để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Đồng
thời, phải giáo dục để mỗi người nhận thức đúng về đối tác, đối tượng, thấy rõ
âm mưu thủ đoạn của nước ngoài cùng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
biển, đảo trong tình hình mới; từ đó, nêu cao cảnh giác, trách nhiệm chính trị,
chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Cùng với đó, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân chủng chỉ đạo các cơ quan,
đơn vị coi trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện
và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, nhất là các chi bộ trên tàu, ở các đảo và
đơn vị SSCĐ, bảo đảm thực sự trong sạch, vững mạnh theo Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI). Chú trọng giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt
động lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt tự
phê bình và phê bình; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh theo Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) gắn với thực hiện
các phong trào thi đua, các khâu đột phá, tạo chuyển biến mạnh mẽ về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống, góp phần tăng cường trận địa tư tưởng của Đảng ở
cơ quan, đơn vị.
Hai là, kết hợp giữa đổi mới nâng cao chất lượng huấn luyện và trình độ
SSCĐ của cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị.
Trước hết cần tập trung nâng cao khả năng và trình độ SSCĐ của Hải quân
Nhân dân Việt Nam lên một bước vững chắc hơn nhằm đối phó có hiệu quả với
mọi tình huống xảy ra trên biển. Đi đơi với tinh nhuệ về chính trị, cán bộ, chiến sĩ
phải tinh nhuệ về khoa học quân sự (khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học kỹ
thuật quân sự) và khả năng tác chiến, tinh thông chuyên môn nghiệp vụ. Muốn
vậy, Quân chủng Hải quân phải chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác
huấn luyện, giáo dục - đào tạo theo tinh thần Nghị quyết số 765-NQ/QUTW,
ngày 20/12/2012, của Quân ủy Trung ương, về “Nâng cao chất lượng huấn
luyện giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo”. Thực hiện tốt phương
châm huấn luyện “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ
và chuyên sâu, huấn luyện đêm, trong điều kiện thời tiết phức tạp, sát thực tế
chiến đấu, sát nhiệm vụ và địa bàn hoạt động, phù hợp với tổ chức biên chế, vũ
khí, trang bị, trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí công nghệ cao, trong cả
4 môi trường: không - bộ - biển - ngầm, tạo bước chuyển biến về chất lượng,
trình độ chỉ huy, tham mưu tác chiến. Huấn luyện cho bộ đội sử dụng thành thạo
vũ khí, trang bị trong biên chế, làm chủ và khai thác tốt các loại vũ khí, trang bị
mới, hiện đại, nâng cao trình độ kỹ - chiến thuật, hiểu biết sâu sắc về truyền
thống đánh giặc và nghệ thuật quân sự của dân tộc “lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch
nhiều”. Tích cực diễn tập, luyện tập thuần thục các phương án tác chiến, sẵn
sàng đối phó thắng lợi với mọi tình huống xảy ra, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

24



Xuất phát từ bối cảnh thế giới, khu vực và tình hình đất nước, trước yêu
cầu cấp thiết của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, Đại hội XI
của Đảng xác định phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam từng
bước hiện đại, trong đó, Hải quân nhân dân Việt Nam được ưu tiên xây dựng
hiện đại. Đây là chủ trương đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và
Nhà nước ta, phù hợp với xu thế khách quan và thực tiễn của đất nước. Được sự
quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc
phòng, Quân chủng Hải quân đã thực hiện đúng phương hướng, lộ trình, kế
hoạch đề ra và đạt được những kết quả quan trọng, một số lĩnh vực có bước phát
triển nhanh, mang tính đột phá. Qn chủng đã kiện tồn tổ chức biên chế, xây
dựng lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, đồng bộ, đủ các
binh chủng, ngành; bố trí lực lượng có trọng điểm trên các hướng chủ yếu, khu
vực quan trọng. Nhờ vậy, chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng SSCĐ của
Quân chủng không ngừng được nâng lên.
Ba là, kết hợp xây dựng đơn vị có đời sống vật chất tinh thần tốt với quản
lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả vũ khí trang bị kỹ thuật ở đơn vị Hải quân.
Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc là trách
nhiệm của toàn Đảng, toàn quân và tồn dân ta, trong đó Bộ đội Hải qn là lực
lượng nòng cốt. Đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ đang công tác trên các đảo, nhà
giàn, cuộc sống của họ mang tính biệt lập, tách rời đời sống thường nhật trong
đất liền; các mối liên hệ với xã hội và gia đình chủ yếu gián tiếp thơng qua các
phương tiện truyền thơng. Đặc điểm đó đã và đang đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy các
cấp phải phát huy tính chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, quan tâm hơn
nữa tới đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Từ đó hình thành tình u với
tàu, với biển đảo, nhà giàn trong mỗi cán bộ, chiến sĩ.
Môi trường và điều kiện sống, sinh hoạt, huấn luyện, chiến đấu của bộ đội
Hải quân luôn tác động đến phẩm chất chính trị tinh thần của họ. Bộ đội Hải qn
ln phải sống và chiến đấu trên những hịn đảo nhỏ giữa biển khơi, bốn bề chỉ là
mênh mơng sóng nước, là mục tiêu cố định, trơ trọi dưới hỏa lực cực mạnh của

đối phương đó là một áp lực tâm lý, một thử thách tinh thần cao độ với con người.
Đảo nổi đã thế, cịn những đảo chìm chỉ là nhà giàn nổi lên giữa biển, không gian
chật hẹp, đi lại khó khăn, cảm giác cơ độc, lo sợ của con người trước cả dữ dội,
bão tố, gió mưa… không phải là không xuất hiện trong từng cán bộ, chiến sĩ Hải
quân, nhất là đối với số cán bộ, chiến sĩ lần đầu tiên công tác ở Trường Sa. Bởi vì
dù sao họ cũng chỉ là con người nhỏ bé với khả năng có hạn trước thiên nhiên
hùng vĩ với sức mạnh khủng khiếp. Điều này ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý
không an tâm công tác, ảnh hưởng đến tư tưởng của bộ đội Hải quân. Nhiệm vụ
của người lãnh đạo, chỉ huy đơn vị cần phải động viên, khích lệ làm cho họ vượt
qua được trạng thái tâm lý tiêu cực, thích nghi nhanh với mơi trường sống.
Trước yêu cầu cao của nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ chủ quyền
biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, việc nâng cao chất lượng hơn nữa đời sống
vật chất, tinh thần, để bội đội Hải quân coi “tàu là nhà, biển, đảo là hương” càng
25


×