Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

THỰC TRẠNG đàm PHÁN về tự DO THƯƠNG mại DỊCH vụ TRONG KHUÔN KHỔ WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.13 KB, 11 trang )

THỰC TRẠNG ĐÀM PHÁN VỀ TỰ DO THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ TRONG
KHUÔN KHỔ WTO
CHƯƠNG I: Tổng quan về tự do hóa thương mại dịch vụ trong khn khổ WTO
1.1. Khái quát về thương mại dịch vụ.
1.1.1. Khái niệm về thương mại dịch vụ.
Hiện nay, thương mại dịch vụ là một khái niệm chưa được nêu rõ ở bất cứ văn bản
luật nào. Thương mại dịch vụ như một cách vô hình ln xuất hiện cạnh bên thương mại
hàng hóa. Chỉ đơn giản như muốn bán một vật phẩm nếu không giới thiệu sản phẩm hay
hướng dẫn cách sử dụng mặt hàng đó như nào thì sẽ chẳng có ai mua đồ, đó cũng là những
dịch vụ vơ hình chung phải cung cấp để có thể bán được hàng hóa.
Trên cơ sở định nghĩa, thương mại dịch vụ được hiểu là sự trao đổi dịch vụ giữa các
tổ chức, cá nhân với nhau vì mục đích thương mại. Hoạt động thương mại dịch vụ theo
GATS khơng chỉ được bó hẹp trong phạm vi trong một quốc gia mà được mở rộng với các
quốc gia tham gia WTO. Do đó, thương mại dịch vụ quốc tế là sự trao đổi dịch vụ giữa


các thể nhân; pháp nhân trong nước với các thể nhân; pháp nhân nước ngồi nhằm mục
đích thương mại.
1.1.2. Các hình thức cung cấp dịch vụ.
Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) phân ngành dịch vụ ra thành
những khu vực như kinh doanh, thông tin, du lịch, giáo dục,... và đưa ra những phương
thức điều chỉnh thương mại dịch vụ.
Theo khoản 2 Điều I của GATS, phương thức điều chỉnh được phân chia dựa trên cơ
sở vị trí địa lý lãnh thổ của người cung ứng và người sử dụng dịch vụ. Bao gồm có 4
phương thức:
Phương thức 1: Cung ứng qua biên giới - dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một
Thành viên đến lãnh thổ của bất kỳ một Thành viên nào khác.
Phương thức 2: Tiêu thu tại nước ngoài - dịch vụ được sử dụng trên lãnh thổ của một
Thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác.
Phương thức 3: Hiện diện thương mại - dịch vụ được cung cấp bởi một người cung
cấp dịch vụ của một Thành viên, thông qua sự hiện diện thương mại trên lãnh thổ của bất


kỳ Thành viên nào khác.


Phương thức 4: Hiện của các thể nhân - dịch vụ được cung cấp bởi một người cung
cấp dịch vụ của một Thành viên thông qua sự hiện diện thể nhân trên lãnh thổ của bất kỳ
Thành viên nào khác.

1.2. Khái quát về tự do hóa thương mại dịch vụ.
1.2.1. Bản chất của tự do hóa trong thương mại dịch vụ.
Tự do hóa thương mại là thuật ngữ chỉ hoạt động loại bỏ các cản trở hiện hành đối
với thương mại hàng hóa và dịch vụ bao gồm cả hành động loại bỏ những hạn chế về mặt
đầu tư. Tự do hóa thương mại hướng tới xóa bỏ phân biệt đối xử giữa hàng hóa sản xuất
trong nước và hàng hóa được nhập khẩu, xét về mặt bản chất sự xóa bỏ này sẽ tạo điều
kiện cho thương mại quốc tế phát triển.
Sự phát triển của thương mại quốc tế của mỗi quốc gia đòi hỏi phải phá bỏ đi những
rào cản về thuế quan, phi thuế quan, các hàng rào kỹ thuật, và các rào cản mang tính chính
trị - xã hội. Muốn phá bỏ các rào cản các quốc gia phải thông qua các cam kết song
phương, đa phương tiến hành cắt giảm thuế quan và hạn chế các rào cản.


Sau sự ra đời của WTO, các hoạt động thương mại khơng chỉ bó hẹp trong hàng hóa
mà cịn được mở rộng ra cả lĩnh vực dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư và thương mại dịch vụ.
Vì thế bản chất của tự do hóa thương mại dịch vụ là tự do hóa thương mại.
1.2.2. Các hình thức của tự do hóa thương mại dịch vụ
Trong những thập niên gần đây, tự do hóa thương mại dần trở nên phổ biến trên thế
giới và là một chính sách được nhiều quốc gia chấp nhận với nhiều mức độ khác nhau tùy
thuộc điều kiện từng nước. Trên tổng thể, có thể thấy tự do hóa thương mại được biểu hiện
dưới những hình thức sau:
Thứ nhất, thơng qua các diễn đàn thương mại đa biên.
Đây là hình thức phổ biến nhất được các quốc gia lựa chọn trong quá trình tiến hành

tự do hóa thương mại. Biểu hiện rõ ràng nhất của hình thức này chính là các vịng đàm
phán về Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) và sau này là Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) với mục tiêu “tự do hóa thương mại” được đặt lên hàng đầu.
Ra đời vào tháng 10 năm 1948, Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT) là một thể chế quan trọng thúc đẩy thực hiện các chương trình hành động vì sự tự
do hóa thương mại. Sự mở rộng trên quy mô ngày càng lớn của các vòng đàm phán trong


GATT về nội dung, cách thức và số lượng các quốc gia tham gia đàm phán, đặc biệt là sự
tham gia tích cực của các nước đang phát triển và chậm phát triển là một minh chứng
thuyết phục nhất chứng minh cho xu hướng tất yếu tự do hoá thương mại trên tồn cầu và
tính phổ biến của hình thức tiến hành tự do hoá thương mại này.
Năm 1995, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) với các điều lệ mới đã ra đời thay
thế cho GATT. Vẫn tiếp tục theo đuổi những mục tiêu đã được đề ra của hiệp định GATT,
đó là: tự do hố thương mại tồn cầu, song WTO không phải là một sự mở rộng đơn thuần
của GATT. So với GATT, WTO là một tổ chức tồn cầu có tổ chức chặt chẽ, có những thể
chế, nguyên tắc và cách thức hoạt động rõ ràng.
Sự mở rộng và lớn mạnh không ngừng của WTO cho thấy tính hiệu quả và phổ biến
của hình thức tiến hành tự do hố thương mại thơng qua các diễn đàn thương mại đa biên
này.
Thứ hai, thông qua hội nhập khu vực.
Hội nhập khu vực cũng là một hình thức của tự do hoá thương mại được nhiều nước
lựa chọn. Đặc trưng của hình thức này là dựa trên nguyên tắc có đi có lại giữa các quốc gia


thành viên và tiến trình tự do hố được tiến hành thông qua đàm phán trên một diện rộng
các vấn đề liên quan đến thương mại.
Trên thế giới đã hình thành nhiều khối liên kết khu vực và liên khu vực ở các châu
lục, trong đó tiêu biểu là: Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC); Hiệp hội mậu dịch tự do
châu Âu (EFTA); Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); Khu vực mậu dịch tự do

Bắc Mỹ (NAFTA); Hiệp định thương mại tự do lục địa châu Phi (AfCFTA).
Mục tiêu chủ yếu của các liên kết kinh tế khu vực là tạo ra một môi trƣờng thƣơng
mại ưu đãi trong khu vực trên cơ sở loại trừ các rào cản thuế quan và phi thuế quan, tạo
điều kiện thuận lợi cho dòng thương mại giữa các nƣớc thành viên. Bên cạnh các biện
pháp giảm hàng rào thuế quan, các bên còn dành cho nhau những ưu đãi về tiêu chuẩn xuất
xứ, thủ tục hải quan... góp phần giảm tối đa mọi rào cản thương mại giữa các nước, tiến tới
tự do hố thương mại hồn tồn trong khu vực.
Thứ ba, các hiệp định thương mại song phương.
Tuy khơng phổ biến như hai hình thức trên, các hiệp định thương mại song phương
cũng là một hình thức hiệu quả, có tính khả thi cao và dễ dàng được đàm phán trong tiến
trình tự do hóa thương mại. Lý do là bởi chúng được ký kết giữa hai quốc gia, trong đó nêu


ra những điều kiện để tiến hành các hoạt động thương mại. Khi các cuộc đàm phán cho
một hiệp định thương mại đa phương không thành công, các quốc gia sẽ thay thế bằng
cách đàm phán các hiệp định song phương.
Mặc dù vậy, các quốc gia vẫn nên cân nhắc một cách thận trọng về mặt lợi và hại
trước khi quyết định ký kết một hiệp định song phương. Bởi trong nhiều trường hợp, hình
thức này khơng thực sự đem lại lợi ích cho một hoặc cả hai bên.
Thứ tư, tự do hóa thương mại đơn phương.
Từ những lợi ích mà tự do hóa thương mại mang đến cho nền kinh tế của đất nước
mình, nhiều quốc gia đã chủ động đơn phương cắt giảm các hàng rào nhập đối với hàng
hóa dịch vụ nhập khẩu. Qua đó, các quốc gia mong muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
và các nguồn tài nguyên trên thị trường thế giới, đồng thời tăng sức cạnh tranh trên thị
trường nội địa, là chất xúc tác thúc đẩy quá trình tự lực trưởng thành của các ngành sản
xuất non trẻ trong nước, tạo điều kiện phát triển thương mại cũng là động lực cho sự phát
triển của toàn bộ nền kinh tế.
Xu hướng này bắt đầu vào khoảng những năm cuối thế kỉ XIX, trước khi có sự ra đời
của GATT, với các quốc gia tiêu biểu như: Singapore, Australia, Newzeland,..



Tuy khơng phổ biến trong tiến trình tự do hóa thương mại, song hình thức này góp
phần làm cho tiến trình tự do hóa thương mại trở nên đa dạng hơn./.
1.3 Tác động của thương mại dịch vụ trong thương mại quốc tế
1.3.1 Những lợi ích của tự do hóa thương mại dịch vụ
Thứ nhất, đối với người tiêu dùng. Nhờ có sự tự do hóa thương mại, những người
tiêu dùng sẽ có điều kiện tiếp cận với dịch vụ một cách dễ dàng hơn. Khi các dịch vụ được
cung cấp trở nên đa dạng, những nhu cầu của người tiêu dùng qua đó cũng được thỏa mãn
ở mức độ cao nhất.
Việc một số thị trường dịch vụ như tài chính, viễn thơng, vận tải, hạ tầng,… được tự
do hóa là tiền đề tác động tích cực đến mọi ngành nghề trong nền kinh tế. Qua đó, chi phí
đầu tư sản xuất, kinh doanh dịch vụ giảm, giúp cho người tiêu dùng được sử dụng các dịch
vụ với chi phí thấp hơn. Vì đây cũng là đầu vào cho các ngành sản xuất hàng hóa khác, nên
chi phí sản xuất và giá cả hàng hóa cũng giảm theo.
Nói chung, nhờ có tự do hóa thương mại dịch vụ lợi ích của người tiêu dùng được
tăng lên đáng kể: giá cả hàng hóa – dịch vụ sẽ giảm xuống, đồng thời dịch vụ được cung
cấp cũng trở nên đa dạng hơn.


Thứ hai, đối với các nhà cung cấp dịch vụ. Đây sẽ là cơ hội giúp những người sản
xuất nâng cao lợi nhuận của mình, cũng như chi phí đầu vào cho quá trình vận hành. Trước
khi mở cửa thị trường thương mại, có rất ít sự lựa chọn về đơn vị cung cấp hàng hóa dịch
vụ để lựa chọn, do đó các nhà cung cấp dịch vụ thường bị thua thiệt do bị chèn ép. Tự do
hóa thương mại dịch vụ đã góp phần quan trọng làm giảm tình trạng độc quyền mua, làm
tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Nói chung, tự do hố thị trường dịch vụ sẽ làm giảm chi phí, nâng cao lợi nhuận và
tăng cường sức cạnh tranh của mình, đồng thời khơng bị ép buộc phải cung cấp cho một
đầu mối duy nhất.
Thứ ba, tự do hóa thương mại dịch vụ cũng tác động tới toàn bộ nền kinh tế.
Trước hết, mở cửa thị trường dịch vụ giúp cho các nguồn lực trong nền kinh tế được

sử dụng một cách hiệu quả hơn. Thông qua quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
các nguồn lực đầu vào (vốn, sức lao động, công nghệ,… ) được phân bổ và sử dụng một
cách hiệu quả, đồng thời cũng góp phần thức đẩy q trình chuyển giao cơng nghệ.
Mặt khác, tự do hóa dịch vụ sẽ tạo môi trường cạnh tranh cho các dịch vụ hạ tầng
như giao thông, vận tải, viễn thông,… Một số dịch vụ được cung cấp ra thị trường quốc tế


với doanh thu và lợi nhuận cao hơn trước đây do chi phí giao dịch quốc tế giảm nhờ có tự
do thương mại.
Tự do hóa thương mại góp phần xóa bỏ độc quyền, tạo ra một sân chơi bình đẳng
khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh khơng ngừng. Các doanh nghiệp yếu kém sẽ bị
đào thải dần khỏi cuộc chơi, nhường chỗ cho những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả
nhất.
1.3.2 Những hạn chế của tự do hóa thương mại dịch vụ
Mở cửa thị trường dịch vụ đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp trong nước sẽ phải
chịu sự cạnh tranh gay gắt hơn từ các doanh nghiệp nước ngồi có nhiều kinh nghiệm và
lợi thế so sánh trong cung cấp dịch vụ hơn. Mặt khác,c ác doanh nghiệp sẽ không còn được
bảo hộ như khi chưa mở cửa nền kinh tế. Do đó, nếu các cơng ty này khơng nâng cao năng
lực cạnh tranh hoặc có nhưng khơng đáng kể, việc chào thua với các doanh nghiệp nước
ngoài ngay trên sân nhà là điều không tránh khỏi.
Tự do thương mại giúp các quốc gia đang phát triển thu hút vốn đầu tư nước ngồi,
góp phần thúc đẩy tăng trưởng ở các quốc gia này. Tuy nhiên nếu quá phụ thuộc vào


chúng, các quốc gia có thể phải nhận hậu qua xấu khi các nguồn vốn này rút khỏi thị
trường trong nước do tác động của khủng hoảng.
Tự do thương mại tuy giúp người tiêu dùng được hưởng lợi vì giá thấp. Tuy nhiên,
trong một số lĩnh vực chẳng hạn như nơng nghiệp, người sản xuất có thể phải chịu rủi ro vì
sự giảm giá này.


1.

/>
hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-trong-thuong-mai-quoc-te-122913.html
2.

/>
duoc-huong-loi-tu-tu-do-thuong-mai-104637.aspx
3. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS



×