Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Từ việc nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường hãy rút ra ý nghĩa thực tiễn đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.29 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI
QUỐC DÂN

HỌC KINH TẾ

BÀI TẬP LỚN
MƠN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Đề Tài 3:
Từ việc nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
trong nền kinh tế thị trường. Hãy rút ra ý nghĩa thực tiễn đối với
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.

Họ và Tên: Thái Thị Thoa
Mã Sv: 11194925
Lớp: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (219) - 17
Hà Nội -2020
PHẦN MỞ ĐẦU


Theo V.I Lênin, Giá trị thặng dư là “hòn đá tảng” của học thuyết kinh tế của
Mác, là những giá trị cốt lõi của Chủ nghĩa Mác – Lênin được bổ sung, phát triển trong
bối cảnh mới. Khi nghiên cứu lí luận giá trị thặng dư, theo C.Mác, để tăng tỷ suất và
khối lượng giá trị thặng dư cần có các phương pháp nhất định và ông đã chỉ ra nhà tư
bản sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường. Đó
là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tương đối. Và hai phương pháp sản xuất này có ý nghĩa quan trọng đối với
nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa của nước ta hiện nay.
Với mong muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, em đã chọn đề tài: “Từ việc
nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị
trường. Hãy rút ra ý nghĩa thực tiễn đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã


hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.” Thông qua bài tiểu luận này, em xin trình bày lại
những gì mà mình đã tìm hiểu về hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong kinh
tế chính trị Mác-Lê nin gửi đến cơ. Có lẽ kiến thức là vơ hạn mà sự tiếp nhận kiến thức
của bản than mỗi người luôn tồn tại những hạn chế nhất định. Do đó, trong q trình
hồn thành bài tiểu luận, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân em rất
mong nhận được những góp ý đến từ cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.


Kính chúc cơ sức khỏe, hạnh phúc thành cơng trên con đường sự nghiệp giảng
dạy.

PHẦN NỘI DUNG

I.Nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền
kinh tế thị trường.

Để hiểu rõ hơn về hai phương pháp sản xuất, trước tiên ta phải tìm hiểu về giá
trị thặng dư và quy luật sản xuất giá trị thặng dư.


1. Giá trị thặng dư và quy luật sản xuất giá trị thặng dư:
1.1. Giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dơi ra ngồi giá trị sức lao động do người
bán sức lao động (người lao động làm thuê) tạo ra và thuộc về nhà tư bản (người mua
hàng hóa sức lao động).
Giá trị thặng dư được Mác xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và số
tiền nhà tư bản bỏ ra trong kinh doanh. Nhà tư bản bỏ ra tư bản dưới hình thức tư liệu
sản xuất gọi là tư bản khả biến. Tuy nhiên, người lao động sẽ đưa vào hàng hóa một
lượng giá trị lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư bản trả cho người lao động. Phần dư
ra được gọi là giá trị thặng dư, tức là số lượng của hàng hóa mà người lao động làm ra

có giá trị cao hơn phần tiền mà nhà tư bản trả cho công nhân và mức chênh lệch đó là
giá trị thặng dư.
1.2. Đặc điểm quy luật sản xuất giá trị thặng dư.
Theo C.Mác, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ nghĩa tư
bản. Và giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân tạo ra là nguồn gốc làm
giàu của các nhà tư bản.


Trong những điều kiện hiện nay, sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm
như sau:
Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối lượng
giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng suất lao động. Việc tăng năng suât lao
động do áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại có đặc điểm là chi phí lao động sống
trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh, vì máy móc hiện đại thay thế được nhiều lao
động sống hơn.
Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến
đổi lớn. Do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên lao động phức tạp, lao
động trí tuệ tăng lên và thay thế lao động giản đơn, lao động cơ bắp. Do đó, lao động
trí tuệ, lao động có trình độ kỹ thuật cao ngày càng; có vai trò quyết định trong việc sản
xuất ra giá trị thặng dư. Chính nhờ sử dụng lực lượng lao động ngày nay mà tỷ suất và
khối lượng giá trị thặng dư đã tăng lên rất nhiều.
Ba là, sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế ngày càng
được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hóa, trao đổi khơng
ngang giá... lợi nhuận siêu ngạch mà các nước tư bản phát triển bòn rút từ các nước
kém phát triển trong mấy chục năm qua đã tăng lên gấp nhiều lần. Sự cách biệt giữa
những nước giàu và những nước nghèo ngày càng tăng và đang trở thành mâu thuẫn



nổi bật trong thời đại ngày nay. Các nước tư bản phát triển đã bịn rút chất xám, hủy
hoại mơi sinh cũng như cội rễ đời sống văn hóa của các nước lạc hậu, chậm phát triển.

2. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường:
2.1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động
vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động
và thời gian lao động tất yếu khơng thay đổi. Từ đó làm thời gian lao động thặng dư
tăng lên và tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Phương pháp nâng cao trình độ bóc lột
bằng cách kéo dài tồn bộ ngày lao động một cách tuyệt đối gọi là phương pháp sản
xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối.
Cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa chính là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối được sử dụng phổ biến trong giai
đoạn đầu chủ nghĩa tư bản. Trong giai đoạn này, kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp,
lao động cịn ở trình độ thủ cơng thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là
kéo dài ngày lao động của cơng nhân. Lúc này bằng lịng tham vô hạn, các nhà tư bản
giở mọi thủ đoạn kéo dài ngày lao động nhằm nâng cao khả năng bóc lột sức lao động
cơng nhân làm th. Tuy nhiên sức lực con người có hạn. Hơn nữa vì cơng nhân đấu
tranh quyết liệt đòi rút ngắn ngày lao động nên các nhà tư bản không thể kéo dài ngày


lao động vô thời hạn. Nhưng ngày lao động cũng không được rút ngắn đến mức bằng
thời gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối chính là tăng cường độ lao động. Bởi vì tăng cường độ lao động cũng
tương tự việc kéo dài thời gian lao động trong ngày nhưng thời gian lao động cần thiết
không đổi.
Ta xét ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời
gian lao động thặng dư là 4 giờ, được biểu diễn bằng sơ đồ sau đây:

(Thời gian lao động tất yếu)


(Thời gian lao động thặng dư)

Mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 15 đơn vị, thì giá trị thặng dư tuyệt
đối là 60 và tỷ suất giá trị thặng dư là:

m’=

Nếu ngày lao động thêm 1 giờ nữa, mọi điều khác vẫn như cũ, thì giá trị thặng
dư tuyệt đối tăng lên 75 và m’ cũng tăng lên thành:

m’=


Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động
tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị
thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là 125%.
Việc kéo dài ngày lao động không thể vượt q giới hạn sinh lý của cơng nhân
(vì họ cịn phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe) nên gặp
phải sự phản kháng gay gắt của giai cấp cơng nhân địi giảm giờ làm. Giai cấp công
nhân đã đấu tranh và ngày lao động chỉ cịn 8 giờ mỗi ngày. Vì lợi nhuận bản thân, khi
độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, nhà tư bản tìm cách tăng cường độ lao
động của công nhân. Tăng cường độ lao động về thực chất cũng tương tự như kéo dài
ngày lao động. Vì vậy, thời gian lao động và cường độ lao động là để sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối.
Hạn chế của phương pháp này là vấp phải cuộc đấu tranh kinh tế của cơng nhân
địi tăng lương giảm giờ làm.

2.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao

động tất yếu, do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động
không thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.


Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp nâng cao trình
độ bóc lột, bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo dài thời gian lao
động thặng dư trong điều kiện độ dài của ngày lao động vẫn như cỹ.
Ta xét ví dụ sau: Giả sử ngày lao động là 8 giờ với thời gian lao động tất yếu là
4 giờ và thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, được biểu diễn bằng sơ đồ sau đây:

(Thời gian lao động tất yếu)

(Thời gian lao động thặng dư)

Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là: m’=
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3
giờ lao động đã tạo ra được một lượng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của
mình Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi là: 3 giờ là thời gian lao động tất
yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó được biểu diễn như sau:

(Thời gian lao động tất yếu)

(Thời gian lao động thặng dư)


Do đó, bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là: m’=
Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 167%.
Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao
động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất
yếu phải giảm trị sức lao động. Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm bớt giá trị

các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Muốn vậy, phải tăng
năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản
xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu sản xuất tiêu dùng. Bởi vì việc kéo dài
ngày lao động bị giời hạn về thể chất và tinh thần của người lao động và vấp phải cuộc
đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấo công nhân. Mặt khác, khi sản xuất Tư bản
chủ nghĩa phát triển trên giai đoạn công nghiệp cơ khí kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng
suất lao động tăng lên nhanh chóng thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột
dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá
trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản
xuất và của năng suất lao động xã hội dưới Chủ nghĩa Tư bản đã trải qua ba giai đoạn


hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại cơng nghiệp cơ khí, đó cũng là q trình
nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Hạn chế của phương pháp này là làm gia tăng tình trạng thất nghiệp của công
nhân. Mặc dù giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối có sự khác nhau,
nhưng chúng đều là một bộ phận giá trị mới, do cơng nhân sáng tạo, đều có nguồn gốc
là lao động không được trả công.

II. Ý nghĩa thực tiễn của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay.
Hiện nay, hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư có ý nghĩa rất to lớn đối với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Đối với quá trình phát
triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi
mở cho các nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao động và sản xuất kinh

doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao động xã hội, coi


đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nền kinh tế quốc dân là là giải pháp cơ bản để
tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Để nghiên cứu kỹ hơn về ý nghĩa của nó, chúng ta sẽ nghiên cứu phần thực trạng
việc áp dụng hai phương pháp trong thực tiễn cũng như hạn chế của nó và giải pháp
khắc phục.

1..Thực trạng áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào nền kinh
tế Việt Nam.
Trong học thuyết của C.Mác có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, tuy
nhiên, Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa nên phương thức tạo ra giá trị
thặng dư tuyệt đối không sử dụng được, thời gian lao động không bị kéo quá 8 tiếng
một ngày hay 48 tiếng một tuần theo Điều 68 Bộ Luật Lao Động. Nhằm gạt bỏ mục
đích và tính chất của chủ nghĩa tư bản thì có thể áp dụng phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tương đối và biến tấu của nó -giá trị thặng dư siêu ngạch vào nền kinh tế Việt
Nam. Trước đổi mới, các doanh nghiệp Việt Nam đều là doanh nghiệp nhà nước được
nhà nước bao cấp hoàn toàn. Sản phẩm làm ra theo định lượng của nhà nước, thậm chí
là cịn khơng cần biết việc sản phẩm đó tạo ra có đúng nhu cầu của thị trường hay
khơng, vì thế mà nền kinh tế trì trệ. Sau đổi mới năm 1986, các doanh nghiệp nhà
nước khơng cịn hồn tồn được nhà nước bao cấp nữa mà bắt đầu phải tự chủ, bước


vào nền kinh tế thị trường, đồng thời, các doanh nghiệp tư nhân đầu tiên cũng ra đời.
Tiếp đến, sự tràn vào các hàng hóa các nước khác, đặc biệt là hàng Trung Quốc giá rẻ
đã tạo nên một áp lực lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. Áp lực này buộc họ
phải đổi mới công nghệ nhằm tăng sức cạnh tranh để có thể tồn tại và đứng vững trong
nền kinh tế thị trường. Để tạo ra nhiều giá trị thặng dư, các doanh nghiệp tập trung
chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm, đầu tư vào máy móc, công nghệ và phương thức

sản xuất mới. Ban đầu họ mua cơng nghệ và máy móc lỗi thời với giá rẻ rồi dần chuyển
sang cơng nghệ hiện đại hơn. Ngồi ra, các chuyên gia nước ngoài được mời về để
chuyển giao công nghệ. Sau khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam xuất hiện
nhiều đối thủ mới, phải cạnh tranh quyết liệt trong điều kiện mới. Vì thế, việc đổi mới
cơng nghệ và nâng cao trình độ nguồn nhân lực trở thành nhu cầu cấp bách hơn.

2..Hạn chế của việc áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào
nền kinh tế Việt Nam.
Chúng ta có thể thấy được những mặt hạn chế khi công nghệ của Việt Nam dù
đã được cải tiến rất nhiều nhưng vẫn còn thua kém rất nhiều so với các nước phát triển,
do phần lớn các cơng nghệ này vẫn cịn là cơng nghệ đã khơng cịn được sử dụng ở
nước ngồi mà được bán lại với giá thành rẻ. Và với những doanh nghiệp có nguồn lực
hạn hẹp, thì sau khi đổi mới cơng nghệ một lần thì họ phải chờ một quãng thời gian dài


mới có thể huy động tiền để tiếp tục đổi mới công nghệ trong khi khoa học kỹ thuật
đang biến đổi từng ngày. Ngoài ra, khi ngân sách nhà nước và tiền của các nhà doanh
nghiệp đầu tư cho vấn đề con người là rất lớn nhưng hiện nay số người có khả năng
đáp ứng yêu cầu tuyển dụng vẫn còn thấp, bởi đầu tư vào giáo dục vẫn chưa đem lại
hiệu quả.

3.Giải pháp.
Các doanh nghiệp trong nước cần cố gắng hơn nữa trong việc thay đổi công
nghệ. Cần nâng cấp các trang thiết bị hiện đại để tăng năng suất lao động; đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao để tạo ra nhiều giá trị thặng dư; tiến hành hợp tác với
các doanh nghiệp nước ngoài tạo ra điều kiện giúp doanh nghiệp Việt Nam có được
những cơng nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất; kết hợp giờ làm việc hợp lí với các
hoạt động giải trí và chương trình bảo hiểm lao động cho cơng nhân; nâng cao chất
lượng dạy và học, giảm dần khoảng cách giữa lí thuyết và thực tế, học phải đi đơi với
hành.

Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu
sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch địch chính sách phương thức làm
tăng của cải, thúc đấy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là
lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng


suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân
là giải pháp cơ bản để tăng suất lao động xã hội.
Quy luật giá trị thặng dư đã phát huy vai trò to lớn của nó đem lại những tiến bộ
vượt bậc và thành tựu kinh tế cho Chủ Nghĩa Tư Bản. Nước ta nói riêng và các Xã Hội
Chủ Nghĩa nói chung cần nỗ lực không ngừng trên con đường của mình để xây dựng
Xã Hội Chủ Nghĩa trên thế giới. Riêng nước ta, đang trong giai đoạn độ lên Chủ Nghĩa
Xã Hội từ chế độ Phong Kiến bỏ qua giai đoạn Tư Bản Chủ Nghĩa với xuất phát điểm
là một nền kinh tế lạc hậu chủ yếu là dựa vào nông nghiệp. Yêu cầu đặt ra là phải từng
bước xây dựng cơ sở vật chất cho Chủ Nghĩa Xã Hội. Vì vậy, chúng ta phải học tập
những thành tựu mà Chủ Nghĩa Tư Bản đã đạt được trong đó quan tâm đặc biệt đến
quy luật kinh tế cơ bản của nó là giá trị thặng dư, sửa chữa quan niệm sai lầm trước kia
trong xây dựng kinh tế.

02:42


PHẦN KẾT LUẬN


Có thể thấy, với thời kì nền kinh tế hội nhập cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa, việc
áp dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã có nhiều chuyển biến tích cực. Từ đó, góp phần xây dựng
nền kinh tế Việt Nam đi lên, mở rộng hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài. Và vấn
đề hàng đầu đó là phải học hỏi từ những nước phát triển, đẩy mạnh kích thích sản xuất,

tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng cải tiến phương pháp sản xuất, các kỹ thuật và
cách thức tổ chức quản lí, phải tiết kiệm chi phí sản xuất, để từ đó thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, giúp đất nước thốt khỏi tình trạng nước nghèo, vững mạnh hơn và giàu đẹp
hơn.



×