Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TIỂU LUẬN NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
KHOA SƯ PHẠM MỸ THUẬT

BÀI TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
ĐẠI CƯƠNG CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT
ĐỀ TÀI: NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC CỦA VIỆT NAM

SINH VIÊN: Lê Thị Hảo
MÃ SINH
VIÊN:2132220644
LỚP : ĐHSP MĨ THUẬT K3


Tháng 12/2021
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: TÌM HIỂU CHUNG VỀ ĐIÊU KHẮC
1.1.Khái niệm nghệ thuật Điêu khắc
1.2. Lich sử hình thành và phát triển của nghệ thuật Điêu
khắc
Chương 2: NGHỆ THUẬT ĐIỀU KHẮC CỔ CỦA VIỆT NAM
2.1. Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam qua các thời kì
2.1.1. Điêu khắc thời tiền sử
2.1.2. Điêu khắc nhà mồ Tây Nguyên
2.1.3. Điêu khắc Champa
2.1.4. Điêu khắc thời Lý (1010 - 1225)


2.1.5. Điêu khắc thời Trần (1225 - 1400)
2.1.6. Điêu khắc thời Lê Sơ (1428 - 1527)
2.1.7. Điêu khắc thời Lê - Trịnh - Tây Sơn
2.1.8. Điêu khắc thời Nguyễn (1802 - 1945)
Chương 3: NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
3.1. Xu hướng của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam đương đại
3.2. Những thành tựu trong nghệ thuật điêu khắc Việt Nam
hiện đại
PHẦN KẾT LUẬN
TƯ LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài:
Ngay từ khi ra đời mỗi tác phẩm nghệ thuật đã thuộc về
một loại hình, thể loại nhất định . Nghệ thuật tạo hình đã
sử dụng không gian và nét, một hiện tượng không có trong
tự nhiên, làm ngơn ngữ biểu hiện để diễn đạt tình cảm của
con người và của thiên nhiên, từ chỗ mô phỏng rồi mô tả
sự vật mang đến sức biểu cảm của hình tượng, sáng tạo ra
hình tượng tạo nên giá trị thẩm mỹ. Nét, màu sắc và không
gian khơng những diễn tả được hình khối, tạo chất mà còn
diễn tả được sự vận động tĩnh tại của sự vật và cao hơn
nữa còn biểu đạt được những trạng thái tình cảm của con
người và thái độ của con người với sự vật đó Người ta cho
rằng đặc trưng của ngôn ngữ đồ họa là nghệ thuật dùng
nét, mảng thật ra như thế chưa đúng hoàn toàn nhưng như
thế cho thấy nét, mảng có vị trí rất quan trọng trong tạo

hình đồ họa. Ở đồ họa, các yếu tố tạo hình thường gắn với
nhau thành một khối thống nhất như màu sắc, không gian
ánh sáng, bút pháp thể hiện đồng thời gây sức hấp dẫn ở
yếu tố tạo hình. Việc xuất hiện các loại hình, thể loại nghệ
thuật khác nhau làm cho đời sống trở nên sinh động, có
khả năng phản ánh hiện thực cả bề rộng và chiều sâu của
hiện thực khách quan. Sự ra đời của các loại hình nghệ
thuật cịn nhằm mục đích đáp ứng được các loại thị hiếu
nghệ thuật khác nhau của công chúng. Mỗi một tác phẩm
nghệ thuật đều mang trong mình những nét riêng biệt,
những đặc trưng nét đệp riêng rất độc đáo khơng lặp lại
của từng loại hình nghệ thuật. Chính vì vậy xã hội càng
phát triển, cơng chúng càng địi hỏi những tác phẩm nghệ
thuật phải càng được hoàn thiện và nâng cao hơn. Cũng
như hội họa, điêu khắc có lịch sử phát triển tương đối lâu
đời từ thời nguyên thủy. Có thể khẳng định điêu khắc là
một loại hình nghệ thuật sử dụng những chất liệu có sẵn
trong tự nhiên để tạo nên các tác phẩm nghệ thuật và tốn
tại và chiếm chỗ trong không gian thức. Nghệ thuật điêu


khắc không chỉ mang đến giá trị sử dụng ứng dụng cao mà
nó cịn mang giá trị về thẩm mĩ. Chính vì vậy nghệ thuật
kiến trúc ngày càng được phổ biến, xuất hiện nhiều trong
các cơng trình kiến trúc đem lại giá trị thẩm mĩ và sử dụng
cao cho công chúng
Trong di sản nghệ thuật truyền thống, điêu khắc có một
lịch sử phát triển liên tục và cơ đúc hình ảnh con người Việt
Nam từng miền, từng thời, dù dưới dạng thần linh hay con
người thế tục. Cho đến nay nghệ thuật điêu khắc của Việt

Nam vẫn phát triển và đạt nhiều thành tựu mới. Thông qua
bài tiểu luận này em xin trình bày khái quát về nghệ thuật
điêu khắc của Việt Nam
2.

Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về nghệ thuật điêu khắc của Việt Nam qua các
thờ kì. Nhằm nâng cao nhận thức và đề cao tính sáng tạo
đối với những người sáng tác điêu khắc

3.

Vấn đề nghiên cứu
Nghệ thuật điêu khắc ở Việt Nam

4.

Phạm vi nghiên cứu
Các tác phẩm điêu khắc qua các chất liệu và trong kiến
trúc cổ và hiện đại trong nước


NỘI DUNG
1.1

CHƯƠNG I: TÌM HIỂU CHUNG VỀ ĐIÊU KHẮC
Khái niệm về điêu khắc:
Điêu khắc là tác phẩm nghệ thuật ba chiều được tạo ra bằng
cách tạo hình hoặc kết hợp vật liệu như kim loại, đá, thủy
tinh, hoặc gỗ. Vật liệu cũng có thể được sử dụng như đất sét,

dệt may, nhựa, polyme và các kim loại nhẹ nhàng hơn. Thuật
ngữ này đã được mở rộng để cơng trình điêu khắc bao gồm cả
không gian âm thanh, ánh sáng, không gian hư ảo và không
gian tâm linh.
Các nhà điêu khắc làm việc bằng cách loại bỏ như khắc, hoặc
họ có thể được lắp ráp như hàn, làm cứng như đúc. Trang trí bề
mặt bằng sơn có thể được áp dụng. Điêu khắc đã được mô tả
như là nghệ thuật tạo hình cơng nghiệp vì nó liên quan đến việc
sử dụng các vật liệu có thể được đổ khn hoặc điều chế. Sản
phẩm thu được là tác phẩm điêu khắc.
Điêu khắc là một hình thức quan trọng của nghệ thuật cơng
cộng. Một bộ sưu tập nghệ thuật điêu khắc trong một khu vườn
có thể được gọi là một khu vườn điêu khắc
Nghệ thuật tạo hình đã gắn liền với lịch sử nhân loại từ thủa
hoang sơ bằng những bức bích họa trong các hang động, bằng
những mơtíp trang trí được chế tác một cách thơ sơ: vịng tay,
vịng cổ, khun tai... Với quá trình phát triển, yếu tố thẩm mỹ
được nâng cao và được thể hiện ngày càng quy mô và tinh xảo.
Lịch sử của nghệ thuật điêu khắc đã theo bước chân nhân loại
để tạo nên những nền nghệ thuật vĩ đại như Ai Cập cổ đại với


những tượng danh tiếng của lịch sử mỹ thuật như tượng Nhân
sư khổng lồ, tượng Viên thư lại ngồi, tượng “Ơng trưởng thơn”
hay tượng chân dung Hồng hậu Nefertiti…Sau đó là nghệ
thuật Hy Lạp với những kiệt tác như những tượng thần Venus,
tượng Laocoon, tượng Nữ thần chiến thắng ... Rồi thời Phục
Hưng đã làm cho nước Ý trở thành trung tâm Mỹ thuật châu Âu
với những tượng David, tượng Pieta, tượng Thần đưa tin…Nghệ
thuật Á Đơng lại có đặc thù riêng và để lại cho nhân loại những

tác phẩm điêu khắc nổi tiếng về tơn giáo, trong đó điêu khắc Ấn
Độ có ảnh hưởng sâu rộng nhất. Riêng nghệ thuật điêu khắc
của Việt Nam ta, kể từ thế kỷ 11 đã đạt đến trình độ nghệ thuật
khá cao như các tượng La Hán ở chùa Tây Phương, tượng Quan
Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp, hoặc những hình
trang trí độc đáo được chạm khắc trên đá, gỗ, gạch rất nhiều
trên các lăng tẩm, cung điện, chùa chiềng, đình làng. Góp mặt
để làm phong phú thêm kho tàng nghệ thuật điêu khắc đặc sắc
của dân tộc là điêu khắc của dân tộc Chăm ở phía Nam, dân tộc
Ê Đê , Gia Rai, Ba Na…ở Tây nguyên. Cùng với sự phát triển
không ngừng của xã hội, rõ ràng điêu khắc là một bộ phận
không thể tách rời của cuộc sống lồi người nói chung và nghệ
thuật tạo hình nói riêng

Khái niệm điêu khắc của người phương tây:
Điêu khắc là một ngành nghệ thuật của nghệ thuật tạo hình,
được sáng tạo theo ngun tắc về thể tích, hình khối, vật chất
trong không gian ba chiều và chịu sự chi phối của những quy
luật tạo hình
Khái niệm điêu khắc của người Việt nam:
Từ “điêu khắc” có nguồn gốc Hán-Việt. “Điêu” là chạm khắc,
nói rộng ra thì các lối chạm trổ thì gọi là điêu. Lấy dạo vạch vào
vật gì đó thì gọi là khắc. Như vậy điêu khắc có nghĩa là dùng
dụng cụ cứng như kim loại (đục, dao…) tác động vào các chất
liệu cứng như đá, gỗ, xương, ngà voi tạo nên các tác phẩm
nghệ thuật. Như vậy khái niệm về điêu khắc ở đây cũng bắt
nguồn từ cách thức tạo hình trên chất liệu.


Điêu khắc được coi là một loại nghệ thuật tạo hình vì nghệ

thuật này chủ yếu sử dụng các phương tiện tạo hình để tái tạo
con người và cảnh vật mà chúng ta có thể nhìn thấy được. Nghệ
thuật điêu khắc có tính thẩm mỹ và giá trí sử dụng cao
1.2

Lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật điêu
khắc:
Nghệ thuật tạo hình đã gắn liền với lịch sử nhân loại từ thủa
hoang sơ bằng những bức bích họa trong các hang động, bằng
những mơtíp trang trí được chế tác một cách thơ sơ: vịng tay,
vịng cổ, khun tai...Với quá trình phát triển, yếu tố thẩm mỹ
được nâng cao và được thể hiện ngày càng quy mô và tinh xảo.
Lịch sử của nghệ thuật điêu khắc đã theo bước chân nhân loại
để tạo nên những nền nghệ thuật vĩ đại như Ai Cập cổ đại với
những tượng danh tiếng của lịch sử mỹ thuật như tượng Nhân
sư khổng lồ, tượng Viên thư lại ngồi, tượng “Ơng trưởng thơn”
hay tượng chân dung Hồng hậu Nefertiti…
Sau đó là nghệ thuật Hy Lạp với những kiệt tác như những
tượng thần Venus, tượng Laocoon, tượng Nữ thần chiến
thắng ...
Rồi thời Phục Hưng đã làm cho nước Ý trở thành trung tâm
mỹ thuật châu Âu với những tượng David, tượng Pieta, tượng
Thần đưa tin…
Nghệ thuật Á Đơng lại có đặc thù riêng và để lại cho nhân
loại những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng về tơn giáo, trong đó
điêu khắc Ấn Độ có ảnh hưởng sâu rộng nhất.
Riêng nghệ thuật điêu khắc của Việt Nam ta, kể từ thế kỷ 11
đã đạt đến trình độ nghệ thuật khá cao như các tượng La Hán ở
chùa Tây Phương, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa
Bút Tháp, 500 vị La Hán ở chùa Bái Đính hoặc những hình trang

trí độc đáo được chạm khắc trên đá, gỗ, gạch rất nhiều trên các
lăng tẩm, cung điện, chùa chiềng, đình làng. Góp mặt để làm
phong phú thêm kho tàng nghệ thuật điêu khắc đặc sắc của
dân tộc là điêu khắc của dân tộc Chăm ở phía Nam, dân tộc Ê
Đê , Gia Rai, Ba Na…ở Tây nguyên. Cùng với sự phát triển
không ngừng của xã hội, rõ ràng điêu khắc là một bộ phận
không thể tách rời của cuộc sống lồi người nói chung và nghệ
thuật tạo hình nói riêng.


CHƯƠNG II: NGHỆ THUẬT ĐIỀU KHẮC CỔ CỦA VIỆT NAM
2.1. Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam qua các thời kì
Trong di sản nghệ thuật truyền thống, điêu khắc có một lịch
sử phát triển liên tục và cơ đúc hình ảnh con người Việt Nam
từng miền, từng thời, dù dưới dạng thần linh hay con người thế
tục. Dưới bầu trời rạng rỡ của hai nền văn hoá Ấn Độ và Trung
Hoa lân cận, đôi khi người ta quên mất di sản này, và nếu có
biết thì coi như những ảnh hưởng phái sinh của tinh thần Ấn Độ
- Trung Hoa, và khơng có gì đồ sộ so ngay với cả người láng
giềng Khmer. Tính chất cát cứ từng xuất hiện trong lịch sử của
một đất nước hình thành lâu dài, sự đa dân tộc, bên cạnh khối
dân tộc Việt chiếm đại đa số khiến cho hình ảnh của nền điêu
khắc rất đa dạng có thể thấy các bộ phận điêu khắc như sau:
1. Điêu khắc vương quốc Phù Nam và Chân Lạp ở Nam Bộ;
2. Điêu khắc Champa ở Trung Nam Bộ;
3. Điêu khắc Đại Việt ở Bắc Bộ;
4. Điêu khắc nhà mồ của thổ dân Tây Nguyên.
Những ảnh hưởng của Ấn Độ giáo chủ yếu ở Trung và Nam
Bộ, không vượt quá đèo ngang và chi phối sâu sắc hệ thần
trong điêu khắc Phù Nam và Champa. Những ảnh hưởng của

tam giáo Nho, Lão và Phật giáo Đại thừa theo dịng Trung Hoa ít
tới miền Nam. Tuy vậy, giao lưu ngơn ngữ nghệ thuật vẫn diễn
ra, ít nhất thấy rõ trong thời kỳ Lý - Trần với sự cộng tác của các
nghệ nhân Champa. Đời sống đóng kín của nơng thôn Bắc Bộ
đã di dưỡng một tinh thần nghệ thuật nhân văn - tôn giáo đặc
sắc mà vẻ đẹp của điêu khắc thể hiện ở tính chân dung nơng
dân của nó. Dù khói lửa chiến tranh liên miên, mỗi làng vẫn bảo
tồn một cụm đình - đền - chùa với nhiều tượng Phật và các phù
điêu.
2.1.1. Điêu khắc thời tiền sử
Điêu khắc thời Tiền sử: Thời Tiền sử Việt Nam được tính từ
nền văn hố Núi Đọ cách đây ba mươi vạn năm đến nền văn
hố Đơng Sơn cách đây 2.500 năm. Thời kỳ này chắc hẳn mọi
hoạt động văn hoá chưa phân chia rõ ràng, huống hồ là nghệ
thuật. Khơng thể có một nền điêu khắc tiền sử, mà chỉ có


những biểu hiện có tính điêu khắc mà thơi. Đáng kể nhất là
những hình khắc trên hang Đồng Nội (Lạc Thuỷ, Hồ Bình) cách
đây 10.000 năm, khắc ba mặt người và một mặt thú một cách
sơ lược, trên đầu có cắm sừng hay lơng chim. Người Hồ Bình
đã nhìn thấy gương mặt mình dù chưa rõ ràng nhưng đã khơn
ngoan đội lốt thú khi săn bắn một cách khái quát. Tượng gốm
và đá nhỏ vài cm xuất hiện trong các di chỉ Phùng Nguyên,
Đồng Đậu, Gò Mun chỉ như những hình thể trang trí gắn với các
trang sức và cơng cụ lao động. Đến nền văn hố Đơng Sơn nổi
tiếng về các trống đồng, điêu khắc nhỏ gắn với đồ tế khí, gia
dụng đẹp một cách tinh tế trong thẩm mỹ mang tính bạo lực.
Đó là các tượng người biến hình thành cán dao găm, các tượng
voi, cóc, hươu, rùa trên trống, thạp, ấm bằng đồng. Đặc biệt là

bốn cặp tượng nam nữ giao phối trên nắp thạp đồng Đào Thịnh
với một nhãn quan phồn thực. Thờ thần mặt trời, tế lễ cầu mùa
hay tang ma là âm hưởng chủ đạo qua các hình khắc trống
đồng Đơng Sơn, cịn điêu khắc đóng vai trị nhấn mạnh tính
hình khối rõ ràng của nhạc khí, tế khí và đồ dùng. Điêu khắc
Tiền Sử hoàn toàn thuần Việt trước khi các cuộc xâm lăng từ
phương Bắc tràn xuống.


2.1.2. Điêu khắc nhà mồ Tây Nguyên
Điêu khắc nhà mồ Tây Nguyên: Năm tỉnh Gia Lai, Kon Tum,
Đắk Lắk, Đăk Nơng, Lâm Đồng chiếm trọn cao ngun phía tây
Nam Trung Bộ, nếu tính cao nguyên như là sự lan rộng của dẫy
núi thì địa bàn Tây Ngun cịn rộng hơn. Nơi đây khơng rõ lý
do gì bảo lưu một nền văn hố rực rỡ của các dân tộc có nguồn
gốc từ thổ dân Đông Nam Á và Đa Đảo. Hệ ngữ Mơn - Khmer và
Malayo - Polinesia đóng vai trị chính trong ngơn ngữ Tây
Ngun cũng như tập tục tang ma trọng thể thấy phổ biến ở
dân hoang đảo quanh xích đạo địa cầu. Tiêu biểu là lễ bỏ mả và
làm nhà mồ của người Gia Rai và Ba Na. Trong đó, phần tạc
tượng rào quanh nhà mồ rất quan trọng. Những tượng nam - nữ
giao hợp, tượng bà chửa, tượng người ngồi khóc, tượng thú vật
voi và chim cũng được đẽo phạt từ tâm linh sâu thẳm đối với
thế giới bên kia, nơi mà các linh hồn sẽ trở về với tổ tiên và ông
bà. Con thuyền tang lễ được gắn vào nóc nhà mồ. Cột Klao, cột
Kút dẫn linh hồn về trời được dựng lên trong tiếng nhạc cồng,
chiêng trầm hùng và ai oán.


2.1.3. Điêu khắc Champa:

Điêu khắc Champa: Vương quốc Champa hình thành ở Nam
Trung Bộ, chia thành một số khu vực tự nhiên ứng với các dải
đồng bằng ven biển là Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Bình
Định), Kauthara (Nha Trang) và Paduranaga (Phan Rang). Sự
liên kết giữa hai thị tộc Can và Dừa dẫn đến một Nhà nước
phong kiến theo Ấn Độ giáo đầy mâu thuẫn và hiếu chiến.
Người Champa ẩn chứa trong mình năng lực sáng tạo dồi dào,
cũng mạnh mẽ như khát vọng chiến tranh của họ. Từ thế kỷ 2
là thời sơ khai của vương quốc mà người Trung Hoa gọi là Lâm
Ấp. Nhưng phải đợi đến thế kỷ 7 - 8 nghệ thuật kiến trúc và
điêu khắc Champa mới trở nên rực rỡ cùng phong trào Phật
giáo hoá và Ấn Độ giáo lan rộng khắp Đông Nam Á. Tháp
Champa xây bằng gạch khơng vữa, thường có một cổng, một
tháp phụ có mái hình con thuyền, một tháp chính ở trung tâm


khối vuốt lên cao nở ra ở nhiều góc và các múi vịm. Trên đó
thường gắn các phù điêu chạm khắc hình thần Siva hay các tiên
nữ Apsara. Cửa chính quay về phía Nam hoặc Đơng Nam. Trong
lịng tháp đặt biểu tượng thờ Linga và Yoni (dương vật và âm
vật). Điêu khắc tượng trịn được bố trí hài hồ với xung quanh
kiến trúc và tuỳ theo chức năng tháp mà đục đẽo các tượng
thần. Người ta thường chia nghệ thuật Champa làm sáu giai
đoạn chính: 1. Mỹ Sơn E1 (nửa đầu thế kỷ 8); 2. Hoà Lai (nửa
đầu thế kỷ 9); 3. Đồng Dương (cuối thế kỷ 9); 4. Trà Kiệu (cuối
thế kỷ 9 đầu thế kỷ 10); 5. Tháp Mẫm (thế kỷ 12 - 13); 6.
Poklaung Gialai (cuối thế kỷ 13, 14 đến 16). Năm 1470 Lê
Thánh Tông dứt điểm bình định phương Nam, sau đó là cơng
cuộc Nam tiến của các Chúa Nguyễn, nền nghệ thuật Champa
và Phù Nam - Chân Lạp chỉ còn lại các di sản đặc sắc với một

quá khứ huy hoàng.

2.1.4. Điêu khắc thời Lý (1010 - 1225)
Điêu khắc thời Lý (1010 - 1225): Đại Việt trở thành quốc
gia độc lập, hùng cường sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi và dời đô
từ Hoa Lư về Thăng Long. Phật giáo trở thành quốc đạo phát
triển tới mức, như sử gia Lê Văn Hưu nói: "nhân dân quá nửa là
sư sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa chiền". Các trung tâm
Phật giáo ở Quảng Ninh, Hà Nam Ninh và đặc biệt ở Bắc Ninh,
quê hương Nhà Lý được xây dựng đồ sộ theo kiểu thức kiến trúc


Đông Nam Á, kéo theo một nền điêu khắc Phật giáo. Các chùa
thời Lý thường có 4 cấp, ăn sâu và cao dần theo triền núi, hoặc
có mặt bằng hình vng, hình trịn, trung tâm là tháp cao có
tượng Phật đặt trong. Tượng A Di Đà chùa Phật Tích làm năm
1057 là tác phẩm đầu tiên của thế giới Phật giáo vĩnh hằng ở
Bắc Bộ. Các tượng Kim Cương chùa Long Đọi, tượng đầu người
mình chim, chạm khắc chùa Bà Tấm, chùa Chương Sơn đều
thống nhất một tinh thần viên mãn, cá tính bị tan biến sau lớp
đăng ten trang trí hoa văn dầy đặc trên bề mặt. Cột biểu chùa
Dạm (1086) vay mượn từ biểu tượng Linga - Yoni Champa, là
tác phẩm đồ sộ cao 5,4m có tính hồnh tráng. Tinh
thần Thiền Nhà Lý đã chi phối tính ơn hoà và mạnh mẽ bên
trong của các tác phẩm điêu khắc vừa khái quát về tổng thể, kỹ
lưỡng về chi tiết ở các cơng trình kiến trúc kỳ vỹ mà từ đó các
bậc Thiền sư có thể "Hú lên một tiếng lạnh cả trời" (Đạo Hạnh).


2.1.5. Điêu khắc thời Trần (1225 - 1400)

Điêu khắc thời Trần (1225 - 1400): Nhà Trần thay thế nhà
Lý suy tàn trong sự phát triển đi lên của phong kiến Việt Nam.
Ba lần chống quân Ngyên - Mông thắng lợi, bảo tồn giang sơn
đã tạo nên một hào khí oai hùng cho dân tộc và thấm đẫm
trong văn học nghệ thuật; mặt khác chiến tranh nhiều lần tàn
phá đất nước, hoạt động nghệ thuật bị hạn chế, cuối cùng chế
độ điền trang thái ấp cũng tan vỡ trong cuộc cải cách của Hồ
Quý Ly vào cuối thế kỷ 14. Dù chùa chiền không được đồ sộ
nhưng đạo Phật vẫn thịnh hành. Điêu khắc Phật giáo hiện chưa
tìm được pho tượng nào nhưng còn lại rất nhiều bệ tượng đá
hoa sen hình hộp trên đặt tượng Tam Thế (Quá khứ - Hiện tại Vị lai) ở các chùa Thầy, chùa Bối Khê, chùa Dương Liễu. Chạm
khắc gỗ trang trí kiến trúc thấy ở chùa Phổ Minh (Nam Định),
chùa Thái Lạc (Hưng Yên) với các đề tài "Rồng chầu lá đề",
"Tiên nữ dâng hoa", "Tiên nữ tấu nhạc", "Tiên nữ dâng hương".


Phong cách hài hoà Lý đã biến đổi, phong cách Trần mạnh mẽ,
khái quát và quan tâm đến tính biến động của cấu trúc tổng thể
hơn là hình mơ tả. Trong các lăng mộ đời Trần, điêu khắc đá chủ
yếu là tượng người, tượng thú chầu và làm thần canh giữ cho
thế giới vĩnh viễn của ơng vua có vẻ đẹp trầm mặc và sinh
động. Tượng hổ ở lăng Trần Thủ Độ, tượng trâu và chó ở lăng
Trần Hiển Tơng, tượng quan hầu ở lăng Trần Anh Tông là lối điêu
khắc lăng mộ đầu tiên ở Việt Nam, mà cách tạo hình ln gắn
với sự xác định trong khơng gian quần thể kiến trúc lộ thiên.

2.1.6. Điêu khắc thời Lê Sơ (1428 - 1527)
Điêu khắc thời Lê Sơ (1428 - 1527): Trong trăm năm của
triều đại Lê Sơ, Phật giáo đã bị đẩy lùi về các làng xã, Nho giáo
lên ngôi và kinh tế nông nghiệp với quan hệ địa chủ - nơng dân

cũng phát đạt. Ngồi ba pho tượng đá chùa Ngọc Khám (Bắc
Ninh) đến nay hình ảnh điêu khắc Phật giáo thời Lê Sơ rất mờ
nhạt. Thay vào đó là nền điêu khắc lăng mộ của các vua Lê ở
Lam Sơn (Thanh Hoá). Tám lăng vua Lê và hai bà Hoàng hậu


đều theo hình thức của lăng vua Lê Thái Tổ làm năm 1433, mặt
bằng hình vng, chính giữa là đường thần đạo dẫn đến mộ
phần ở đáy lăng, hai bên có hai dãy tượng chầu gồm quan hầu,
lân, tê giác, ngựa, hổ. Bên ngoài lăng là nhà bia. Các lăng khác
đều tương tự, tuy các con vật chầu có chút ít thay đổi. Sau 20
năm chiến tranh với nhà Minh (1407 - 1427), đất nước trở nên
hoang tàn, sản vật bị vơ vét, sách vở bị đốt, đền chùa bị phá,
thợ giỏi bị đưa về Tàu. Vua Lê đành phải dùng những nơng dân
lân cận tạc tượng, xây lăng. Tính thơ mộc, giản dị, sự cần kiệm
của một chính thể mới lên đã dẫn đến một nền điêu khắc đơn
điệu, nghèo nàn, dù con mắt kiến trúc tổng thể khá đặc sắc.

2.1.7. Điêu khắc thời Lê - Trịnh - Tây Sơn
Điêu khắc thời Lê - Trịnh - Tây Sơn: Nhà Mạc thay thế Nhà
Lê Sơ 1528 đến 1598. Nông thôn Việt Nam tạm yên ổn và phát
triển một phong cách điêu khắc đình làng, từ chối tính tơn giáo
và phong kiến trước đó. Nội chiến bắt đầu giữa Nhà Mạc với các
quan lại họ Trịnh và Nguyễn ủng hộ con cháu nhà Lê, còn gọi là
chiến tranh Nam - Bắc triều.
Nhà Mạc thất bại. Thế kỷ 17 họ Trịnh nắm binh quyền ở
Bắc Bộ chi phối vua Lê. Họ Nguyễn cát cứ Nam Bộ. Chiến tranh
Trịnh - Nguyễn xảy ra tới bảy lần trong suốt thế kỷ 17. Nhân



tâm náo loạn. Phật giáo phục hưng như một cứu cánh tinh thần.
Thế kỷ 17 - 18 cũng là giai đoạn phát đạt nhất của văn hoá
nghệ thuật. Điêu khắc đạt số lượng và loại hình đáng kể chi
phối tồn bộ tinh thần thẩm mỹ người Việt. Có các bộ phận sau:
điêu khắc Phật giáo trong các chùa làng, điêu khắc lăng mộ của
vua quan Lê - Trịnh, điêu khắc trong các đền thờ với tín ngưỡng
bản địa. Tượng Phật là Quan Âm "nghìn mắt nghìn tay" chùa Hạ
(Vĩnh Yên), cao 3,7m; 42 tay là tác phẩm đồ sộ của thế kỷ 16.
Tượng Phật Bà Quan Âm "nghìn mắt nghìn tay" chùa Bút Tháp
(Bắc Ninh) cao 3,7m; 42 tay lớn; 952 tay nhỏ kết thành quầng
mắt và ánh sáng rực rỡ tiêu biểu cho nghệ thuật thế kỷ 17. Kết
thúc thế kỷ 18 là nhóm điêu khắc các vị tổ chùa Tây Phương
được làm năm 1794 thời Tây Sơn. Điêu khắc đình làng như các
đình Phù Lão, Chu Quyến, Thổ Tang, Liên Hiệp, Hương Lộc...
mang đến một nguồn sinh khí mới với nét chạm tự do, cấu trúc
đồ sộ như nghệ thuật Baroque. Cá tính và phong cách cá nhân
chìm lẫn trong các hình tượng Thần Phật và được dung dưỡng
bởi đời sống làng xã vừa khép kín vừa đa dạng như những tế
bào gộp nên nền văn hố nơng nghiệp Việt Nam.

2.1.8. Điêu khắc thời Nguyễn (1802 - 1945)
Điêu khắc thời Nguyễn (1802 - 1945): Nhà Nguyễn rời đô
vào Huế, xây dựng kinh thành Huế và quần thể lăng mộ cho
các bậc đế vương ở phía tây kinh thành, điêu khắc lăng mộ


phong kiến Huế nghèo nàn về ngôn ngữ và cứng nhắc về quy
phạm. Các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng
Khánh, Khải Định tuy khác nhau về kiến trúc nhưng tương đối
thống nhất về điêu khắc. Tượng quan hầu, lính hầu, voi và ngựa

nghiêm trang hai bên thần đạo, kích thước gần nguyên mẫu
nhưng rất thiếu sinh khí. Ở Bắc Bộ, điêu khắc Phật giáo tiếp tục
phát triển với một tinh thần chung của xã hội phong kiến cuối
mùa. Tượng thì to ra, nhưng vẻ sinh động giảm thiểu. Tác phẩm
Quan Âm 112 tay chùa Tây Phương, tượng Phật chùa Bà Đá,
chùa Hồng Phúc là những ánh sáng loé lên cuối cùng khi một
thời đại mới bắt đầu. Năm 1925, trường cao đẳng Mỹ thuật
Đông Dương ra đời. Mỹ thuật Việt Nam có bước ngoặt mới, hội
hoạ với các nghệ sỹ có tên tuổi bắt đầu thay thế địa vị độc tôn
của nghệ thuật điêu khắc cổ.
Trên đây là những nét khái lược trình bày một cách cơ
đọng đặc tính điêu khắc từng thời đại. Bên cạnh mảng điêu
khắc tập trung ở chốn đình chung, chúng ta còn kho tàng
khổng lồ các tác phẩm điêu khắc dân gian có mặt ở khắp đó
đây trên đất nước. Đó là sản phẩm điêu khắc của những người
thợ trong kiến trúc nhà cửa, vật dụng, đồ thờ, công cụ...


Tóm lại, nghệ thuật điêu khắc qua các thời kì của Việt Nam
phát triển từng ngày, theo từng nhu cầu của con người. Các tác
phẩm điêu khắc khơng chỉ có mặt ở những cơng trình kiến trúc
cổ mà cịn hiện diện ở khắp đó đây trải dài trên đất nước Việt
ta. Những tác phẩm và những nghệ nhân điêu khắc đã góp
phần cơng sức cho nền nghệ thuật điêu khắc nói riêng nền
nghệ thuật nói chung của Việt Nam phát triển rực rỡ hơn. Cho
đến nay nghệ thuật kiến trúc của nước ta vẫn cố gắng bảo tồn
những tác phẩm và phát huy sáng tạo dự trên những nền tảng
sẵn có để đưa nền nghệ thuật điêu khắc lên một tầm cao mới
CHƯƠNG III: NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC VIỆT NAM HIỆN
ĐẠI

3.1. Xu hướng của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam
đương đại
Trong dòng chảy nhiều thử thách của đời sống nghệ thuật,
điêu khắc đã có sự chuyển mình và điểm nổi bật đáng ghi nhận
là sức trẻ dồi dào cả ở đội ngũ cùng những nỗ lực tìm tịi sáng
tạo theo xu hướng hiện đại.
Nhằm đưa ra cái nhìn tồn diện, sâu sắc về nghệ thuật điêu
khắc Việt Nam 10 năm qua, ngày 25/12, Cục Mỹ thuật Nhiếp
ảnh Triển lãm (Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch) tổ chức hội thảo


“Triển lãm 10 năm Điêu khắc toàn quốc lần thứ 5 (2003 – 2013)
và Điêu khắc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Hội thảo
thuộc khuôn khổ hoạt động Triển lãm 10 năm Điêu khắc toàn
quốc lần thứ 5 đang được tổ chức tại Hà Nội.
Tại Hội thảo, các đại biểu đã khẳng định, 10 năm qua nghệ
thuật điêu khắc Việt Nam đã có những tiến bộ khơng ngừng.
Một diện mạo mới của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam, hoà
nhập phát triển và bắt nhịp với điêu khắc đương đại quốc tế đã
được hình thành và phát triển.
Điển hình như 286 tác phẩm của 230 tác giả trưng bày tại Triển
lãm 10 năm điêu khắc toàn quốc đã được thực hiện theo nhiều
phong cách từ truyền thống đến hiện thực hiện đại. Đánh dấu
sự phát triển mở rộng trong không gian của tác phẩm điêu
khắc, nhiều tác phẩm không chỉ chú ý đến hình khối mà đã có
sự giao thoa với khơng gian trưng bày. Bên cạnh đó, qua 10
năm phát triển, nghệ thuật điêu khắc Việt Nam cũng đánh đấu
sự xuất hiện của nghệ thuật điêu khắc màu. Ngoài những thành
tựu đã đạt được, các đại biểu tham dự Hội thảo cũng đặt ra vấn
đề cần giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, cũng như mang

dấu ấn cá nhân trong từng tác phẩm.
Các tác phẩm điêu khắc trong triển lãm lần này đánh dấu sự
chuyển biến sâu sắc về quan niệm nghệ thuật, ngơn ngữ điêu
khắc, hình thức biểu đạt và kỹ thuật thể hiện tác phẩm. Sự
phong phú về tư duy sáng tác; ngôn ngữ tạo hình với nhiều
phong cách như: hiện thực, trừu tượng, biểu hiện... Sự đa dạng
về chất liệu với nhiều tìm tịi thể nghiệm, kết hợp giữa điêu
khắc và nghệ thuật sắp đặt...Mặt bằng chung của nghệ thuật
điêu khắc đã được nâng cao lên về mọi phương diện.


Tác phẩm "Chuyện quê" của Kù Cao Khải, Ninh Bình (một trong
hai tác phẩm đoạt giải Nhì)
Đặc biệt, thế hệ điêu khắc trẻ đã gây bất ngờ bởi những tác
phẩm đầy sáng tạo nhưng vẫn kết hợp nhuần nhuyễn được tính
truyền thống và hiện đại, giữa bản sắc dân tộc và tồn cầu hóa.
Các nhà điêu khắc trẻ cũng khơng khỏi đau đáu với những giả
trị truyền thống đang dần mờ phai. Nhiều tác phẩm như một sự
níu kéo những giá trị ấy cho ngày mai được thể hiện trong:
“Chuyện quê” của Kù Cao Khải, “Rước vợ bằng xe công nơng”
của Phạm Thái Bình, “Bình n trên đảo” của Trần Việt Hà, “Cội
nguồn” của Nguyễn Văn Chước...
Nhiều tác phẩm phản ánh về đời sống đô thị hiện đại như: tác
phẩm “Lớp vỏ” của Trần Văn An bằng chất liệu sắt hàn tối mầu
có hình hộp, bị ghìm bó chằng chịt nẹp cứng tạo cảm giác nặng
nề, tù túng của không gian, kiến trúc đô thị. Tác phẩm “Tuyến
xe số” của Hồng Văn Thắng là hình ảnh đồn người hối hả cho
kịp giờ xe buýt. Tác phẩm “Góc phố” của Đỗ Thế Thịnh lại
nhếch nhác với những phận người lang thang và “Đôi mắt” của
Nguyễn Văn Huy đượm nỗi buồn của trẻ ăn xin. Tác phẩm điêu

khắc - sắp đặt “Những con chim” của Thái Nhật Minh với chất
liệu tre, gỗ mô tả những con chim xinh xắn dễ thương trong ô
cửa chật hẹp, thể hiện khát vọng vượt thoát, bay bổng, giấc mơ
tự do và hịa bình, cũng chính là tâm lý lớp trẻ hôm nay.


Tác phẩm "Bập bênh" của Nguyễn Thanh Bình, Đà Nẵng
Các tác giả đã có nhiều nỗ lực tìm tịi với sự đa dạng ở chất liệu
sử dụng: đồng, đá, gỗ, sắt thép và chất liệu tổng hợp; song, các
tác phẩm điêu khắc bằng chất liệu kim loại như sắt, thép đã
chững lại, đi theo lối mòn. Về phù điêu chưa thật sự có sáng tác
tiêu biểu, thiếu những tác phẩm tượng đài - một loại hình quan
trọng của điêu khắc.
Theo ông Vi Kiến Thành, Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh
và Triển lãm (Bộ VHTT&DL) - Trưởng Ban tổ chức triển lãm,
“Triển lãm 10 năm điêu khắc toàn quốc lần thứ 5”(2003 2013) là sự kiện của giới Mỹ thuật Việt Nam nhằm tổng kết,
đánh giá và giới thiệu những thành tựu trong sáng tạo, phát
triển của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam 10 năm qua, đồng thời
ghi nhận những đóng góp của các thế hệ tiếp theo của ngành
điêu khắc Việt Nam.


Ông Vi Kiến Thành cũng khẳng định: Tính minh họa của các tác
phẩm trong triển lãm đã khơng cịn, điêu khắc đã cất được
tiếng nói độc lập. Điêu khắc Việt Nam đã và đang có nhu cầu
chiếm lĩnh khơng gian trong nhà và ngồi trời trong các cơng
trình kiến trúc.

Tác phẩm "ASEAN hịa bình hợp tác và phát triển" của Nguyễn
Thành Thi, TPHCM)

Triển lãm cho thấy một thế hệ nhà điêu khắc đang trưởng thành
và đầy hứa hẹn với những tư duy sáng tạo mới, kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại, giữa bản sắc dân tộc và xu hướng
toàn cầu hóa.
Triển lãm đã thu hút đơng đảo các nhà điêu khắc trong toàn
quốc tham gia, với 675 tác phẩm của 352 tác giả (trong đó tác
giả cao tuổi nhất là nhà điêu khắc Đinh Rú ở TPHCM, 76 tuổi và
tác giả trẻ tuổi nhất cũng ở TPHCM là Lê Quốc Tiến, 22 tuổi).


Ban Tổ chức và Hội đồng nghệ thuật đã chọn trưng bày 286 tác
phẩm của 230 tác giả giới thiệu tới công chúng tại Bảo tàng Hà
Nội. Đây là những tác phẩm điêu khắc tiêu biểu của các nhà
điêu khắc Việt Nam sáng tác trong 10 năm (2003 - 2013), đánh
dấu sự chuyển biến sâu sắc về quan niệm nghệ thuật, ngơn
ngữ điêu khắc, hình thức biểu đạt và kỹ thuật thể hiện tác
phẩm.
Ban tổ chức cũng chọn trao giải thưởng cho 21 tác phẩm xuất
sắc nhất trong đó gồm 2 giải Nhì, 4 giải Ba, 15 giải Khuyến
khích. Trong đó hai tác phẩm đoạt giải Nhì là: "Lớp vỏ" của tác
giả Trần Văn An (Nam Định) và "Chuyện quê" của Kù Cao Khải
(Ninh Bình).
Về những tác phẩm đoạt giải trong triển lãm điêu khắc toàn
quốc lần này, Nhà điêu khắc Phan Gia Hương cho rằng, mặt
bằng chung của nghệ thuật điêu khắc đã được nâng cao lên về
mọi phương diện nhưng đỉnh cao thì cần phải chờ đợi. Những
tác phẩm đoạt giải cao thể hiện sự sáng tạo nhưng vẫn dựa
trên nền tảng văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, chưa có tác phẩm
nào thật nổi trội để có thể đoạt giải Nhất.


Tác phẩm "Rước vợ bằng xe công nông" của Phạm Thái Bình, Hà
Nội
Họa sĩ Trần Khánh Chương - Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam lại
nhấn mạnh thành công của việc Ban tổ chức chọn Bảo tàng Hà
Nội để trưng bày các tác phẩm. Với không gian rộng cả ở trong
nhà, các hàng lang và khơng gian ngồi trời của Bảo tàng, Ban


tổ chức đã tạo cho người xem một không gian để thưởng thức
nghệ thuật, chứ khơng chỉ bó hẹp trong việc xem triển lãm như
tại các địa điểm khác./.

KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển các loại hình nghệ thuật trên thế
giới,điêu khắc ngày nay mở ra những chiều hướng phát triển
mới,ở đó có những thuận lợi và khó khan .việc tích lũy kinh
nghiệm và cảm xúc tuef thế giowsivaajt chất đã giúp các nhà
điêu khắc khơng cịn bị nhiều rào cản và hạn chế trên con
đường sáng tạo nghệ thuật .Nhận thức đầy đủ những hàm chứa
thẩm mỹ tri thức trong hình dạng và cấu trúc của chất liệu cho
ta những phương pháp tiếp cận và những quy luật thẩm mỹ có
thể áp dụng trong sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật điêu
khắc .Tất cả những tác phẩm lớn ở Việt Nam hiện nay đều là
minh chứng cho sự phối hợp trộn vẹn giữa chất liệu và diện
mạo mà nó mang lại ,tác phẩm là hiện thân ,là kết quả của
những kinh nghiệm , tri thức và cảm xúc
Điêu khắc ngày nay xuất hiện nhiều hơn trong cuộc sống ,nó
được lồng ghép vào những cơng trình kiến trúc chiếm lĩnh nhiều
hơn ở những không gian đẹp ,trung tâm các đô thị …nếu từ
những thế kỉ 15,16 hay 17điêu khắc được trọng dụng nhiều

trong kiến trúc đình làng với các yếu tố nhất định của tơn giáo
thì ngay nay đã vươn rộng ra hơn ,không chỉ nằm khoanh ở các
yếu tố trang trí trong các vỉ kẻo, con sơn …của đình làng mà
còn hiện hữu ở các quảng trưởng ,trung tâm văn hóa.


×