Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng địa lý đến sự phân bố các hợp chất terpenoid flavonoid và steroid trong cây ké đầu ngựa xanthiumstrumarium l asteraceae mọc ở hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.15 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------

Ninh Thế Sơn

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG ĐỊA LÝ ĐẾN SỰ PHÂN BỐ CÁC
HỢP CHẤT TERPENOID, FLAVONOID VÀ STEROID TRONG
CÂY KÉ ĐẦU NGỰA (XANTHIUM STRUMARIUM L.,
ASTERACEAE) MỌC Ở HỊA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------

Ninh Thế Sơn

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG ĐỊA LÝ ĐẾN SỰ PHÂN BỐ CÁC
HỢP CHẤT TERPENOID, FLAVONOID VÀ STEROID TRONG
CÂY KÉ ĐẦU NGỰA (XANTHIUM STRUMARIUM L.,
ASTERACEAE) MỌC Ở HỊA BÌNH
Chun ngành: Hóa hữu cơ
Mã số: 60440114

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Phan Minh Giang

Hà Nội – 2013


LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ này được hoàn thành tại Phịng thí nghiệm Hóa học các hợp
chất thiên nhiên, Bộ mơn Hóa hữu cơ, Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Với lịng biết ơn sâu sắc, tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và lời cảm ơn chân
thành đến:
PGS. TS. Phan Minh Giang đã tin tưởng giao đề tài và tạo điều kiện thí nghiệm
thuận lợi giúp tơi hồn luận văn này.
Đồng thời tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các anh chị và các
bạn đồng nghiệp trong Phịng thí nghiệm Hóa học các hợp chất thiên nhiên đã tư
vấn và giúp đỡ tơi hồn thành luận văn này.

Hà Nội, tháng 12 năm 2013
Học viên

Ninh Thế Sơn


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN......................................................................................3
1.1 KHÁI QUÁT VỀ HỌ CÚC (ASTERACEAE) VÀ CHI XANTHIUM...............3
1.1.1 Họ Cúc (Asteraceae)....................................................................................3
1.1.2 Chi Xanthium...............................................................................................4

1.2 ĐẶC ĐIỂM CÂY KÉ ĐẦU NGỰA (XANTHIUM STRUMARIUM L.).............4
1.2.1 Đặc điểm thực vật........................................................................................4
1.2.2 Đặc điểm sinh thái.......................................................................................6
1.2.3 Công dụng trong y học cổ truyền................................................................ 7
1.3 MỘT SỐ NGHIÊN CỨU HĨA HỌC VÀ HOẠT TÍNH SINH HỌC CỦA CÂY
XANTHIUM STRUMARIUM...................................................................................10
CHƯƠNG 2: NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.........................24
2.1 NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU............................................................................. 24
2.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.....................................................................24
2.2.1 Phương pháp xử lý mẫu.............................................................................24
2.2.2 Các phương pháp phân tích, phân tách các hỗn hợp và phân lập các hợp
chất............................................................................................................ 25
2.2.2.1. Phương pháp chiết hai pha lỏng......................................................... 25
2.2.2.2 Các phương pháp sắc ký......................................................................25
2.2.3 Các phương pháp nghiên cứu cấu trúc...................................................... 28
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM.............................................................................. 29


3.1 HÓA CHẤT VÀ THIẾT BỊ...............................................................................29
3.2 NGUYÊN LIỆU THỰC VẬT...........................................................................29
3.3 ĐIỀU CHẾ CÁC PHẦN CHIẾT TỪ CÂY KÉ ĐẦU NGỰA.......................... 29
3.4 PHÂN TÍCH CÁC PHẦN CHIẾT BẰNG SẮC KÝ LỚP MỎNG..................30
3.5 PHÂN TÁCH CÁC PHẦN CHIẾT BẰNG SẮC KÝ ĐIỀU CHẾ...................31
3.5.1 Phân tách sắc ký phần chiết lá n-hexan (HBLH)......................................31
3.5.2 Phân tách sắc ký phần chiết lá nước (HBLW)..........................................32
3.5.3 Phân tách sắc ký phần chiết cành n-hexan (HBCH).................................33
3.5.4 Phân tách sắc ký phần chiết cành điclometan (HBCD)............................ 33
3.5.5 Phân tách sắc ký phần chiết lá và cành etyl axetat (HBE)........................34
3.6 HẰNG SỐ VẬT LÝ VÀ DỮ KIỆN PHỔ CỦA CÁC HỢP CHẤT ĐƯỢC
PHÂN LẬP........................................................................................................35

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN..........................................................39
4.1 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU...........................................................................39
4.2 ĐIỀU CHẾ CÁC PHẦN CHIẾT TỪ CÂY KÉ ĐẦU NGỰA.......................... 39
4.3 PHÂN TÍCH CÁC PHẦN CHIẾT BẰNG SẮC KÝ LỚP MỎNG..................42
4.3.1 Phân tích phần chiết lá n-hexan (HBLH)..................................................42
4.3.2 Phân tích phần chiết lá điclometan (HBLD).............................................43
4.3.3 Phân tích phần chiết cành n-hexan (HBCH).............................................43
4.3.4 Phân tích phần chiết cành điclometan (HBCD)........................................44


4.3.5 Phân tích phần chiết lá và cành etyl axetat (HBE)....................................45
4.4 PHÂN TÁCH CÁC PHẦN CHIẾT TỪ CÂY KÉ ĐẦU NGỰA......................46
4.4.1 Phân tách phần chiết lá n-hexan (HBLH).................................................46
4.4.2 Phân tách phần chiết lá nước (HBLW)..................................................... 48
4.4.3 Phân tách phần chiết cành n-hexan (HBCH)............................................50
4.4.4 Phân tách phần chiết cành điclometan (HBCD)....................................... 52
4.4.5 Phân tách phần chiết lá và cành etyl axetat (HBE)................................... 54
4.5 XÁC ĐỊNH CẤU TRÚC PHÂN LẬP ĐƯỢC..................................................56
KẾT LUẬN.............................................................................................................63
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................64
PHỤ LỤC................................................................................................................69


CÁC CHỮ VIẾT TẮT THƯỜNG DÙNG TRONG LUẬN VĂN
TLC (Thin layer Chromatography): Sắc ký lớp mỏng
CC (Column Chromatography): Sắc ký cột thường
FC (Flash Chromatography): Sắc ký cột nhanh
Mini-C (Mini Column Chromatography): Sắc ký cột tinh chế
IR (InfraRed spectroscopy): Phổ hồng ngoại
NMR (Nculear Magnetic Resonance): Phổ cộng hưởng từ hạt nhân

1

H-NMR (Proton-Nuclear Magnetic Resonance): Phổ cộng hưởng từ hạt nhân

proton
13

C-NMR (Carbon-13 Nuclear Magnetic Resonance): Phổ cộng hưởng từ hạt nhân

cacbon-13
DEPT (Distortionless Enhancement by Polarization Transfer): Phổ DEPT
GC-MS (Gas Chromatography-Mass Spectrometry): Sắc ký-Khí khối phổ
ESI-MS (Electron Spray Ionization-Mass Spectrometry): Phổ khối lượng ion hoá phun
bụi electron


DANH MỤC CÁC HÌNH, CÁC BẢNG, VÀ CÁC SƠ ĐỒ
Hình 1.1: Ké đầu ngựa (Xanthium strumarium L., Asteraceae)
Hình 1.2: Ké hoa đào, Ké hoa vàng, và Ké đầu ngựa

Bảng 4.1: Hiệu suất thu nhận các phần chiết từ cây Ké đầu ngựa
Bảng 4.2: Phân tích TLC phần chiết lá n-hexan (HBLH)
Bảng 4.3: Phần tích TLC phần chiết lá điclometan (HBLD)
Bảng 4.4: Phân tích TLC phần chiết cành n-hexan (HBCH)
Bảng 4.5: Phân tích TLC phần chiết cành điclometan (HBCD)
Bảng 4.6: Phân tích TLC phần chiết lá và cành etyl axetat (HBE)

Sơ đồ 4.1: Quy trình điều chế các phần chiết từ cây Ké đầu ngựa
Sơ đồ 4.2: Phân tách phần chiết lá n-hexan (HBLH)
Sơ đồ 4.3: Phân tách phần chiết lá nước (HBLW)

Sơ đồ 4.4: Phân tách phần chiết cành n-hexan (HBCH)
Sơ đồ 4.5: Phân tách phần chiết cành điclometan (HBCD)
Sơ đồ 4.6: Phân tách phần chiết lá và cành etyl axetat (HBE)


MỤC LỤC CÁC PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Phổ 1H-NMR của HBLH2
Phụ lục 2: Phổ 1H-NMR của HBLH13
Phụ lục 3: Phổ (+)- ESI-MS của HBCH4
Phụ lục 4: Phổ 1H-NMR của HBCH4
Phụ lục 5: Phổ 13C-NMR của HBCH4
Phụ lục 6: Phổ 13C-NMR/DEPT của HBCH4
Phụ lục 7: Phổ 1H-NMR của HBCD8
Phụ lục 8: Phổ 13C-NMR của HBCD8
Phụ lục 9: Phổ 13C-NMR/DEPT của HBCD8
Phụ lục 10: Phổ 1H-NMR của HBCD9


Luận Văn Thạc Sĩ 2011-2013

LỜI MỞ ĐẦU
Trong hàng nghìn năm, các nền văn hóa trên tồn thế giới sử dụng các cây
thuốc để điều trị nhiều loại bệnh tật. Nhiều loại thuốc đang được sử dụng ngày nay
đã được phát triển từ các hoạt chất chứa trong cây thuốc cổ truyền. Trong thực tế,
phần lớn các thuốc điều trị ung thư và nhiễm khuẩn được phát hiện qua các nghiên
cứu hóa thực vật. Y học cổ truyền của các nước mô tả chi tiết các tác dụng dược lý
của các cây thuốc và các hoạt chất của chúng trở thành tài sản quí giá của mỗi quốc
gia, từ nguồn tư liệu này nhiều loại thuốc mới có thể được nghiên cứu và phát
triển.

Đánh giá vai trò của các hợp chất được tách chiết trong thực vật được ứng
dụng trong y tế thì theo số liệu khảo sát gần đây thì hơn 50% dược phẩm đã và
đang được sử dụng để chữa bệnh hay thử nghiệm lâm sàng. Mặc dù đã có các ghi
chép về tác dụng điều trị của một số cây thuốc nhưng nhìn tổng thể số lượng các
cây được nghiên cứu hóa thực vật một cách chi tiết còn rất khiêm tốn, số lượng các
hoạt chất liên quan trực tiếp đến các tác dụng điều trị của các cây thuốc được phát
hiện cịn ít hơn nữa. Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa là điều kiện thuận lợi
tạo nên sự đa dạng cho giới thực vật. Theo số liệu thống kế mới nhất thảm thực vật
của Việt Nam có trên 12.000 lồi và hơn 3.200 lồi được ứng dụng làm thuốc. Một
trong những vấn đề lớn được đặt ra cho các nhà nghiên cứu hóa sinh hữu cơ và hóa
học các hợp chất thiên nhiên là cần phải phát triển nhiều phương pháp nghiên cứu
mới, hiện đại, để nhanh chóng đánh giá được nguồn tài nguyên thực vật của Việt
Nam, bước đầu có những đóng góp quan trọng vào các nghiên cứu hóa hữu cơ, hóa
sinh, và y dược của thế giới.
Trong sự đa dạng của thế giới thực vật thì họ Cúc (Asteraceae) có một vai
trị quan trọng. Nhiều lồi cây trong họ này được biết đến với vai trị các dược thảo
có tác dụng tốt đối với con người hoặc các cây có giá trị thực phẩm. Nhiều cây của
họ này cho nhiều hợp chất có giá trị hoặc có các cấu trúc mới vô cùng lý thú. Chi

Ninh Thế Sơn

10


Luận Văn Thạc Sĩ 2011-2013

Xanthium thuộc họ này khá phổ biến trong tự nhiên và được tìm thấy trên nhiều
quốc

Ninh Thế Sơn


11


gia. Chi này ở Việt Nam được đặc trưng bởi hai loài Ké đầu ngựa (Xanthium
strumarium L.) và Ké (Xanthium inaequilaterum DC.).
Xanthium strumarium L. được biết đến là tổng hợp nhiều các chất
xanthanolit (các seco-guaianoid) và thiazin, một nhóm nhỏ các chất có cấu trúc rất
đặc biệt. Phổ mạch hoạt tính của các chất này có thể quyết định cho nhiều tác dụng
điều trị của Xanthium strumarium một loài cây được dùng làm thuốc ở nhiều nước.
Ở Việt Nam, cây Ké đầu ngựa được trồng lấy quả làm thuốc ở một số địa phương
như Hà Nội và Hịa Bình, tuy nhiên chưa có các đánh giá khoa học về hiệu quả sử
dụng của loài cây này. Nghiên cứu sự phụ thuộc của các thành phần hóa học của
cây trồng vào các điều kiện sinh trưởng và địa lý của cây đã được xác định là một
nội dung nghiên cứu của Hóa nơng nghiệp trong thời gian gần đây và các phương
pháp nghiên cứu hóa học đã được áp dụng để đánh giá sự ảnh hưởng này. Xuất
phát từ yêu cầu thực tiễn về đánh giá khoa học cho các cây thuốc Việt Nam, trong
luận văn này, chúng tôi đã lựa chọn cây Ké đầu ngựa mọc ở Hịa Bình làm đối
tượng nghiên cứu với mục tiêu bước đầu đánh giá các thành phần hóa học (các
terpenoid, flavonoid, và steroid) có trong lồi cây này qua phân lập để có thể có
một số cơ sở ban đầu cho việc tiếp tục nghiên cứu phát triển cây thuốc này một
cách hiệu quả ở Việt Nam.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1 KHÁI QUÁT VỀ HỌ CÚC (ASTERACEAE) VÀ CHI XANTHIUM
1.1.1 Họ Cúc (Asteraceae) [7]
Họ Cúc (danh pháp khoa học: Asteraceae hay Compositae), còn gọi là họ
Hướng dương, họ Cúc tây, là một họ thực vật có hoa hai lá mầm. Tên gọi khoa học

của họ này có từ chi Aster (Cúc tây). Asteraceae là họ lớn nhất trong
Magnoliophyta. Họ Asteraceae có 1.100 chi và 20.000 lồi phân bố rộng khắp trên
thế giới nhưng phổ biến nhất tại khu vực ơn đới và miền núi nhiệt đới.
Các lồi thuộc về họ Cúc có các đặc trưng thực vật sau:


Cụm hoa: Cụm hoa dạng đầu.



Bao phấn hữu tính, tức là với các nhị hoa kết hợp lại với nhau tại các gờ của
chúng bởi các bao phấn, tạo thành ống.



Bầu nhụy với sự phân bổ cơ bản của các noãn hoa.



Các nỗn hoa trên một bầu nhụy.



Mào lơng (chùm lơng trên quả).



Quả là loại quả bế (tạo thành từ một lá nỗn và khơng nẻ ra khi chín).




Các sesquiterpen có mặt trong tinh dầu, nhưng khơng có các iridoid.
Họ Asteraceae bao gồm chủ yếu các cây thân cỏ, cây bụi và một số rất ít cây

thân gỗ. Lá của họ này có thể mọc đối, so le hoặc ít phổ biến hơn là kiểu mọc
vịng. Lá có thể là lá đơn có hình lơng chim hoặc lá kép hình chân vịt và khơng có
lá kèm. Hoa được chia làm hai kiểu cơ bản: hình ống đối xứng tỏa tia hay loại
được tạo hình dây đối xứng hai bên. Hoa có thể là đơn tính hay lưỡng tính tùy loại.
Họ Asteraceae chia làm ba bộ lớn:
- Heliantheceae;


- Lactuceae;
- Senecionceae.
Họ Asteraceae là họ có số lồi làm thuốc lớn nhất trong giới thực vật, có
khoảng 51 lồi thường làm thuốc, trong đó có 18 lồi dùng trong công nghiệp dược
là Actiso, Bạch truật, Cỏ nhọ nồi, Cỏ ngọt, Cúc hoa, Cúc tần, Hồng hoa, Hy thiêm,
Ké đầu ngựa, Khoản đông hoa, Mần tưới, Mộc hương, Ngải cứu, Ngưu bàng, Sài
đất, Thương truật, Thanh hao hoa vàng, Tử uyển.
1.1.2 Chi Xanthium
Xanthium là một chi của loại cây có hoa trong họ Cúc (Asteraceae) và là các
loài cây phổ biến ở châu Mỹ và châu Á. Chúng thuộc loại cây thảo nhất niên cao
khoảng 50-120 cm, lá mọc so le, có mép răng cưa. Khơng giống như các chi khác
thuộc họ Cúc với quả phủ lông ở đầu, quả Xanthium cứng, có nhiều gai nhọn, hình
cầu hoặc oval dễ bám vào quần áo hoặc da động vật.
Theo tài liệu [1] chi Xanthium hiện có 25 lồi trên thế giới, ở Việt Nam có
hai lồi là Xanthium strumarium L. và Xanthium inaequilaterum L.
Các loài của chi Xanthium được sử dụng như một loại thuốc thảo mộc cổ
truyền trong một thời gian dài ở các nước phương Đông.
1.2 ĐẶC ĐIỂM CÂY KÉ ĐẦU NGỰA (XANTHIUM STRUMARIUM L.)

1.2.1 Đặc điểm thực vật
Ké đầu ngựa (Tên khoa học: Xanthium strumarium L.) (Tên tiếng Pháp
Lambourde; Herbe aux écsrouelles, tên Hán Việt: Thương Nhĩ, Phắt Ma) thuộc họ
Cúc (Compositae hay Asteraceae). Là loại cây thuộc thân thảo (thân mềm yếu,
vịng đời ngắn, khơng chứa lignin). Quả có răng móc, được dùng làm thuốc gọi là
Thương Nhĩ Tử chữa phong thấp hay mụn nhọt [3].


Hình 1: Ké đầu ngựa

Hình 1: Ké đầu ngựa (Xanthium strumarium L., Asteraceae)

Ké đầu ngựa (Xanthium strumarium L.) thuộc cây thân thảo, là cây nhất
niên, ít có nhánh, cao từ 50 đến 80 cm. Thân có khía dọc, có lơng nhám, màu lục,
đơi khi có chấm tím. Lá hình tim hoặc bầu dục có xẻ 5 múi, có răng cưa khơng
đều, hai mặt lá có lơng cứng, bề dài 4-10 cm, ngang 4-12 cm. Cụm hoa ở đầu cành
hoặc kẽ lá, màu lục nhạt, gồm 2 loại đầu cùng gốc. Đầu trên nhỏ, mang hoa lưỡng
tính, những đầu khác mang hoa cái. Quả dạng chập đơi, hình bầu dục, có gai, mỗi
trái dài từ 12- 15 mm, ngang 7 mm. Nếu là quả đơn thì dài 12 mm, ngang 6 mm,
hơi dẹp, một mặt bằng, một mặt lồi. Bên trong có hai hột.
Trên thế giới Ké đầu ngựa được tìm thấy ở nhiều quốc gia như Mỹ, Canada,
Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Campuchia. Ở Việt Nam, cây Ké đầu ngựa mọc hoang ở
nhiều nơi, những vùng núi ở độ cao dưới 1.500 m đến những vùng đồng bằng ven


biển. Cây Ké đầu ngựa mọc ven đường hay trên các nương rẫy, bờ ruộng. Ngày
nay, do nhu cầu, nhiều nơi đã trồng cây Ké đầu ngựa làm thuốc [8].
1.2.2 Đặc điểm sinh thái [8]
Tùy vào điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng từng vùng mà các loài Xanthium
mọc phổ biến cũng khác nhau. Ở Việt Nam và Trung Quốc phổ biến loài Xanthium

strumarum L. Nhưng với một số quốc gia Nam Mỹ với điều kiện khí hậu ơn đới
như Chile thì Xanthium spinosum L. lại là phổ biến.
Cây Ké đầu ngựa có thể sống trên nhiều loại đất khác nhau, cây bắt đầu mọc
vào mùa Xuân sinh trưởng và phát triển nhanh trong mùa mưa ẩm, sang mùa Hạ
cây ra hoa, kết trái, cuối mùa Hạ sang mùa Thu quả chín. Cây ưa ánh sáng và có
thể chịu hạn, thường mọc thành đám ở ven đường, vùng đồi, bãi hoang, bờ sông.
Ngày nay do nhu cầu, Ké đầu ngựa được nhân dân ta đem vào gieo trồng.
Nó được trồng vào mùa Xuân. Đào đất thành những hốc sâu 10-15 cm, mỗi hốc
cách nhau 50-60 cm. Cho tro hay đất song, đất phốt phát vào rồi cho mỗi hốc 3-4
hột. Phủ một ít đất lên, tưới ẩm vừa phải hằng ngày. Sau độ 10 ngày cây mọc. Khi
cây cao độ 6-7 cm có thể đem trồng ở chỗ khác. Vào cuối mùa hè hay đầu mùa thu
là có thể thu hoạch cả quả lẫn cây (đem sấy khô hoặc phơi khi thu hoạch) [8].
Cần phân biệt cây Ké đầu ngựa với cây Ké hoa đào (Urena lobata L.) và cây
Ké hoa vàng (Sida rhombifolia L.). Hai cây này nhỏ và thấp hơn, có trái nhỏ,
khơng có hình thoi như trái Ké đầu ngựa.


Ké hoa đào

Ké hoa vàng

Ké đầu ngựa

Hình 2: Ké hoa đào, Ké hoa vàng, và Ké đầu ngựa
1.2.3 Công dụng trong y học cổ truyền
Cây Ké đầu ngựa có vị ngọt, tính ơn, hơi độc, có tác dụng làm đổ mồ hôi,
tán phong, trị các chứng phong hàn, đau nhức, phong tê thấp, tê dại, mờ mắt, chân
tay co giật, uống lâu ích khí [8].
Lá Ké đầu ngựa đắng và chát. Ở Việt Nam, lá được dùng làm thuốc hoạt
nhuận. Với rễ cây, chắt lấy nước đem đắp vào chỗ ung nhọt [8].

Hoa có tính bồi bổ sức khỏe, an thần, giúp ra mồ hôi. Người Malaysia dùng
làm nước sát trùng [8].
Hiện nay Ké đầu ngựa là một vị thuốc thường dùng trong y học dân gian
Việt nam, Trung quốc để chữa mụn nhọt, lở loét, bướu cổ, ung thư phát bối (đằng
sau lưng), mụn nhọt không đầu, đau răng, đau cổ họng, viêm mũi [3].
Ké đầu ngựa (Thương Nhĩ Tử) thường được nhân dân Trung Quốc thường
chế thành cao Thương Nhĩ còn gọi là Vạn ứng cao chữa lở loét, mụn nhọt. Cách
làm như sau: từ tháng 5-9, hái tồn cây về phơi khơ, cắt nhỏ nấu với nước, lọc và
cơ thành cao mềm. Khi uống hồ với nước âm ấm, mỗi ngày dùng 6-8 g cao. Uống
luôn từ 1/2 tháng đến 2 tháng [3].


Có thể chế thành thuốc viên Thương Nhĩ Hồn như sau: Bỏ rễ, rửa sạch, cắt
ngắn cho vào nồi nấu với nước sôi trong 1 giờ, lọc lấy nước, bã cịn lại thêm nước,
nấu sơi một giờ nữa, lọc và ép lấy hết nước. Hợp cả hai nước lại, cô thành cao
mềm. Khi lấy que nhúng vào cao, nhỏ lên giấy, giọt cao khơng loang ra nữa là
được. Sau đó thêm vừa đủ bột vào (chừng 1/3 lượng cao) trộn đều chế thành viên
[3].
Nhân dân Liên Xô cũ dùng Ké đầu ngựa để chữa bướu cổ, các bệnh mụn
nhọt, nấm tóc, hắc lào, lỵ và đau răng.
Ở Ấn Độ, người ta dùng Ké đầu ngựa trị sốt rét, làm toát mồ hôi, trị bệnh
tràng nhạc, ung thư, quả làm dịu kích thích, trị bệnh đậu mùa.
Gần đây theo Đỗ Tất Lợi Và Phạm Kim Loan, với cây Ké đầu ngựa thu hái
ở các tỉnh miền núi như Lạng Sơn, Cao Bằng, Hịa Bình thì tất cả các bộ phận của
cây (trái, thân, lá) đều chứa hàm lượng iot lớn, trung bình vào khoảng 150 µg iot
trong một gam thân, lá hay trái. Do đó, cây Ké đầu ngựa được dùng để phòng ngừa
và chữa bệnh bướu cổ. Nhu cầu hàng ngày của cơ thể về iot là 200-300 µg; mỗi
ngày, một người chỉ cần uống 1-2 gam cây hay trái Ké đầu ngựa phơi khô. Trong 2
năm 1969-70, Tổng cục Lâm nghiệp Việt nam đã dùng cao Ké đầu ngựa chế thành
viên chữa bướu cổ tại một số lâm trường miền núi. Kết quả đạt trên 80% người

khỏi bệnh [8].
Ngoài ra, Ké đầu ngựa cịn có tác dụng làm giảm cường độ co bóp của tim,
giảm thân nhiệt và lợi tiểu. Hoạt chất xanthumin có tác dụng ức chế thần kinh
trung ương. Đặc biệt, Ké đầu ngựa cịn có tác dụng kháng các vi khuẩn Gram và
kháng nấm [9].
Ké đầu ngựa chữa thấp khớp, viêm khớp: Ké đầu ngựa 12 g, cỏ Xước 40 g,
Hy thiêm 28 g, Thổ phục linh 20 g, cỏ Nhọ nồi 16 g, Ngải cứu 12 g. Tất cả sao
vàng, sắc nấu uống thường xuyên trong ngày [9].


Chữa mụn nhọt, chữa lở: Ké đầu ngựa 10 g, Kim ngân hoa 20 g, làm dạng
chè thuốc, đóng 30 g/ gói, mỗi ngày uống 1 gói, hãm nước sơi uống cả ngày. Hoặc



đầu ngựa 10 g, Bồ công anh 15 g, Sài đất 10 g, Kim ngân hoa 5 g, Cam thảo đất 2
g. Tất cả bào chế thành dạng chè thuốc, trọng lượng của 1 gói là 42 g, mỗi ngày
dùng 1 gói, cho hãm nước sơi uống trong ngày [9].
Chữa đau răng: Sắc nước quả Ké đầu ngựa ngựa ngậm nhiều lần rồi nhổ ra
[9].
Chữa viêm mũi dị ứng, tăng tiết dịch: Quả Ké đầu ngựa sao vàng, tán bột, 47 g/ ngày [9].
Chữa phù thũng chưa rõ nguyên nhân, tiểu tiện ít: Thương Nhĩ Tử thiêu tồn
tính, Đinh lịch, các vị bằng nhau, tán nhỏ, pha với nước uống trong ngày, mỗi lần 8
g, uống 2 lần/ngày [9].
Chữa bướu cổ: Quả Ké đầu ngựa sao vàng, sắc, đun sôi trong 15 - 20 phút,
uống 4 - 5 g trong ngày [9].
Chữa mũi chảy nước trong, đặc: Tán trái Ké đầu ngựa sao vàng thành bột.
Ngày uống 4-8 g [8].
Chữa phong khí mẩn ngứa: Bột lá Ké đầu ngựa 8 g uống với rược ngâm Đậu
đen. Phối hợp với cách dung bên ngồi: Lá Ké, Bồ hịn, Nghể răm, Thuốc bỏng

nấu nước xông để tắm [8].
Nổi mề đay: Loại mề đay từng đám lặn chỗ này, mọc chỗ khác. Thương Nhĩ
Tử 10 g, Kinh giới 15 g, Bạc hà 15 g. Tất cả rửa sạch nấu lấy nước (bỏ bã) nấu
cháo [8].
Loại mề đay đỏ, nóng, ngứa nhiều. Hạt Thương Nhĩ Tử 15 g, Sinh địa 30 g,
Bạc hà 12 g. Nấu lấy nước uống [8].
Thuốc mỡ trái Ké: Cao lỏng trái Ké 100 ml, lanolin 100 g, vaselin 200 g,
glycerin 10 ml. Bơi ngồi da chứa rơm sẩy, mẩn ngứa [8].
Viêm xoang mũi dùng bài Thương Nhĩ Tử của Nghiêm Dung Hòa đời Tống
trong Tê Sinh Phương: Thương Nhĩ Tử 8g, Tân Di Hoa 15 g, Bạc hà 3 g, Bạch chỉ


30 g. Trà lượng vừa đủ, Hành lượng vừa đủ. Tán bột mịn 4 vị trên, uống sau bữa
cơm mỗi lần 6 g với nước Trà và Hành nấu chung. Nếu viêm Xoang thời kỳ đầu
thuộc biểu chứng thì tang lượng Bạc hà. Có thể them Cúc hoa, Liên kiều, Cát căn,
Kim ngân hoa.
Thấp khớp: Rược Thương Nhĩ (Phổ Tế Phương): Thương Nhĩ Tử 30 g,
Phòng phong 30 g, Bàng tử (sao) 30 g, Đại sinh địa 30 g, Độc hoạt 30 g, Ý dĩ nhân
20 g, Nhân sâm 15 g, Nhục quế 12 g. Tất cả giã nát cho vào túi vải ngâm vào rược
2 lít, buộc kín miệng bình. Sau một tuần uống được, mỗi lần một ly. Ngày uống 23 lần.
Các bệnh ngoài da do dị ứng, chàm: Ké đầu ngựa 9 kg, Thổ phục linh 9 kg,
cồn benzoic 10% 300 ml. Nước vừa đủ 23 lít. Nếu khơng dùng đường thì nấu
nước, cơ cao, tán bột làm viên. Đã điều trị 124 trường hợp cho kết quả tốt [3].
Viêm da mủ và nhiễm trùng thứ phát (chốc, nhọt, loét sâu quảng, bối thư, do
liên tụ cầu). Dùng Ké đầu ngựa, Kim ngân hoa, Bồ công anh, Thổ phục linh, Sài
đất mỗi vị 30 g (công thức điều trị của bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng-Khoa truyền
nhiễm). Kết quả khỏi 73,8 %, đỡ 18,8 %, không khỏi 7,4 %.
Chữa ung thư não: Thương Nhĩ Tử 15 g, Thất diệp nhất chi hoa (cây 7 lá 1
hoa) 16 g, Viễn chi 10 g, Xương bồ 6 g, sắc uống ngày 1 thang [3].
1.3 MỘT SỐ NGHIÊN CỨU HÓA HỌC VÀ HOẠT TÍNH SINH HỌC CỦA

CÂY XANTHIUM STRUMARIUM
Xanthium strumarium L. đã được các nhà khoa học Ấn Độ thử nghiệm lâm
sàng trong việc điều trị bệnh động kinh. Phân đoạn chiết ete được tiêm vào tĩnh
mạch chuột bạch tạng Wistar (250 mg/kg và 500 mg/kg), sau đó áp dụng biện pháp
sốc điện tối đa và uống thuốc động kinh pentylenetrazole (PTZ). Kết quả chỉ ra khả
năng kháng chấn động sốc điện là 5,14±0,154 (250 mg/kg) và 2,64±0,16 (500
mg/kg)
giây, PTZ là 523,64±1,21 và 571,36±1,62 giây [19].


Dịch chiết etanol cây Xanthium strumarium đã được Yogananda R. và
Sridharamurthy N. B thử với hai chủng vi khuẩn Gram dương (Bacillus subtilus


NCIM 2718 và Staphylococcus aureus ATCC25923) và ba chủng vi khuẩn Gram
âm (Pseudomonas aeruginosa ATCC 27.853, Klebsiella pneumoniea ATCC
70.063, và Eschrichia coli ATCC 25922). Kết quả dương tính với các chủng vi
khuẩn được cho là do sự xuất hiện các hợp chất tannin, flavonoit, tritecpenoit và
axit phenolic trong dịch chiết [37].
Các axit béo chứa trong dầu của cây Xanthium strumarium đã được xác định
là axit palmitic 5,32 %, axit linoleic 3,68 %, axit stearic 64,2 %, và axit oleic 26,8
% [8].
Theo Whehmer (1931) trong quả Xanthium strumarium có chứa 1,27% một
chất glucozit gọi là xanthostrumarin, 3,3% nhựa và vitamin C.
Theo Xocolov (1952) Xanthium strumarium ở Liên Xơ có chứa ancaloit
nhưng theo sự phân tích của Viện Y học Bắc Kinh (1958) thì trong quả Xanthium
strumarium có chất saponin (glucozit) (1), khơng có ancaloit [3].

1



Năm 1970, Paschenko và Pivnenko đã tìm thấy trong cây Xanthium strumarium
ở thời kỳ ra hoa chứa axit caffeic (2) và axit 1,4-dicaffeoylquinic (3) [8].

2 R = COOH
3 R = C17H17O10
Axit trans-caffeic từ phần chiết axeton quả cây Ké đầu ngựa được tiêm vào
tĩnh mạch chuột được gây tiểu đường bằng streptozotocin (chuột STZ) và chuột
mắc bệnh tiểu đường không phụ thuộc vào insulin (chuột NIDDM) nhằm nghiên
cứu khả năng kháng bệnh tiểu đường với liều lượng 0,5-3 mg/kg. Kết quả chỉ ra
khả năng chống lại sự tăng đường huyết trong máu của axit caffeic được đưa vào ở
liều lượng 3 mg/kg thể trọng đạt giá trị 23,8±8,8% đối với chuột STZ và
33,4±5,7% đối với chuột NIDDM. Khi sử dụng metformin (thuốc chống đái tháo
đường) khả năng chống tăng lượng đường trong máu của chuột STZ là 18,4±3,1%
và chuột NIDDM là 28,2±4,5% (100 mg/kg). Tiêm axit caffeic giúp chuột duy trì
được trạng thái ổn định tốt từ 30-40 phút, tối đa là 90 phút. Axit caffeic không làm
giảm lượng đường mà chỉ làm ổn định lượng đường trong máu cho chuột thí
nghiệm [36].
Quả ké chứa carboxyatractylozit ở dạng muối có tác dụng hạ đường huyết
rất mạnh, có độc tính và xanthelin và xanthamin là những chất có tác dụng kháng
khuẩn. Năm 1976, Craig J. và cộng sự đã phân lập và xác định được từ Xanthium
strumarium một ditecpen glycosit là carboxyatractylosid (4). Carboxyatractylosid
và muối của nó thể hiện mức độ ức chế cao và chọn lọc với các translocator
nucleotide adenine (ANT) [8].


4
Han T. và cộng sự đã phân lập được 7 hợp chất từ cây Xanthium strumarium
bao


gồm

các

thiazin



7-hydroxymethyl-8,8-dimethyl-4,8-

dihydrobenzo[1,4]thiazin-3,5-dion 11-O-β-D-glucopyranoside (5), 2-hydroxy-7hydroxymethyl-8,8-dimethyl-4,8-dihydrobenzol[1,4]thiazin-3,5-dion-11-O-β-Dglucopyranosid (6), xanthiazon (7); và các hợp chất phenolic là axit chlorogenic
(8), axit ferulic (9), formonometin (10), và ononin (11) [30].

5 R1 = β-D-Glc, R2 = H
6 R1 = β-D-Glc, R2 = OH
7 R1 = H, R2 = H

8

9


×