Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

tiểu luận cao cấp lý luận chính trị đấu tranh ngăn chặn và khắc phục bệnh quan liệu, tham nhũng, lãng phí trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.58 KB, 18 trang )

MBTH

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ TẬP TRUNG
TÊN MƠN HỌC:

TRIẾT HỌC MÁC
-LÊNIN TÊN BÀI THU
HOẠCH:
ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN VÀ KHẮC PHỤC BỆNH QUAN LIÊU,
THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số
Bằng chữ

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
B. PHẦN NỘI DUNG...................................................................................... 2
1. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC ..................... 2
1.1. Nguồn gốc và bản chất của nhà nước ....................................................... 2
1.2. Chức năng và hình thức của nhà nước ...................................................... 4
1.3. Tính tất yếu và bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa .......................... 5
2. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT


NAM GẮN LIỀN VỚI CUỘC ĐẤU TRANH NGĂN NGỪA VÀ KHẮC
PHỤC BỆNH QUAN LIÊU, THAM NHŨNG ............................................... 6
2.1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam .................. 6
2.2. Xây dựng Nhà nước gắn liền với cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục
bệnh quan liêu, tham nhũng ............................................................................. 6
3. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC
ĐỂ ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN VÀ KHẮC PHỤC BỆNH QUAN LIÊU,
THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TẠI HUYỆN GÒ DẦU - TỈNH TÂY NINH ........ 8
3.1. Đặc điểm tình hình .................................................................................... 8
3.2. Thực trạng vận dụng quan điểm cơ bản chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà
nước để đấu tranh ngăn chặn và khắc phục bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng
phí trong xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ...................................... 9
C. KẾT LUẬN ............................................................................................... 14


1
A. MỞ ĐẦU
Lý luận về nhà nước được C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin nghiên
cứu, trình bày trong nhiều tác phẩm kinh điển. Những lý luận đó có ý nghĩa
thiết thực đối với việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Đó là Nhà nước của dân, do dân và vì nhân dân, dựa trên
nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ
trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong Nhà nước pháp quyền
Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và
kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến
pháp, pháp luật và theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân cơng, phân
cấp, đồng thời bảo
đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.

Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã
đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, tồn
diện. Quy mơ, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống vật chất và tinh
thần của Nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ
đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực,
nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt
qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới
toàn diện, đồng bộ; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta
là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng
định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta còn nhiều hạn
chế, khuyết diểm, nhất là đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí
đang có chiều hướng diễn biến ngày càng tăng, ảnh hưởng đến quá trình phát
triển đất nước, được Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Tham nhũng, lãng
phí trên một số lĩnh vực, địa bàn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu
hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một
trong nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta” [9, tr 93]. Do đó,
cuộc đấu tranh này của nước ta hiện nay, vẫn luôn xác định là một nhiệm vụ
cấp thiết.


2
Cùng chung tình trạng như cả nước, trong những năm gần đây, tình
trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí ở huyện Gị Dầu - tỉnh Tây Ninh có
những biểu hiện phức tạp, một số cán bộ có khuynh hướng xa rời chính trị,
sống bng thả, thực dụng, xa hoa, hưởng lạc, chạy theo những giá trị vật
chất, lợi dụng chức quyền và cương vị công tác để tham nhũng, làm giàu bất
chính, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân dân với

Đảng và chính quyền địa phương. Do nhận thức được tầm quan trọng của
vấn đề này, bản thân em đã chọn chủ đề: “Đấu tranh ngăn chặn và khắc
phục bệnh quan liệu, tham nhũng, lãng phí trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm bài thu hoạch kết thúc
môn triết học Mác-Lênin.
B. PHẦN NỘI DUNG
1. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC
1.1. Nguồn gốc va bản chất của nha nước
1.1.1. Nguồn gốc của nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, xã hội loài người từ khi xuất
hiện khơng phải ngay từ đầu đã có nhà nước. Nhà nước là một hiện tượng lịch
sử, chỉ xuất hiện và tồn tại trong một giai đoạn nhất định của lịch sử xã hội giai đoạn xã hội có sự phân chia thành giai cấp. Ph.Ăngghen viết: “nhà nước
tồn tại không phải là mãi mãi từ ngàn xưa. Đã từng có những xã hội khơng cần
đến nhà nước, khơng có một khái niệm nào về nhà nước và chính quyền nhà
nước. Đến một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định, giai đoạn tất nhiên phải
gắn liền với sự phân chia xã hội thành giai cấp thì sự phân chia đó làm cho
nhà nước trở thành một tất yếu” [1, tr 257], “nhà nước là sản phẩm của một xã
hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định” [1, tr 252]. Nhà nước ra đời là
một tất yếu trong xã hội có đối kháng giai cấp, do những nguyên nhân khách
quan.
V.I.Lênin chỉ rõ: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng
nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa
được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ
rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được” [2, tr 9].
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, vì vậy, khi những điều kiện, tiền đề


3
khách quan cho sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước khơng cịn nữa thì nhà

nước cũng khơng cịn tồn tại, nhà nước “tự tiêu vong”. Đó là lúc sản xuất phát
triển mà sự tồn tại của giai cấp, nhà nước “trở thành một trở ngại trực tiếp cho
sản xuất. Và, nhà nước khi đó, như Ph.Ăngghen khẳng định, sẽ chỉ là cơ quan
quản lý, chăm lo cho lợi ích chung của cộng đồng: “Tất cả mọi người xã hội
chủ nghĩa đều đồng ý công nhận rằng nhà nước và cùng với nhà nước là quyền
uy chính trị, sẽ mất đi sau cuộc cách mạng xã hội tương lai, nghĩa là những
chức năng xã hội sẽ mất tính chất chính trị và sẽ biến thành những chức năng
quản lý đơn thuần chăm lo đến lợi ích của xã hội” [3, tr 421- 422].
1.1.2. Bản chất của nhà nước
Nhà nước xuất hiện từ sự cần thiết phải kiềm chế sự đối lập giữa các
giai cấp, là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, cho nên theo quy luật chung, nó
là nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của giai cấp thống trị về mặt kinh tế
và nhờ có nhà nước mà giai cấp này trở thành giai cấp thống trị về mặt chính
trị. Do đó, nhà nước về bản chất là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị
về mặt kinh tế nhằm duy trì trật tự xã hội hiện hành, bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị, trấn áp sự phản kháng của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, lợi ích của các giai cấp là khơng thể
điều hồ được. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, V.I.Lênin viết:
“Theo Mác, Nhà nước là cơ quan thống trị giai cấp, là cơ quan áp bức của một
giai cấp này đối với một giai cấp khác; đó là sự kiến lập một “trật tự”, trật tự
này hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu sự xung đột giai
cấp” [4, tr 10].
Nhà nước nào về bản chất cũng là quyền lực chính trị của một giai cấp.
Hay nói cách khác, nhà nước mang tính giai cấp. Điều đó khơng chỉ bắt nguồn
từ mong muốn chủ quan, mà chủ yếu là do cơ sở kinh tế trên đó nhà nước tồn
tại quy định.
Trong xã hội có nhiều giai cấp, giai cấp nào cũng muốn giành, nắm, sử
dụng chính quyền nhà nước để bảo vệ và thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp
mình. Nhưng khơng phải giai cấp nào, lực lượng nào cũng đủ khả năng kiến
lập và sử dụng bộ máy nhà nước. Lực lượng kiến lập và sử dụng bộ máy nhà

nước phải là giai cấp có thế lực nhất - giai cấp thống trị về kinh tế.
1.2. Chức năng va hình thức của nha nước
1.2.1. Chức năng của nhà nước


4
Chức năng giai cấp của nhà nước: là chức năng thực hiện sự thống trị
chính trị của giai cấp cầm quyền đối với xã hội, được biểu hiện cụ thể ở những
nhiệm vụ như sau:
- Xây dựng, bảo vệ, cũng cố chế độ xã hội theo mục đích, yêu cầu của
giai cấp thống trị, hay định hướng sự phát triển xã hội theo một chế độ chính
trị phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích cơ bản của giai cấp cầm quyền;
- Thực hành chuyên chính, trấn áp các giai cấp đối lập, những lực lượng
chống đối (cả về tinh thần lẫn thể xác) buộc các giai cấp, lực lượng đó phải
phục tùng ý chí, lợi ích của giai cấp thống trị;
- Củng cố và mở rộng cơ sở chính trị - xã hội cho sự thống trị của giai
cấp cầm quyền, bằng cách lôi kéo các giai cấp trung gian, chia rẽ, xoa dịu các
giai cấp đối lập để ngăn chặn những xung đột làm ảnh hưởng đến địa vị thống
trị của giai cấp thống trị.
Chức năng xã hội của nhà nước: là chức năng thực hiện quản lý những
hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, chăm lo những cơng việc chung của
tồn xã hội và trong giới hạn có thể được nó phải thỏa mãn một số nhu cầu
của cộng đồng dân cư trong xã hội. Chức năng xã hội biểu hiện ở những
nhiệm vụ
như:


5
- Giải quyết những công việc chung của xã hội;
- Tổ chức kiến tạo và bảo vệ trật tự công cộng, bảo vệ môi trường sinh

thái;
- Quản lý, điều tiết các lĩnh vực của đời sống xã hội…
Như vậy, bất kỳ nhà nước nào cũng có chức năng giai cấp và chức năng
xã hội. Chức năng giai cấp và chức năng xã hội là hai chức năng có mối liên
hệ mật thiết với nhau, thống nhất biện chứng với nhau trong một nhà nước.
1.2.2. Hình thức của nhà nước
Phân loại các nhà nước trong lịch sử, quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin
dựa trên hai khái niệm: kiểu và hình thức của nhà nước.
Kiểu nhà nước: là khái niệm dùng để chỉ quyền lực nhà nước đó thuộc
về giai cấp nào, nó tồn tại trên cơ sở kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh
tế - xã hội nào. Cái cốt lõi nhất và là cái đáng quan tâm nhất của kiểu nhà
nước là bản chất quyền lực nhà nước.


Hình thức nhà nước: là nói đến phương thức tổ chức và thực hiện quyền
lực nhà nước. Hình thức nhà nước được xem xét trên ba phương diện: hình
thức cầm quyền; hình thức cấu trúc lãnh thổ; chế độ chính trị.
1.3. Tính tất yếu va bản chất của nha nước xã hội chủ nghĩa
Khẳng định tính tất yếu ra đời của nhà nước vô sản, C.Mác viết: “Giữa
xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến
cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời
kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là
nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” [5, tr 47].
V.I.Lênin chỉ rõ: “Con đường tiến lên, nghĩa là tiến lên chủ nghĩa cộng
sản, phải trải qua chun chính vơ sản chứ khơng thể đi theo hướng nào khác
cả, vì khơng có giai cấp nào khác, mà cũng khơng có con đường nào khác, để
đập tan sự phản kháng của bọn tư bản bóc lột được” [6, tr 108].
Nhà nước vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới, về
bản chất nó là chính quyền của nhân dân, là quyền lực của nhân dân. Đây là
điểm khác nhau cơ bản của nhà nước vô sản so với nhà nước của các giai cấp

bóc lột. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Trong đa số những nhà nước đã từng tồn
tại trong lịch sử, những quyền ban cho cơng dân cịn tỷ lệ với tài sản của họ,
và điều đó trực tiếp nói lên rằng nhà nước là một tổ chức của giai cấp hữu
sản, dùng để bảo vệ giai cấp này chống lại giai cấp khơng có của” [1, tr 256].
Về điểm này, V.I.Lênin cũng chỉ rõ: “một trong những tư tưởng đặc sắc nhất
và trọng yếu nhất của chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước, chính là tư tưởng
“chun chính vơ sản”, “Nhà nước, tức là giai cấp vô sản được tổ chức thành
giai cấp thống trị” [6, tr 30].
Xét về phương diện giai cấp cũng như nền tảng kinh tế, nhà nước vơ
sản là nhà nước duy nhất có cơ sở khách quan cho sự thống nhất giữa tính giai
cấp và tính nhân dân. Vả lại sự thống nhất này là đòi hỏi của chính nhà nước
vơ sản. Khơng đảm bảo sự thống trị chính trị của giai cấp vơ sản thì nhân dân
khơng có quyền lực thực sự, ngược lại, chỉ khi đảm bảo quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân thì giai cấp vơ sản mới thực hiện được mục đích thống trị
chính trị của mình.
2. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM GẮN LIỀN VỚI CUỘC ĐẤU TRANH NGĂN NGỪA VÀ
KHẮC PHỤC BỆNH QUAN LIÊU, THAM NHŨNG


2.1. Xây dựng nha nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền là một hình thức nhà nước chứa đựng những giá
trị quí báu của nền dân chủ tiến bộ và được xem như là một yếu tố của nền văn
minh nhân loại với những đặc trưng phổ biến như: cội nguồn quyền lực nhà
nước là ở nhân dân; là nhà nước bảo đảm tính tối cao của hiến pháp và pháp
luật trong đời sống xã hội; nhà nước thực hiện và bảo vệ các quyền tự do, dân
chủ của công dân; nhà nước đảm bảo tính trách nhiệm của mình trước cơng
dân và xã hội, v.v.. Cho đến nay, nhà nước pháp quyền được đánh giá là hình
thức nhà nước có khả năng thực hiện dân chủ tốt nhất.
Trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước trước đây chưa sử dụng

thuật ngữ nhà nước pháp quyền, nhưng một số đặc trưng, giá trị phổ biến của
nhà nước pháp quyền thì đã được nhận thức và diễn đạt khá rõ nét trong các
bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980. Đó chính là kết quả
của việc vận dụng tư tưởng về nhà nước kiểu mới của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin và Hồ Chí Minh. Điều này thể hiện rõ trong nội dung các văn kiện
của Đảng qua các kỳ đại hội, cụ thể như Đại hội XI chỉ đạo quyết tâm phải
“Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa” [7, tr 246]; Đại hội XII xác định: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm
của đổi mới hệ thống chính trị” [8, tr 175]; Đại hội XIII đã khẳng định: “Tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng
tâm của đổi mới hệ thống chính trị” [9, tr 174].
2.2. Xây dựng Nha nước gắn liền với cuộc đấu tranh ngăn ngừa va
khắc phục bệnh quan liêu, tham nhũng
Ngay từ những ngày đầu tiên xây dựng chính quyền Xơ Viết và trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, V.I.Lênin đã nhận diện rõ nạn tham ô,
tham nhũng, nảy sinh trong cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức,
có quyền và cảnh báo tham nhũng là căn bệnh cố hữu, len lỏi, phát triển thành
ung nhọt, làm nhức nhối xã hội, ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ.
Quan liêu, tham nhũng là hiện tượng không phù hợp với bản chất của
nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhưng lại là một căn bệnh rất dễ phát sinh, nhất là
khi nhà nước đó chưa tồn tại trên cơ sở của chính nó. Trên thực tế, nhà nước ở
các nước xã hội chủ nghĩa đã nhiễm phải căn bệnh này ở những mức độ khác


nhau. Để bảo đảm bản chất ưu việt của nhà nước xã hội chủ nghĩa, xây dựng
bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ
căn bệnh nguy hiểm này. Như V.I.Lênin đã khẳng định: “Chỉ khi nào toàn thể
nhân dân đều tham gia quản lý thì khi ấy mới có thể đả phá chủ nghĩa quan

liêu đến cùng, đến thắng lợi hoàn toàn được” [10, tr 205]. Vì vậy để khắc phục
tình trạng quan liêu, tham nhũng, theo V.I.Lênin, phải “thi hành ngay những
biện pháp khiến tất cả mọi người đều làm chức năng kiểm sát và giám thị,
khiến tất cả mọi người đều tạm thời biến thành “quan liêu”, và do đó, khiến
khơng một ai có thể biến thành “quan liêu” được” [6, tr 134].
Việt Nam xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa từ một xã hội không trải
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chưa có chế độ dân chủ tư sản, hơn
nữa còn từ xuất phát điểm của một xã hội mà trình độ kinh tế, văn hóa cịn
thấp kém, do đó cuộc đấu tranh với quan liêu, tham nhũng cần xác định sẽ
càng khó khăn, phức tạp và kéo dài hơn.
Sau một số năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII
về lĩnh vực đấu tranh phòng và chống quan liêu, tham nhũng, Nghị quyết hội
nghị Trung ương 4 khóa IX, đã chỉ rõ: Chúng ta đã đạt được một số kết quả có
tác dụng cảnh báo, răn đe, ngăn ngừa, kiềm chế nhất định nhưng vẫn chưa đạt
yêu cầu đề ra, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được các tệ nạn đó. Đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng ở nước ta đã và đang là vấn đề bức xúc. Đại hội lần thứ
X khẳng định: “Tích cực phịng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng
phí là địi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm
xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục
một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta” [11, tr 45-46],
đồng thời chỉ đạo rõ: Phải thi hành một cách kiên quyết và đồng bộ hệ thống
các biện pháp phịng, chống tham nhũng, lãng phí, bao gồm: bổ sung, hoàn
thiện các quy định về quản lý kinh tế - tài chính, về thanh tra, kiểm tra; tiếp
tục đẩy mạnh
cải cách hành chính, sắp xếp, tổ chức bộ máy gọn nhẹ; bảo đảm công khai,
minh bạch các hoạt động kinh tế, tài chính trong các cơ quan, đơn vị; tiếp tục
đổi mới chế độ tiền lương đối với cán bộ công chức. Xử lý kiên quyết, kịp
thời, công khai những người tham nhũng bất kể ở chức vụ nào, đương chức
hay đã nghỉ hưu, v.v..
Tuy đã thực hiện nhiều biện pháp đấu tranh chống quan liêu, tham

nhũng, nhưng Đại hội XI nhận thấy: “Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn
nghiêm


trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi,
gây bức xúc xã hội” [7, tr 172]. Đại hội XII xác định: tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí cịn diễn biến phức tạp [8, tr 19]. Đại hội XIII chỉ rõ: Tình
trạng nhũng nhiễu, tiêu cực chưa được đẩy lùi. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn
nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi. Tham nhũng
vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta [9,
tr 93].
Vì vậy, Đại hội XIII xác định, một trong những nhiệm vụ trọng tâm
trong nhiệm kỳ đại hội là: “Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan
liêu, tham nhũng” [9, tr 200]. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải: “Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí”, “ngăn chặn,
đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động
mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn” [9, tr 193].
3. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ NHÀ
NƯỚC ĐỂ ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN VÀ KHẮC PHỤC BỆNH
QUAN LIÊU, THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ TRONG XÂY DỰNG ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TẠI HUYỆN GÒ DẦU - TỈNH
TÂY NINH
3.1. Đặc điểm tình hình
Huyện Gị Dầu là một huyện phía Nam của tỉnh Tây Ninh, trung tâm
huyện cách thành phố Tây Ninh 36km, về phía Nam, cách thành phố Hồ Chí
Minh 63km, phía Tây cách biên giới Campuchia 12km. Gị Dầu có vị thế địa
lý thuận lợi như: nằm trên trực đường xuyên Á, quốc lộ 22B; nằm dọc sông
Vàm Cỏ Đơng; có Khu Liên hợp Cơng nghiệp – Đơ thị - Dịch vụ Phước Đơng
– Bời Lời, góp phần đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của huyện. Huyện có diện
tích tự nhiên 259,96km2, dân số 152.757 người, có 8 xã và 01 thị trấn, với 57

ấp, khu phố; có 1.138 tổ tự quản. trong đó khoảng 75% dân số sản xuất nông
nghiệp và làm các ngành nghề, dịch vụ liên quan lĩnh vực nơng nghiệp. Đảng
bộ huyện Gị Dầu hiện có 3.917 đảng viên, sinh hoạt ở 48 chi, đảng bộ cơ sở
trực thuộc Huyện ủy (trong đó có 14 đảng bộ cơ sở gồm: 09 đảng bộ xã, thị
trấn; 3 đảng bộ ngành: Công an, Quân sự, Trung tâm y tế). Tổng số biên chế
toàn huyện hiện có 1.602 biên chế (trong đó có 72 cán bộ chủ chốt, người
đứng đầu cấp uỷ, các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội huyện; 126 cán bộ chủ chốt, người đứng đầu Đảng
uỷ, Hội đồng


nhân, Uỷ ban nhân dân, Công an, Quân sự, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã
hội 09 xã, thị trấn).
Xác định công tác đấu tranh ngăn chặn tham nhũng, lãng phí là nhiệm
vụ trọng tâm, then chốt trong cơng tác xây dựng Đảng và xây dựng, hồn thiện
bộ máy chính quyền. Trên cơ sở vận dụng quan điểm cơ bản chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời thực hiện các văn bản của Trung
ương, của Tỉnh ủy Tây Ninh về cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí,
Ban Thường vụ Huyện uỷ Gị Dầu đã lãnh đạo, chỉ đạo tuyên truyền giáo dục
chính trị, tư tưởng và pháp luật về công tác đấu tranh ngăn chặn tham nhũng,
lãng phí cho cán bộ lãnh đạo, quan lý, công chức, viên chức và Nhân dân.
Trong quá trình thực hiện nhìn chung đa số các chi, đảng bộ cơ sở, các cơ
quan ban, ngành, đoàn thể và cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên, công chức
đều gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của nhà nước về cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí.
3.2. Thực trạng vận dụng quan điểm cơ bản chủ nghĩa Mác-Lênin
về nha nước để đấu tranh ngăn chặn va khắc phục bệnh quan liệu, tham
nhũng, lãng phí trong xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
3.2.1. Kết qua đạt được
Trong bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Thực hành tiết kiệm,
chống tham ơ, lãng phí, chống bệnh quan liêu” tháng 3 năm 1952, Người nhấn

mạnh: “Phải tẩy sạch nạn tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu. Nếu khơng, thì
nó sẽ làm hại đến công việc của ta” [12, tr 355]. Bởi Người cho rằng tham ơ,
lãng phí là “những căn bệnh nguy hiểm”, “là giặc nội xâm”, “là tội ác” không
chỉ gây thiệt hại về kinh tế, vật chất, mà cịn về mặt tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống; làm suy yếu bộ máy của Đảng, Nhà nước; gây mất lòng tin của
quần chúng nhân dân.
Thấm nhuần quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về đấu tranh ngăn chặn tham ơ, lãng phí, trong giai đoạn hiện nay, trước yêu
cầu của thực tiễn phát triển đất nước, huyện Gị Dầu ln coi trọng cơng tác
đấu tranh ngăn chặn và khắc phục bệnh quan liệu, tham nhũng, lãng phí trong
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý; xác định đây là một trong những
vấn đề mang tính cấp bách, nội dung quan trọng hàng đầu, nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, năng lực quản lý, điều hành của
chính quyền.


Trong những năm qua, Huyện ủy luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo cơ
quan, đơn vị các cấp trong huyện triển khai, quán triệt đầy đủ, kịp thời các chỉ
thị, nghị quyết, kết luận, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về đấu
tranh ngăn chặn bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí đến tồn thể cán bộ
lãnh đạo, quản lý, đảng viên, công chức và các tầng lớp nhân dân trong huyện.
Đồng thời, Huyện ủy cụ thể hóa các văn bản trên trong Nghị quyết, chương
trình hành động, kế hoạch hàng năm để tổ chức thực hiện sát tình hình thực tế
tại địa phương, cơ quan, đơn vị. Từ đó, góp phần nâng cao nhận thức của cán
bộ lãnh đạo, quản lý, công chức và quần chúng nhân dân, nhất là người đứng
đầu, tạo sự đồng thuận trong xã hội đối với công tác đấu tranh ngăn chặn và
khắc phục bệnh quan liệu, tham nhũng, lãng phí. Qua đó củng cố niềm tin của
cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên, công chức và Nhân dân vào sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý, chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp; từng bước
loại bỏ dần các cơ hội, điều kiện phát sinh tham nhũng, lãng phí xây dựng

Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
kỷ cương, liêm chính.
Các giải pháp phòng ngừa tham nhũng được triển khai, tổ chức thực
hiện đồng bộ, mang lại hiệu quả thiết thực như: Công khai, minh bạch về tài
chính; cơng tác cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch,bổ nhiệm, điều động…
theo quy định. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, ngăn ngừa việc lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để vụ lợi được thực hiện thường xuyên, nhất là ở các lĩnh
vực nhạy cảm; phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội trong đấu tranh
ngăn chặn và khắc phục bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, kịp thời ngăn chặn có hiệu quả tình
trạng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong các đơn vị, địa phương. Những kết
quả đạt được nêu trên, cho thấy công tác lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh ngăn
chặn và khắc phục bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí của Huyện ủy có
bước chuyển biến tích cực, tạo được sự đồng thuận cao trong nội bộ Đảng,
chính quyền và Nhân dân, trong cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý vừa có đức, vừa có tài, gương mẫu trong thực hành tiết kiệm, đấu
tranh ngăn chặn quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Góp phần thúc đẩy q trình
phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn - xã hội
trên địa bàn huyện.
3.2.2. Những tồn tại, hạn chế


Bên cạnh kết quả đạt được, công tác đấu tranh ngăn chặn và khắc phục
bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí ở huyện Gị Dầu vẫn cịn một số hạn chế
như:
- Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phịng, chống tham
nhũng, lãng phí vẫn cịn hạn chế, chưa đi vào chiều sâu, hiệu quả chưa cao.
Công tác kê khai, kiểm soát việc kê khai tài sản, thu nhập ở số cơ quan, đơn vị
thực hiện chưa tốt như: kê khai chưa đầy đủ, sai sót về nội dung kê khai; việc
xác minh tài sản thu nhập chưa được thực hiện hằng năm. Chưa phát huy hết

vai trò của các đồn thể và Nhân dân trong cơng tác phịng ngừa, đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí.
- Tình trạng “tham nhũng vặt” của một ít cán bộ lãnh đạo, quản lý vẫn
còn xảy ra ở một số lĩnh vực như: quản lý đất đai; quản lý, sử dụng tài sản,
nguồn vốn thực hiện các chính sách hỗ trợ của Nhà nước; tài chính - ngân
sách, y tế, đầu tư xây dựng cơ bản, tài nguyên khoáng sản.
- Việc kết hợp cơng tác đấu tranh phịng chống tham nhũng, lãng phí
với công tác thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; công tác kiểm tra của các cơ
quan chức năng về phịng, chống tham nhũng, lãng phí đơi lúc chưa kịp thời.
3.3.3 Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh đấu tranh ngăn chặn tham ơ, lãng phí chưa
thực hiện thường xuyên trong cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên, công chức.
Việc triển khai, quán triệt các văn bản của Trung ương, Tỉnh uỷ liên quan đến
đấu tranh ngăn chặn tham nhũng, lãng phí có lúc, có nơi hiệu quả chưa cao.
Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của một số cán bộ lãnh đạo, quản
lý vẫn còn xảy ra, cấu kết với nhau, tạo thành “nhóm lợi ích”, dùng mọi thủ
đoạn để tham nhũng, lãng phí tài sản nhà nước.
Nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý về việc kê khai tài sản,
thu nhập còn chung chung, chưa hiểu rõ, chi tiết về nội dung, cách thức, thời
gian thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập nên khi vận dụng vào thực tiễn
cịn sai sót.
3.3.4. Một sơ giải pháp ngăn chặn đấu tranh và khắc phục bệnh quan
liêu, tham nhũng, lãng phí trong xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý trong thời gian tới


Nhằm kịp thời đấu tranh ngăn chặn và khắc phục bệnh quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững

mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên, công chức liêm
chính, củng cố lịng tin của Nhân dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội huyện Gò Dầu
phát triển, bản thân xin đề ra một số giải pháp sau:
- Thứ nhất, tăng cường cơng tác giáo dục chính trị về chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đấu tranh đấu tranh ngăn chặn tham
nhũng, lãng phí; đồng thời quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu
quả các nhiệm vụ, giải pháp về phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo các
văn bản chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh uỷ Tây Ninh, gắn với việc tiếp tục thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
Chỉ thị số 05- CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; các quy định về trách nhiệm nêu
gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp,... Chú
trọng công tác đào tạo và chọn lọc cán bộ có phẩm chất đạo đức, thành thạo
về chun mơn, nghiệp
vụ.
- Thứ hai, thực hiện nghiêm túc, đồng bộ các biện pháp phịng ngừa
bệnh quan liệu, tham nhũng, lãng phí, tăng cường tính cơng khai, minh bạch,
thực hiện nghiêm, có hiệu quả việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản,
thu nhập; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nhất là đối với các lĩnh vực
nhạy cảm dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng như: quản lý ngân sách, tài chính
nhà nước; cấp phép đầu tư, đấu thầu, xây dựng cơ bản; quản lý tài nguyên,
môi trường; cơng tác cán bộ; quản lý tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu,...
Tăng cường các biện pháp phịng ngừa, phát hiện xử lý nghiêm các hành vi
nhũng nhiễu, “tham nhũng vặt”, gắn với chấn chỉnh tinh thần, thái độ phục vụ
và nâng cao trách nhiệm, đạo đức công vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý, công
chức các cơ quan cơng quyền.
- Thứ ba, nâng cao vai trị, trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu
cấp ủy đảng, thủ trưởng cơ quan, đơn vị các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo công
tác đấu tranh ngăn chặn bệnh quan liệu, tham nhũng, lãng phí, nhất là việc tự
kiểm tra phát hiện, xử lý ngăn chặn tiêu cực, tham nhũng tại cơ quan, đơn vị
mình. Tăng cường cơng tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm về phòng, chống

tham nhũng, lãng phí; thực hiện nghiêm túc quan điểm kiên quyết, kiên trì


“khơng ngừng nghỉ”, “khơng có vùng cấm” trong đấu tranh phòng, chống
tham nhũng.
- Thứ tư, nâng cao năng lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng và công tác thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử trong đấu tranh phịng,
chống tham nhũng, lãng phí. Đây vừa là yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc đấu tranh
ngăn chặn tham nhũng, lãng phí, chống suy thối về đạo đức, lối sống, chống
biểu hiện “tự chuyển hóa” trong nội bộ, để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây
dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh tồn diện, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của huyện.
- Thứ năm, thường xuyên tổ chức sơ, tổng kết công tác phối hợp trong
công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức trong đấu tranh ngăn chặn
tham nhũng, lãng phí của các cấp, các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, cán
bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên, công chức và Nhân dân. Phát huy có hiệu quả
vai trị của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và Nhân
dân, nhất là vai trị của Hội đồng nhân dân các cấp trong phịng, chống tham
nhũng, lãng phí; đặc biệt là đối với các vụ việc tham nhũng, lãng phí nghiêm
trọng, có biểu hiện “lợi ích nhóm”, dư luận bức xúc.

C. KẾT LUẬN
Thực tiễn công tác đấu tranh ngăn chặn và khắc phục bệnh quan liêu,
tham nhũng, lãng phí trong những năm qua cho thấy, ở đâu, nơi nào có cán bộ
lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị gương
mẫu, trong sạch, có trách nhiệm và quyết tâm cao trong đấu tranh ngăn chặn
bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí thì ở nơi đó những tệ nạn này được ngăn
chặn, đẩy lùi. Cơng tác cán bộ có tốt, có hiệu quả hay khơng, phần lớn đều
phụ thuộc vào vai trị các cấp ủy đảng, từ quan điểm đánh giá cán bộ, đến
phương pháp tiến hành, thực hiện quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử

dụng cán bộ. Đồng thời, cần phải vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ
thể những nguyên tắc, phương pháp luận triết học Mác-Lênin về đấu tranh
ngăn chặn và khắc phục bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý vừa hồng, vừa chuyên, vừa có đức, vừa có
tài, đủ phẩm chất,


năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng u cầu trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay, với tính ưu việt của con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, đòi hỏi dân tộc ta phải loại bỏ được nạn tham nhũng,
lãng phí để tạo ra một thể chế vững chắc. Muốn bảo vệ và phát huy những
thành quả qua 35 năm đổi mới, đòi hỏi chúng ta phải hành động mạnh mẽ hơn
nữa trong công cuộc đấu tranh ngăn chặn bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, nhằm tạo nên nền tảng cơ sở vật chất cần thiết, môi trường văn hóa lành
mạnh và để bảo vệ pháp chế. Từ khi thành lập đến nay, đặc biệt là giai đoạn
xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta đã khơng ngừng tìm tòi, tổng kết, rút kinh nghiệm, phương pháp đấu
tranh ngăn chặn tham nhũng, lãng phí. Các kinh nghiệm, phương pháp đó là
khởi điểm lịch sử, ưu thế để triển khai có hiệu quả cuộc chiến phịng, chống
tham nhũng, lãng phí hiện nay. Với nhận thức như vậy, bản thân nhận thấy
việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng triết học Mác-Lênin trong đấu tranh ngăn
chặn tham nhũng, lãng phí là một yêu cầu mang tính khoa học, khách quan,
với mong muốn được góp phần trong việc giữ vững an ninh chính trị - xã hội,
bảo vệ chế độ và bảo đảm cho kinh tế - xã hội của huyện Gò Dầu- tỉnh Tây
Ninh nói riêng, cả nước nói chung ngày càng phát triển bền vững.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia. H.1995,

(t.21), tr. 252, tr.256, tr.257.
2. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1976, (t.33), tr.9
3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, Nxb Ch.ính trị quốc gia. H.1994,
(t.18), tr.421-422.
4. V.I.Lênin, Toàn tập, sđd, (t.33), tr.10.
5. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1995,
(t.19), tr.47.
6. V.I.Lênin, Tồn tập, Nxb.Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1976, (t.33), tr.30,
tr.108, tr.134.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, tr.246, tr.172.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2016, tr.175, tr.19.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, (t.1), tr.174, tr.93, tr.200,
tr.193.
10. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1977, (t.38), tr.205.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ X, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2006, tr.45 - 46.
12. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2011, (t.7),
tr.355.



×