Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Phát huy dân chủ ở cấp xã trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (852.83 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

VŨ SĨ ĐOÀN

PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ TRONG XÂY DỰNG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Đào Ngƣời hƣớng dẫn khoa c: PGS.
S Phan Hữu Tí
ch
Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

VŨ SĨ ĐOÀN

PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ TRONG XÂY DỰNG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Ngọ Văn Nhân

Đào Ngƣời hƣớng dẫn khoa c: PGS.
S Phan Hữu Tí
ch
Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Với tấm lòng thành kính em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Trường Đại học khoa học
xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, khoa Triết học đã tạo mọi điều kiện cho
học viên trong quá trình làm luận văn. Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới TS. Ngọ Văn
Nhân đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành được công trình: “ Phát huy dân chủ ở cấp xã
trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Tác giả luận văn

Vũ Sĩ Đoàn


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS Ngọ Văn Nhân - người đã trực
tiếp hướng dẫn tôi một cách tận tình và tạo những điều kiện tốt nhất có thể để
tôi có cơ hội thực hiện và hoàn thành luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Triết học, phòng
Quản lý khoa học và Sau đại học – trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn – Đại học quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian tôi học tập tại trường.
Tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn đến cơ quan tôi đang công tác, bạn bè,

đồng nghiệp, gia đình và người thân đã cũng chia sẻ, động viên, giúp đỡ và
tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành được luận văn này.
Hà Nội, năm 2015
Tác giả luận văn

Vũ Sĩ Đoàn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ..................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn .......................................... 9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ..................................... 10
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn ...................... 10
6. Đóng góp khoa học của luận văn ............................................................. 11
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .............................................. 11
8. Kết cấu của luận văn ................................................................................. 11
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở CẤP
XÃ TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM ...................................................................................... 12
1.1. KHÁI NIỆM DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ VÀ NHÀ NƢỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ............................................. 12
1.1.1. Dân chủ, dân chủ ở cấp xã ................................................................. 12
1.1.1.1. Khái niệm dân chủ ............................................................................ 12
1.1.1.2. Khái niệm dân chủ ở cấp xã ............................................................. 17
1.1.2. Khái niệm, các đặc trƣng cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ....................................................................................... 21
1.1.2.1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ...... 21
1.1.2.2. Các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam ......................................................................................................... 23
1.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở
CẤP XÃ TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM ........................................................................................ 28
1.2.1. Khái niệm phát huy dân chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ...................................................... 28


1.2.2. Nội dung và hình thức phát huy dân chủ ở cấp xã trong xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam .................................... 30
1.2.2.1. Thực hành dân chủ ở cấp xã liên quan đến đời sống kinh tế - xã
hội của nhân dân ở xã, phường, thị trấn ...................................................... 30
1.2.2.2. Thực hành quyền được bàn và quyết định ...................................... 32
1.2.2.4. Thực hành quyền giám sát của nhân dân ....................................... 34
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ VÀ XÂY
DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ...35
1.3.1. Phát huy dân chủ ở cấp xã là đòi hỏi tất yếu, khách quan của tiến
trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.......... 35
1.3.1.1. Phát huy dân chủ ở cấp xã góp phần đảm bảo các quyền dân chủ
và bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân ..................................................... 36
1.3.1.2. Phát huy dân chủ ở cấp xã là nền tảng để xây dựng bộ máy chính
quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh ........................................................... 38
1.3.1.3. Phát huy dân chủ ở cấp xã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên
địa bàn xã, phường, thị trấn .......................................................................... 41
1.3.2. Xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhân tố bảo đảm cho việc thực hành và phát huy dân chủ ở cấp xã ....... 43
1.3.2.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng, ban
hành và ngày càng hoàn thiện pháp luật về thực hiện, phát huy dân chủ ở
cấp xã .............................................................................................................. 43

1.3.2.2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo những điều
kiện cần thiết cho việc thực hành và phát huy dân chủ ở cấp xã đạt hiệu
quả cao ............................................................................................................ 45
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 45
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ TRONG
XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
NƢỚC TA TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY ........................................................ 47


2.1. NHỮNG THÀNH CÔNG, KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC TRONG THỰC
HÀNH, PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ Ở NƢỚC TA TỪ NĂM 2007
ĐẾN NAY ....................................................................................................... 47
2.1.1. Những thành công, kết quả đạt đƣợc trong thực hành, phát huy
dân chủ ở cấp xã ............................................................................................ 47
2.1.2. Nguyên nhân của kết quả đạt đƣợc ................................................... 52
2.2. NHỮNG HẠN CHẾ, BẤT CẬP CỦA VIỆC PHÁT HUY DÂN CHỦ
Ở CÂP XÃ Ở NƢỚC TA TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY ................................ 56
2.2.1. Những hạn chế, bất cập trong phát huy dân chủ ở cấp xã ............. 56
2.2.2. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập ................................ 59
2.3. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ THỰC TIỄN
PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ................................. 61
2.3.1. Vai trò lãnh đạo của Đảng và các cấp chính quyền là nhân tố có
tính chất nền tảng, bảo đảm cho thành công của việc phát huy dân chủ ở
cấp xã .............................................................................................................. 61
2.3.2. Sự chỉ đạo, quản lý, điều hành quyết liệt của Nhà nƣớc, các cấp
chính quyền địa phƣơng là khâu then chốt, bảo đảm sự vận hành có hiệu
quả việc phát huy dân chủ ở cấp xã ............................................................ 62
2.3.3. Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị cho
việc phát huy dân chủ ở cấp xã .................................................................... 64

2.3.4. Tăng cƣờng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên ở
xã, phƣờng, thị trấn về số lƣợng và chất lƣợng ........................................... 65
2.3.5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và khen thƣởng kịp thời phát huy
dân chủ ở cấp xã ............................................................................................ 66
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 67
Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TIẾP TỤC
PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ................................. 69


3.1. PHƢƠNG HƢỚNG PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ TRONG
XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ........ 69
3.1.1. Quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc chủ trƣơng, đƣờng lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc về thực hành dân chủ ở cấp xã ... 69
3.1.2. Phát huy dân chủ ở cấp xã phải phục vụ thiết thực cho việc củng
cố, xây dựng chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh và công cuộc
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ................... 71
3.1.3. Phát huy dân chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu của các cấp, các ngành, cơ
quan, đoàn thể, đội ngũ cán bộ, công chức và đông đảo các tầng lớp nhân
dân................................................................................................................... 72
3.1.4. Việc phát huy dân chủ ở cấp xã đòi hỏi phải triển khai đồng bộ
nhiều giải pháp theo phƣơng châm linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với đặc
điểm, tình hình của từng địa phƣơng .......................................................... 73
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TIẾP TỤC PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở
CẤP XÃ TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM ....................................................................................... 74
3.2.1. Tăng cƣờng hơn nữa vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phƣơng trong việc phát huy dân chủ ở cấp xã............... 74
3.2.2. Nâng cao chất lƣợng, tăng cƣờng vai trò đội ngũ cán bộ, công chức,

đảng viên trong quá trình phát huy dân chủ ở cấp xã .............................. 77
3.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật, sự tham gia chủ động, tích cực hơn nữa của
các tầng lớp nhân dân vào việc thực hành, phát huy dân chủ ở cấp xã .......... 85
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 92
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta đang xây dựng là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Về bản chất, đó chính là Nhà nước luôn tôn trọng và đề cao các
quyền dân chủ của nhân dân, xây dựng và thực hành nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Giữa thực hành, phát huy dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa có mối liên hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ, tác động qua lại và
bổ sung cho nhau. Dân chủ và phát huy dân chủ là một trong những đặc trưng
cơ bản của Nhà nước pháp quyền; là một trong những điều kiện tiên quyết để
hiện thực hóa, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”[17, tr. 47]. Ngược lại, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự bảo đảm có tính
chất nền tảng cho việc thực hành và phát huy dân chủ. Việc phát huy đầy đủ
các quyền dân chủ của nhân dân vừa là điều kiện, vừa là động lực thúc đẩy
xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quyền dân chủ của nhân dân được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Hệ thống và bộ máy quản lý hành chính ở nước
ta được phân chia thành 4 cấp, gồm cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và
cấp xã. Dù ở cấp nào, bộ máy hành chính cũng đều vận hành theo nguyên tắc
bảo đảm thực hành và phát huy các quyền dân chủ của nhân dân; song, hiệu

quả thực hành và phát huy dân chủ thể hiện trực tiếp và cụ thể nhất đối với
nhân dân là dân chủ ở cấp xã - một khâu hết sức quan trọng trong hệ thống cơ
chế dân chủ, liên quan đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn xã,
phường, thị trấn.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã triển khai thực hiện nhiều
giải pháp nhằm không ngừng phát huy dân chủ, đưa dân chủ ở cấp xã thực sự

1


đi vào mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội ở các xã, phường, thị trấn
trên phạm vi cả nước. Việc phát huy dân chủ ở cấp xã đã và đang làm chuyển
biến mạnh mẽ nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và các tổ
chức quần chúng về vai trò, tầm quan trọng của việc phát huy quyền dân chủ
của các tầng lớp nhân dân; góp phần tích cực, hiệu quả vào công tác xây dựng
Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức, đảng viên, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, kết quả đã đạt được, việc phát huy
dân chủ ở cấp xã trên phạm vi cả nước nói chung còn bộc lộ những hạn chế,
nhược điểm nhất định do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác
nhau. Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Quyền làm chủ của nhân dân ở một số
nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang
tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội
bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội” [17, tr. 171]. Thực

trạng

trên đây đã và đang gây ra những khó khăn cho việc tiếp tục phát huy dân chủ
ở cấp xã; tác động tiêu cực tới tiến trình cải cách hành chính, xây dựng bộ máy

chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh; làm suy giảm lòng tin của nhân
dân đối với hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước; từ
đó, cản trở tiến trình thực hành, phát huy dân chủ trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xuất phát từ tình hình trên, tác giả chọn vấn đề “Phát huy dân chủ ở
cấp xã trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hành và phát huy dân chủ nói chung, dân chủ ở cấp xã nói riêng ở
nước ta trong những năm qua là chủ đề được đề cập, bàn luận trong nhiều
công trình nghiên cứu, bài báo khoa học trên những phương diện, góc độ khác

2


nhau. Tên đề tài luận văn “Phát huy dân chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” cho thấy có ba nhóm vấn đề nổi
bật cần được tổng quan, đánh giá một cách thấu đáo: vấn đề dân chủ và dân
chủ ở cấp xã; vấn đề thực hiện và phát huy dân chủ ở cấp xã; vấn đề xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.1. Vấn đề dân chủ và dân chủ ở cấp xã
Vấn đề dân chủ là vấn đề từ lâu đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
các nhà khoa học, những người làm công tác lý luận cũng như thực tiễn và
được tiếp cận dưới nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Có thể đề cập đến một
số công trình, bài viết tiêu biểu sau đây: Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo (1991),
Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nxb. Sự thật, Hà Nội [54]; Hoàng
Chí Bảo (1992), Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: quan
điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu, Tạp chí Thông tin lý luận, số
9/1992, Hà Nội [2]; Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - lý
luận và thực tiễn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội [57]; Hoàng Văn Hảo (2003),

Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng thể Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2003 [26];
Nguyễn Minh Đoan (2007), Dân chủ với pháp luật, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 10/2007 [20]; Nguyễn Khắc Mai (1997), Dân chủ - di sản văn
hóa Hồ Chí Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội [38]; Phan Xuân Sơn (2010), Tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số
tháng 9/2010, Hà Nội [65]... Các công trình, bài viết nêu trên tập trung làm rõ
khái niệm dân chủ, các giá trị nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ,
các đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa; mối quan hệ giữa dân chủ và
pháp luật; đưa ra các đánh giá khách quan về những thành quả, tiến bộ mà chủ
nghĩa tư bản đạt được cũng như chỉ ra hạn chế do bản chất giai cấp của nền
dân chủ tư sản quy định; đề cao nguyên tắc tập trung dân chủ; chỉ ra các cơ
chế thực hiện dân chủ; nền dân chủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

3


Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP về việc ban
hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, vấn đề dân chủ ở cấp xã được nhiều
nhà nghiên cứu đề cập, phân tích trong các công trình, bài báo khoa học. Có
thể kể ra đây những công trình tiêu biểu, như Dương Xuân Ngọc (2000), Quy
chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội [56]; Lương Gia Ban (2003), Dân chủ và việc thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội [4]; Trần Bạch
Đằng (2003), Dân chủ ở cơ sở - một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Tạp chí Cộng sản, số 35, tháng 12/2003, Hà Nội [18]; Nguyễn Duy Quý
(2004), Về dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản số 4, tháng 2/2004, Hà Nội
[61]; Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn Thông (chủ biên, 2003), Thực hiện quy chế
dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội [63]; Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn Thông (chủ biên, 2005),

Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội [64]; Nguyễn Văn Sáu (2002), Quan hệ giữa thực thi Quy
chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng chính quyền ở nông thôn, Tạp chí Lý luận
Chính trị, số 11/2002 [62]; Ngọ Văn Nhân (2008), Về đổi mới chế độ dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp chí
Triết học, số 5 (204) [50]... Trong các công trình khoa học, bài viết kể trên, các
tác giả tập trung phân tích, làm rõ nội hàm khái niệm dân chủ ở cơ sở; các khía
cạnh lý luận và thực tiễn của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở; coi dân chủ ở
cơ sở như một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam, có cội nguồn từ
trong truyền thống dân chủ làng xã và cần phát huy sức mạnh trong điều kiện
xã hội hiện nay, phục vụ tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, vấn đề đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện
trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay, mối quan hệ giữa vấn đề dân chủ và cải
cách bộ máy chính quyền địa phương.

4


2.2. Vấn đề thực hiện và phát huy dân chủ ở cấp xã
Vấn đề thực hiện dân chủ ở cấp xã đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập
và phân tích trong các bài viết đăng trên các báo, tạp chí khoa học khác nhau,
như: Đặng Đình Tân - Đặng Minh Tuấn (2002), Tiếp tục thực hiện tốt Quy
chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 7/2002 [67]; Lê Quang
Minh (2003), Để thực hiện dân chủ sở cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 11, tháng
4/2003 [41]; Phạm Ngọc Quang (2004) Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá
trình đổi mới - thành tựu, vấn đề và giải pháp, Tạp chí Lý luận Chính trị, số
3/2004 [60]; Ngọ Văn Nhân (2007), Phát huy dân chủ cơ sở - điều kiện quan
trọng để hình thành và phát triển dư luận xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí
Phát triển nhân lực, số 2/2007 [48]; Chu Thị Trang Vân (2009), Một số vấn đề
đặt ra trong quá trình thực thi Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị

trấn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2009 [76]; Nguyễn Kim Thanh
(2009), Một vài suy nghĩ về kết quả 10 năm xây dựng và thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Dân vận, số 7/2009 [69]; Quách Sĩ Hùng (2009),
Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 6/2009 [30]... Các công trình khoa học, bài
viết nêu trên ở những mức độ khác nhau đã góp phần làm rõ thêm các đặc
điểm của quá trình thực hiện, phát huy dân chủ ở cấp xã ở nước ta trong
những năm qua; bước đầu tổng kết, nêu rõ thành công, hạn chế và những vấn
đề đặt ra trong thực hiện, phát huy dân chủ ở cấp xã, các nguyên nhân dẫn tới
những hạn chế và các giải pháp khắc phục.
Chủ đề thực hiện, phát huy dân chủ ở cấp xã trên phạm vi cả nước nói
chung, gắn với từng địa phương cụ thể nói riêng cũng đã trở thành đề tài của
nhiều luận văn thạc sĩ Luật học, Triết học... Có thể kể ra đây một số công
trình luận văn thạc sĩ, như: Trần Quốc Huy (2005), Hoàn thiện Quy chế thực
hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội
[32]; Nguyễn Minh Tuấn (2005), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân
chủ ở xã, Luận văn thạc sĩ Luật học [74]; Lê Xuân Huy (2005), Ý thức pháp
5


luật với quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay (qua thực
tế một số tỉnh phía Bắc), Luận văn thạc sĩ Triết học [31]; Ngô Thị Hòa
(2005), Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn
tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc sĩ Luật học [29]; Phạm Thị Việt Nga: Thực
hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường trên địa bàn thành phố Thanh Hóa
tỉnh Thanh Hóa, Luận văn thạc sĩ Luật học [46]... Những công trình kể trên
đã tập trung phân tích cơ sở lý luận của việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; chỉ
ra những thành tựu đạt được và những hạn chế, bất cập của quá trình thực
hiện dân chủ ở cấp xã, phân tích nguyên nhân; nêu lên những quan điểm chỉ
đạo và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở cấp xã.

Như vậy, đã có nhiều công trình khoa học, bài viết về dân chủ, dân chủ
ở cấp xã trên các phương diện khác nhau, làm rõ bản chất, nội dung, tính chất,
cơ chế thực hiện dân chủ, dân chủ ở cấp xã và vai trò của việc mở rộng quyền
làm chủ của nhân dân đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và tiến bộ
xã hội. Nhiều công trình đã nghiên cứu vấn đề dân chủ ở cấp xã gắn với địa
phương cụ thể và chủ yếu được nhìn nhận, phân tích trên phương diện luật
học. Vấn đề phát huy dân chủ ở cấp xã theo cách tiếp cận triết học hầu như
còn để ngỏ.
2.3. Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được Đảng ta sử
dụng từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01/1994)
và khẳng định sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa như là một điều kiện không thể thiếu để thực hành và phát huy nền dân
chủ thực sự vì nhân dân. Bắt đầu từ đây, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, trở thành
chủ đề được nghiên cứu, bàn luận sôi nổi trên diễn đàn khoa học triết học, luật
học, chính trị học... và được tiếp cận theo nhiều chiều cạnh khác nhau.

6


Trước tiên, có thể kể đến cuốn sách có tính chất lý luận chuyên sâu về
vấn đề này, như: Nguyễn Văn Niên (1996), Xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam - một số vấn đề lý luận thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
[55]; Nguyễn Văn Thảo (chủ biên, 1997), Về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội [68]... Trong các cuốn
sách này, các tác giả đề cập và phân tích khái niệm nhà nước pháp quyền,
khẳng định tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua sự phân tích các khía cạnh lý luận và
thực tiễn của vấn đề này.

Tiếp theo, cần kể đến các công trình, bài báo khoa học của các tác giả sau:
- Đào Ngọc Tuấn (2002), Tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội [75]; trong
đó, tác giả nêu bật phép biện chứng giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, luận chứng việc xây
dựng nhà nước pháp quyền là yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới ở Việt
Nam;
- Trần Ngọc Đường (2004), Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật và
tổ chức thực hiện pháp luật - nhiệm vụ trọng tâm xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, Hà Nội, số 7/2004 [22]. Tác giả khẳng định rằng, việc xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật là nhiệm vụ
trọng tâm của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam;
- Trần Đức Lương (2002), Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân ngày càng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng
thường xuyên của Đảng, nhà nước và nhân dân ta, Tạp chí Cộng sản, số
1/2002 [37]. Trong bài viết, tác giả đã đưa ra một định nghĩa tương đối tổng
quát về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

7


- Nguyễn Văn Mạnh (2010), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam: lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
[40]. Tác giả phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, đặc trưng của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; đánh giá những thành tựu, hạn chế, tồn tại trong thực
tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và đưa ra một số giải
pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay.

- Ngọ Văn Nhân (2011), Một số điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua văn kiện Đại hội XI của Đảng, Tạp chí
Triết học, số 3 (237)/2011, Hà Nội [51]. Trong bài viết, tác giả đã nêu và phân
tích những điểm mới trong quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua văn kiện Đại hội XI trên các phương
diện: các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; thực
tiễn quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
trong những năm đổi mới vừa qua; những giải pháp cụ thể cần triển khai thực
hiện nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Về mối quan hệ giữa xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
với thực thi quyền làm chủ của nhân dân, với dân chủ hóa xã hội, xây dựng xã
hội dân sự... có thể tìm thấy trong nội dung các bài viết, như: Đặng Hữu Toàn
(2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và vấn đề thực thi
quyền làm chủ của nhân dân, Tạp chí Khoa học xã hội, số 9/2005 [71];
Lương Đình Hải (2006), Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ
hóa xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 1(176)/2006 [25]; Phạm
Thị Ngọc Trầm (2006), Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự với vấn đề
quyền và nghĩa vụ của công dân, Tạp chí Triết học, số 4/2006 [72]; Nguyễn
Minh Đoan (2009), Xây dựng Nhà nước pháp quyền gắn với củng cố, phát
triển xã hội dân sự, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12/2009 [21]...

8


Sự tổng quan tình hình nghiên cứu ở ba nhóm vấn đề nêu trên cho thấy,
từng nhóm vấn đề đã được các nhà nghiên cứu, các tác giả đề cập, luận bàn
tương đối đầy đủ. Song, nếu đặt cả ba vần đề đó một cách lôgíc, hệ thống
trong một tên đề tài “Phát huy dân chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, thì có thể dễ dàng nhận thấy rằng,

các công trình nghiên cứu về dân chủ ở cơ sở phần nhiều mang tính lý luận;
các công trình nghiên cứu về dân chủ cơ sở nói chung, ở cấp xã nói riêng mới
chỉ dừng lại ở cấp độ thực hiện dân chủ ở cấp xã, chưa có công trình nào
nghiên cứu lý luận và đánh giá thực tiễn vấn đề phát huy dân chủ ở cấp xã.
Hơn thế nữa, đặt vấn đề phát huy dân chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì đây lại càng là vấn đề mới.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, cho đến nay vẫn chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về vấn đề phát huy dân
chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề “Pháp huy dân chủ ở cấp xã trong
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” làm đề tài Luận
văn thạc sĩ Triết học với mong muốn khỏa lấp phần nào khoảng trống nói trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn là phân tích, làm rõ cả về phương diện lý
luận và thực tiễn vấn đề phát huy dân chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đánh giá thực trạng phát huy dân chủ ở
cấp xã ở nước ta trong những năm qua, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân của nó; từ đó, đề xuất phương hướng và giải pháp tiếp tục đẩy
mạnh, phát huy hơn nữa dân chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.2. Để hoàn thành mục đích đặt ra trên đây, luận văn tập trung giải quyết
các nhiệm vụ sau:

9


Một là, phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của việc phát huy dân chủ ở cấp
xã, các đặc trưng của việc phát huy dân chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hai là, đánh giá thực trạng phát huy dân chủ ở cấp xã ở nước ta trong

những năm qua cả về những điểm thành công cũng như những mặt hạn chế, bất
cập và nguyên nhân của thực trạng đó.
Ba là, đề xuất và luận giải phương hướng, các giải pháp bảo đảm tiếp tục
phát huy dân chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề phát huy dân chủ ở
cấp xã trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn trong việc phân tích lý
luận và thực tiễn vấn đề phát huy dân chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (nghiên cứu điển hình ở một số địa phương).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn: là các nguyên lý của triết học Mác Lênin về dân chủ, về nhà nước, về vai trò của quần chúng nhân dân; tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh đó,
các quan điểm, kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp
quyền, dân chủ ở cấp xã và phát huy dân chủ ở cấp xã của các nhà nghiên cứu
đi trước cũng là cơ sở lý luận quan trọng của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn: luận văn sử dụng các
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử và lôgíc, phương
pháp so sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa... để nghiên cứu các vấn đề lý luận
của việc phát huy dân chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam; sử dụng phương pháp phân tích thông tin, tài liệu có
sẵn phục vụ cho việc phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của vấn đề
nghiên cứu và luận chứng tính khả thi của các giải pháp mà luận văn đề xuất.
10


6. Đóng góp khoa học của luận văn
- Góp phần bổ sung, phát triển các vấn đề lý luận về phát huy dân chủ ở
cấp xã, mối quan hệ giữa phát huy dân chủ ở cấp xã và xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; làm rõ các đặc trưng của việc phát huy

dân chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
- Đánh giá được thực trạng, nguyên nhân dẫn đến những thành công và
các hạn chế của việc phát huy dân chủ ở cấp xã ở Việt Nam trong những năm
qua (qua minh chứng ở một số địa phương).
- Đề xuất và phân tích được phương hướng, các giải pháp có tính khả
thi nhằm tiếp tục bảo đảm phát huy dân chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn cũng như đề xuất các giải
pháp bảo đảm tiếp tục phát huy dân chủ ở cấp xã trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Với những kết quả đạt được, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy môn Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong phạm vi các nội dung có liên quan. Và
được các cơ quan hữu quan của Nhà nước từ trung ương đến địa phương (xã,
phường, thị trấn) sử dụng làm luận cứ khoa học, tài liệu tham khảo phục vụ
cho việc phát huy dân chủ ỏ cấp xã trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.

11


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ
TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ VÀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

1.1.1. Dân chủ, dân chủ ở cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm dân chủ
Dân chủ (democracy) là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp; trong
đó, demos có nghĩa là dân, kratos có nghĩa là quyền uy, sự cai trị. Như vậy,
theo nghĩa gốc của thuật ngữ, dân chủ có nghĩa là quyền uy của dân; là trạng
thái tổ chức xã hội, trong đó, quyền lực thuộc về dân.
Trong tiếng Việt, thuật ngữ dân chủ cũng được cấu thành từ hai yếu tố
dân và chủ; có nghĩa dân là chủ, dân làm chủ hay quyền làm chủ của dân.
Theo ý nghĩa ban đầu, khái niệm dân chủ trước hết và chủ yếu được
xem xét về mặt chính trị và pháp luật; dần dần, khái niệm này mang ý nghĩa
rộng hơn, vì dân chủ không chỉ giới hạn trong lĩnh vực chính trị hay pháp
luật, mà nó còn thể hiện ở các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội (gia
đình dân chủ, lối sống dân chủ...). Như vậy, dân chủ là một khái niệm rất
rộng, trong đó “toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân” là nội dung cốt lõi của
khái niệm này. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ hiểu một cách chung
nhất là quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Ở nước ta, chính quyền là của
nhân dân, do nhân dân làm chủ và vì nhân dân phục vụ; do đó, “nhân dân là
ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành
chính quyền ấy. Thế là dân chủ” [43, tr. 218-219].
Hai nội dung có liên quan chặt chẽ với nhau của dân chủ là: dân là ai
và làm chủ như thế nào, đến mức độ nào. Toàn bộ tiến trình phát triển của
dân chủ trong lịch sử chính là sự trả lời cho hai câu hỏi đó. Dân chủ với tính
cách là một hình thức cai trị và quản lý xã hội đã xuất hiện trong lịch sử xã
12


hội loài người từ thời kỳ Cổ đại, thể hiện rõ nét nhất ở các đô thị Hy Lạp. Khi

đó, do số dân không nhiều, ở các đô thị Hy Lạp cổ đại đã hình thành các Đại
hội nhân dân với sự tham gia của tất cả các công dân, đối lập với hình thức
quyền lực tập trung vào tay giới quý tộc. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi
người dân trong xã hội đều được coi là công dân. Chẳng hạn, nô lệ, người
nước ngoài nhập cư không phải là công dân và không được tham dự các Đại
hội nhân dân. Vào thời kỳ Trung cổ, ở một số nước Tây Âu, như Italia, cũng
đã xuất hiện hình thức “dân chủ đô thị”, nhưng “dân” ở đây cũng mới chỉ bao
gồm những thị dân giàu có nhất. Các trào lưu nhân văn và khai sáng từ thời
Phục hưng cho đến thế kỷ XVIII mới dần dần chuẩn bị đầy đủ các điều kiện
cần thiết cho sự ra đời các chế độ dân chủ ở những quốc gia Tây Âu, nhất là
sau cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789. Phải đến thời kỳ này, khái niệm
“dân” mới được mở rộng ra nhiều, bao gồm cả giới tư sản, thợ thủ công, nông
dân... Từ đó trở đi, dân chủ mới trở thành một phương thức tổ chức xã hội về
mặt chính trị, một chính thể hoàn chỉnh, trong đó, mọi quyền lực đều thuộc về
nhân dân. “Lịch sử nhân loại đã chứng minh một thực tiễn mang tính chân lý:
dân chủ là khát vọng lớn lao, là đòi hỏi bức xúc của con người, là một nhu
cầu đặc biệt quan trọng mà con người mong muốn vươn tới; đồng thời, dân
chủ cũng là một động lực quan trọng thúc đẩy xã hội phát triển. Sự phát triển của
dân chủ đánh dấu những nấc thang tiến bộ của xã hội loài người” [xem: 12].
Dân chủ là một quá trình vận động không ngừng với những thay đổi
quan trọng về nội dung; bắt đầu từ lĩnh vực chính trị, dân chủ ngày càng bao
trùm lên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội. Về thể chế, dân chủ có thể
mang nhiều hình thức: chính thể quân chủ lập hiến và chính thể cộng hòa;
trong chính thể cộng hòa có cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị. Giữa
ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng có những sự phân công và kết
hợp khác nhau. Về tính chất, dân chủ có thể là của đa số, khi các cơ quan
quyền lực nhà nước phản ánh được ý chí của đa số nhân dân; dân chủ có thể
là của thiểu số, khi một số thế lực thống trị dựa vào những sức mạnh tài chính
13



hoặc chính trị để lũng đoạn các cơ quan quyền lực đại diện của nhân dân [78,
tr. 76]. Dựa vào bản chất của chế độ chính trị - xã hội đương thời, dân chủ
được phân chia thành hai loại: dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ tư sản là kết quả việc nhà nước tư sản sử dụng phương pháp tự
do chủ nghĩa để thực hiện chuyên chính tư sản. Đó là phương pháp “dùng
những biện pháp theo hướng mở rộng các quyền chính trị, theo hướng thi
hành những cuộc cải cách, những nhượng bộ.v.v.” [36, tr. 80]. Chế độ dân
chủ tư sản được coi là chế độ chính trị tiến bộ nhất của nhà nước tư sản. Nó
có các đặc trưng cơ bản sau đây: khả năng của nhân dân sử dụng các quyền tự
do dân chủ; sự tồn tại công khai của các đảng cầm quyền và các đảng đối lập
cũng như các tổ chức xã hội, tổ chức của quần chúng; sự tồn tại của hệ thống
các cơ quan đại diện được bầu theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu; sự thừa
nhận về hình thức quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật; việc thực
hiện nguyên tắc pháp chế tư sản [73, tr. 157-158].
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ gắn với bản chất của chế độ
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. “Dân chủ xã hội chủ nghĩa được coi là hình thức
chính quyền mà đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số
phục tùng đa số và thừa nhận quyền tự do bình đẳng của công dân. Trong
tương quan với quyền lực nhân dân, dân chủ được coi là công cụ, là hình thức
chủ yếu thực hiện quyền lực nhân dân” [73, tr. 302]. Dưới nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, nhân dân là chủ thể quyền lực, là người thực hiện quyền lực; đa số
quần chúng nhân dân có quyền và có các điều kiện cần thiết để tham gia quản
lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà
nước phải đảm bảo cho nhân dân tham gia vào việc lập ra bộ máy nhà nước,
vào việc quản lý các công việc của nhà nước, quyết định các công việc trọng
đại của đất nước; đồng thời, có cơ chế đảm bảo cho nhân dân thực hiện việc
kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước,
các tổ chức và cá nhân khác được trao những quyền hạn nhất định để quản lý
một số công việc của nhà nước.

14


Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định của dân
chủ, nên ngay từ khi ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến
vấn đề dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi đó là một vấn đề
hệ trọng, có ý nghĩa chiến lược sâu sắc đối với sự phát triển của đất nước. Ngay
sau khi giành được nền độc lập cho nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định rõ quan điểm về dân chủ trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam như sau:
“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên” [42, tr. 698].
Từ bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) cho đến các bản Hiến pháp sau
này Nhà nước ta đều khẳng định nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân”. Ngay tại Điều 1 Hiến pháp năm 1946, chúng ta đã trịnh trọng
tuyên bố: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” [28, tr.
109]. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức” [28, tr. 9-10]. Các bản Hiến pháp của Nhà nước ta đều khẳng
định nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; đồng thời, còn thiết
lập cơ chế bảo đảm sao cho việc thực thi quyền lực nhà nước phục vụ cho lợi
ích của nhân dân và luôn nằm dưới sự kiểm soát của nhân dân. Nhà nước của
chúng ta do nhân dân lập ra và được nhân dân nuôi dưỡng. Trong các Nghị
quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề tôn trọng quyền lực nhân dân, mở

rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
xây dựng và quản lý nhà nước luôn là một trong những nội dung quan trọng
15


nhất. Để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của việc xây dựng nhà nước trong
thời kỳ mới thì một trong những yêu cầu cơ bản được Đảng ta xác định là
phải “tiếp tục phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân qua các hình
thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và
bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt
động của cán bộ, công chức nhà nước” [13, tr. 41].
Dưới chế độ ta, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hai
hình thức cơ bản là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Dân chủ trực tiếp là hình thức mọi công dân trực tiếp thể hiện ý chí và
nguyện vọng của mình một cách bình đẳng, không phân biệt giới tính, lứa
tuổi, thành phần xuất thân, địa vị xã hội... Đây là hình thức hữu hiệu tạo cho
nhân dân, với tính cách là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước,
khả năng tham gia một cách tích cực và chủ động vào các hoạt động của nhà
nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Theo quy định của
Hiến pháp hiện hành, hình thức dân chủ trực tiếp được thực hiện bằng các
phương thức: chế độ bầu, bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân; chế độ gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân; quyền công dân tham gia thảo luận các vấn đề chung, quan trọng của
đất nước và của địa phương; biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Dân chủ đại diện là hình thức mà thông qua đó nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước, vận hành theo quy định của Hiến pháp. Theo cơ chế này,
nhân dân bầu ra cơ quan đại diện. Cơ quan đại diện trực tiếp nhận quyền lực
từ nhân dân nên còn được cọi là cơ quan quyền lực nhà nước; trong đó, Quốc
hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương. Tính chất quyền lực nhà nước cao nhất của

Quốc hội thể hiện ở chỗ, Quốc hội thay mặt cho nhân dân cả nước quyết định
những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, như lập hiến, lập pháp, các chính
sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng... của đất nước; thành lập các cơ quan nhà nước trung ương, quyết định
16


những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. “1. Hội đồng nhân
dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu
trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. 2. Hội
đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị
quyết của Hội đông nhân dân” [28, tr. 31].
Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đều là hình thức của chế độ dân
chủ, có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. “Dân chủ trực tiếp cho phép phát
huy tối đa sự tham gia của nhân dân vào các công việc chung của đất nước,
của địa phương, nhưng lại phụ thuộc vào năng lực nhận thức về dân chủ của
mỗi người dân. Nếu người dân nhận thức không đầy đủ về dân chủ thì họ có
thể bị kích động, lôi kéo, phản ánh sai lệch nguyện vọng chính đáng của nhân
dân. Dân chủ đại diện đảm bảo sự tập trung cao trong việc hiện thực hóa
quyền làm chủ của nhân dân, nhưng lại phụ thuộc vào khả năng thực thi chức
năng, nhiệm vụ của người đại diện và cơ quan đại diện” [50, tr. 63-69].
1.1.1.2. Khái niệm dân chủ ở cấp xã
Để có thể làm rõ nội hàm khái niệm “dân chủ ở cấp xã” thì trước tiên
phải xác định được vị trí của “dân chủ ở cấp xã” trong hệ thống dân chủ ở
nước ta hiện nay. Trên phương diện vĩ mô, ở nước ta, khi đề cập đến nền dân
chủ nói chung, chúng ta thường sử dụng khái niệm “dân chủ xã hội chủ
nghĩa”. Ở cấp độ vi mô, đồng thời đề cập đến biểu hiện cụ thể của nền dân

chủ xã hội chủ nghĩa, chúng ta thường sử dụng khái niệm “dân chủ ở cơ sở”.
Khái niệm “cơ sở” được hiểu là một tổ chức, cơ quan, đơn vị, cộng đồng dân
cư, khu vực địa lý... - nơi các cá nhân, cộng đồng người tiến hành các hoạt
động sống, lao động, học tập, sinh hoạt... chung; là nền tảng gắn kết các cá
nhân dựa trên những chuẩn mực xã hội, quy định pháp luật, quy tắc sống, làm

17


×