TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KỶ YẾU
HỘI THẢO KHOA HỌC
CẤP TRƯỜNG
LUẬT THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ HỘI NHẬP
Nhà xuất bản Lao Động
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG
BAN CHỈ ĐẠO HỘI THẢO
Stt
Họ tên
Chức danh, đơn vị
Vai trò
1.
GS.TS. Sử Đình Thành
Hiệu trưởng
Trưởng ban
2.
PGS.TS Nguyễn Phong
Ngun
Phó Trưởng phịng phụ
trách – Phịng Quản lý
Khoa học –Hợp tác Quốc tế
Phó Trưởng
ban
3.
TS Dương Kim Thế Nguyên
Trưởng Khoa Luật
Phó Trưởng
ban
4.
TS. Nguyễn Thị Anh
Phó Trưởng khoa Luật
Thành viên
5.
TS. Trần Huỳnh Thanh Nghị
Trưởng Bộ Môn Luật kinh
tế, Khoa luật
Thành viên
BAN BIÊN TẬP KỶ YẾU
STT
Họ tên
Chức danh, đơn vị
Vai trị
1.
GS.TS. Sử Đình Thành
Hiệu trưởng
Trưởng ban
2.
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Định
Giám đốc NXB Kinh tế
Phó Trưởng ban
3.
TS Dương Kim Thế Nguyên
Trưởng Khoa Luật
Phó Trưởng ban
4.
TS. Nguyễn Thị Anh
Phó Trưởng khoa Luật
Thành viên
5.
TS. Trần Huỳnh Thanh Nghị
Trưởng Bộ Môn Luật kinh
tế, Khoa luật
Thành viên
6.
ThS. Lê Hưng Long
Giảng viên
Thành viên
7.
ThS. Nguyễn Ngọc Trâm
Anh
Giảng viên
Thư ký
BAN TỔ CHỨC HỘI THẢO
STT
Họ tên
Chức danh, đơn vị
Vai trò
1.
TS Dương Kim Thế
Nguyên
Trưởng Khoa Luật
Trưởng ban
2
TS. Nguyễn Thị Anh
Phó Trưởng khoa Luật
Phó Trưởng ban
3
TS. Trần Huỳnh Thanh
Nghị
Trưởng Bộ Mơn Luật kinh
tế, Khoa luật
Phó Trưởng ban
4
TS Lê Na
Giảng viên
Thành viên
5
TS. Nguyễn Thị Thu Hiền
Giảng viên
Thành viên
6
TS Lữ Lâm Uyên
Giảng viên
Thành viên
7
ThS. Lê Hưng Long
Giảng viên
Thành viên
8
ThS Lê Thùy Khanh
Giảng viên
Thành viên
9
ThS. Mai Nguyễn Dũng
Giảng viên
Thành viên
10
ThS. Huỳnh Thiên Tứ
Giảng viên
Thành viên
11
ThS. Nguyễn Ngọc Trâm
Anh
Giảng viên
Thành viên
MỤC LỤC
PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT THƯƠNG MẠI
HAI MƯƠI LĂM NĂM LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
TS. Dương Kim Thế Nguyên
1
1
VẤN ĐỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005 VÀ ĐỀ XUẤT PHƯƠNG
HƯỚNG SỬA ĐỔI TRONG THỜI GIAN SẮP TỚI
9
ThS Nguyễn Việt Khoa
9
ÁP DỤNG LUẬT THƯƠNG MẠI 2005 VÀ PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN TRONG VIỆC
ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
19
ThS Cao Thanh Huyền
19
HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH TẠI LUẬT THƯƠNG MẠI 2005 (SỬA
ĐỔI BỔ SUNG 2017) TRONG THỜI ĐẠI 4.0
35
ThS Nguyễn Hoàng Phương Thảo, LS Vũ Văn Đồn
35
LÃI CHẬM THANH TỐN TRONG CÁC GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI, DỊCH VỤ:
NHỮNG BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC KHI SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT
THƯƠNG MẠI NĂM 2005
47
TS LS Lương Khải Ân
47
SO SÁNH PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC HÀM Ý CHO SỬA ĐỔI LUẬT THƯƠNG MẠI 2005
59
ThS NCS Võ Phước Long
59
MỘT SỐ BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ CHẾ TÀI TRONG THƯƠNG
MẠI
75
ThS. Nguyễn Cơng Phú
75
ỨNG DỤNG HỢP ĐỒNG THƠNG MINH “SMART CONTRACT” TRONG CÁC GIAO
DỊCH MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ - PHÂN TÍCH PHÁP LÝ
92
ThS Trần Diệu My
92
PHẦN 2: CÁC HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HĨA TRONG KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI THƠNG QUA MẠNG XÃ HỘI
105
TS Trương Vĩnh Xuân
105
1
DỊCH VỤ LOGISTICS THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI
LS Trương Nhật Quang
119
119
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS TRONG LUẬT
THƯƠNG MẠI 2005 NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG
THỜI KỲ HỘI NHẬP
126
ThS. Võ Thị Hoài
126
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005 ĐIỀU CHỈNH HOẠT
ĐỘNG MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI
134
ThS Nguyễn Ngọc Anh
134
MỘT SỐ KHÍA CẠNH SO SÁNH VÀ BÌNH LUẬN CÁC QUY ĐỊNH CỦA CISG VÀ
LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VỀ NGHĨA VỤ NHẬN HÀNG VÀ QUYỀN TỪ CHỐI
NHẬN HÀNG CỦA NGƯỜI MUA
148
TS. Nguyễn Thị Thu Hiền, Phạm Hồng Sơn
148
HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH MIỄN TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI THƯƠNG NHÂN KINH
DOANH DỊCH VỤ LOGISTICS
163
ThS Nguyễn Văn Hùng
163
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG LOGISTICS THEO HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI EVFTA
175
ThS.Nguyễn Ngọc Trâm Anh, TS. Dương Kim Thế Nguyên
175
GIỚI HẠN TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI LÀM DỊCH VỤ LOGISTICS – LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
193
Th.S Nguyễn Thuỳ Dung
193
MỘT SỐ BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI
VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
216
TS. Nguyễn Thị Yến, TS Trần Thị Bảo Ánh
216
PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
HIỆN NAY
228
ThS. Trần Thị Mai Phước
228
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI TẠI LUẬT THƯƠNG MẠI
2005
242
TS.Trần Huỳnh Thanh Nghị
242
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 254
ThS. Vũ Thị Hoà Như
254
2
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH- TRÁCH NHIỆM
XÃ HỘI VÌ CỘNG ĐỒNG CỦA DOANH NGHIỆP DƯỢC PHẨM
265
Trần Hoàng Thịnh
265
ĐIỀU CHỈNH ĐIỀU KHOẢN HỢP ĐỒNG KHÔNG CÔNG BẰNG TRONG PHÁP LUẬT
BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC ASEAN VÀ NHỮNG
LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM
279
PGS.TS Trần Thăng Long
279
PHẦN 3: CHẾ TÀI TRONG THƯƠNG MẠI
CHẾ TÀI PHẠT VI PHẠM VÀ CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN TRÁCH NHIỆM DO VI
PHẠM TRONG HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
306
Ths. Trần Linh Huân, Trần Thị Diện
306
MIỄN VI PHẠM HỢP ĐỒNG DO PHẢI THỰC HIỆN QUYẾT ĐỊNH CỦA CƠ QUAN
NHÀ NƯỚC CĨ THẨM QUYỀN
320
ThS. Nguyễn Văn Hùng
320
HỒN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG,
PHẠT VI PHẠM VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI THEO LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM
2005 TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
330
ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải, Nguyễn Thị Hải Hậu
330
PHẠT VI PHẠM TRONG PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
350
TS. Trần Thị Sáu
350
BÀN VỀ QUY ĐỊNH PHẠT VI PHẠM VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HỢP
ĐỒNG THEO LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005
TS.Vũ Thế Hoài
365
365
NGHĨA VỤ HẠN CHẾ THIỆT HẠI THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA CISG VÀ LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 2005
377
ThS. Nguyễn Ngọc Trâm Anh, Nguyễn Ý Mỹ Trinh
377
ĐÁNH GIÁ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI
392
Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
392
ThS. Lê Ngọc Anh
392
3
PHẦN 4: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG THƯƠNG MẠI
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TRỰC TUYẾN TRONG BỐI CẢNH HỘI
NHẬP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI VIỆT NAM
408
Vũ Ngọc Bảo, Phạm Việt Tuấn, Nguyễn Võ Trọng Danh, Nguyễn Quang Vinh, Trần Tuấn
Khang, Trịnh Trần Minh Đức, Hồng Quốc Tuấn
408
CƠNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN- THỰC TIỄN VÀ KHUYẾN NGHỊ 425
ThS. NCS Lý Văn Toán, Lữ Cẩm Nhung
425
PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI CÁC TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN VIỆT
NAM – THỰC TIỄN VÀ KHUYẾN NGHỊ
436
ThS. NCS Lý Văn Toán
436
BÀN VỀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
MUA BÁN VẬT LIỆU XÂY DỰNG HIỆN NAY
448
Ths NCS Dương Quốc Cường
448
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
462
Ths. Lê Hải Chinh
462
THỜI HẠN ĐƯƠNG SỰ GIAO NỘP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ TRONG VỤ ÁN TRANH
CHẤP VỀ KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
472
TS. Đặng Thanh Hoa & Th.S Trần Thị Huyền Vân
4
472
HAI MƯƠI LĂM NĂM LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI
MỚI
TS. Dương Kim Thế Nguyên1
Tóm tắt: Hiếm có lĩnh vực pháp luật nào gây nhiều tranh cãi khi mới ra đời và
trải qua những trở ngại trong quá trình phát triển của nó như Luật Thương mại Việt
Nam. Tuy vậy, có đến nay Luật thương mại Việt Nam đã khẳng định được vị trí của nó
trong luật tư tại Việt Nam. Bài viết lược khảo một số dấu mốc quan trọng trong lịch sử
luật thương mại Việt Nam. Sau đó bài viết tập trung vào đánh giá và đề xuất các kiến
nghị thuộc phần chung của Luật Thương mại 2005.
Từ khoá: Luật thương mại, Thương nhân, Hành vi thương mại, Hoạt động thương
mại, Luật tư
1. Sơ lược lịch sử luật thương mại Việt Nam
Luật phong kiến Việt Nam không dành nhiều sự quan tâm cho Luật thương
mại. Người Việt xưa trọng nơng hơn trọng thương nên ít dành sự quan tâm nuôi dưỡng
và phát triển nghề thương mại. Hoạt động thương mại nếu có chỉ thực hiện lúc nơng
nhàn. Các phiên chợ diễn ra như là nhu cầu về tinh thần nhiều hơn giá trị kinh tế. Mãi
đến đầu thế kỷ 18, hoạt động thương mại mới được đánh thức bởi các nhóm khách trú
và những người ngoại kiều khác tìm đến giao lưu, mua bán với người Việt 2. Do thương
mại kém phát triển mà nhu cầu lập pháp về thương mại cũng khơng xuất hiện. Ngồi
trừ một vài quy định về nghĩa vụ được dùng chung cho dân thường, hiếm thấy các quy
định riêng dành cho thương nhân.
Du nhập luật thương mại theo mơ hình phương Tây trong thời thuộc địa.
Trong quá trình người Pháp xâm chiếm Việt Nam và biến Việt Nam thành nước thuộc
địa của Pháp, pháp luật theo mơ hình phương Tây đã được áp đặt tại Việt Nam. Tuy
vậy, với cấu trúc truyền thống, theo đuổi nghề nơng, văn hố làng xã, “phép vua thua
Trưởng Khoa Luật, Trường Kinh tế, Luật và Quản lý nhà nước, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM (UEH).
Xem thêm Lê Tài Triển, Nguyễn Vạn Thọ (1972), Luật thương mại Việt Nam dẫn giải, tập 1, Kim Lai Ấn Quán.
Sài Gòn, trang 3-23.
1
2
1
lệ làng”, luật pháp theo mơ hình này khơng để lại nhiều dấu ấn trong văn hoá pháp lý
người Việt3.
Thời kỳ phân chia đất nước, Luật Thương mại khơng có nhiều điều kiện
phát triển. Năm 1954, đất nước chia thành hai miền. Miền Bắc xây dựng một nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung, huy động nguồn lực cho chiến trường Miền Nam, nên không
thừa nhận một nền kinh tế thị trường tự do trao đổi. Luật kinh tế theo mơ hình Xơ Viết
được nghiên cứu và áp dụng mà khơng có Luật thương mại. Miền Nam Việt Nam vẫn
tiếp tục sử dụng pháp chế thời thuộc địa cho đến năm 1972 mời ban hành Bộ luật
Thương mại. Tuy vậy, Bộ luật này chỉ tồn tại có vỏn vẹn hai năm, trong bối cảnh chiến
tranh lan rộng, kinh tế Miền Nam bước vào giai đoạn suy thoái và khủng hoảng trước
khi xảy một biến cố lịch sử quan trọng – giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.
Vì lẽ đó, đạo luật này khơng có nhiều cơ hội để được áp dụng và thực hiện trên thực tế.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Luật kinh tế giữ vị thế độc tôn,
thay cho luật thương mại. Sau cuộc bầu cử Quốc hội Việt Nam thống nhất đất nước,
ngày 25/4/1976, Việt Nam chính thức đi vào giai đoạn xây dựng nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung trên cả nước. Nhu cầu về Luật Thương mại khơng cịn nữa. Thay vào đó,
luật kinh tế phục vụ cho nền kinh tế kế hoạch hoá thực sự trở thành là mối quan tâm
chính của các nhà lập pháp, cơ quan quản lý và các nhà nghiên cứu pháp lý.
Chủ đề Luật thương mại chỉ được xới lại và quan tâm nghiên cứu, lập pháp khi
Việt Nam thực hiện chính sách “đổi mới” và mở cửa nền kinh tế sau năm 1986.
2. Truân chuyên Luật thương mại giai đoạn đầu của thời kỳ “đổi mới”
Tranh luận Luật thương mại là một ngành luật hay là một lĩnh vực pháp
luật? Truyền thống luật học theo trường phái Xô Viết phân chia hệ thống pháp luật
thành các ngành luật dựa trên đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng.
Du nhập từ những năm 70 của thế kỷ 20 vào Việt Nam, Luật kinh tế được xem là một
ngành luật độc lập, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản
lý và hoạt động sản xuất, kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa các doanh
nghiệp với các cơ quan quản lí nhà nước về kinh tế4. Thốt ra từ mơ hình kinh tế tập
Lê Tài Triển, tlđd.
Nguyễn Như Phát (2001), Luật kinh tế - Mấy kinh nghiệm và bài học từ nước ngồi, Tạp chí Khoa học pháp lý
số 1/2001
3
4
2
trung, chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, lập pháp về
pháp luật cho nền kinh tế thị trường mà trong đó có Luật thương mại Việt Nam được
nghiên cứu và ban hành. Tuy vậy, đây là giai đoạn chứng kiến sự tranh luận gay gắt từ
khái niệm Luật thương mại hay luật kinh tế cho đến các nội dung điều chỉnh, đối tượng
áp dụng và nội hàm của các khái niệm được quy định trong luật thương mại. Việc tranh
luận này diễn ra không chỉ trên nghị trường mà cịn đặc biệt sơi nổi từ các nhà khoa học
tại các cơ sở đào tạo.
Luật thương mại truyền thống là lĩnh vực pháp luật riêng so với luật dân
sự. Ở các nước Châu Âu lục địa, Luật Thương mại là lĩnh vực pháp luật quan trọng
trong đời sống kinh tế xã hội. Luật này được hình thành từ việc ghi nhận một số quy
định riêng dành cho thương nhân. Lúc đầu, để điều chỉnh các quan hệ hàng hóa - tiền
tệ, người ta chỉ có các quy tắc của Luật dân sự. Về sau, khi quan hệ thương mại phát
triển đến mức người ta cần có nhu cầu đặc biệt, các quy tắt riêng. Sự hình thành Luật
thương mại nhằm đáp ứng các yêu cầu đặc biệt điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong
lĩnh vực thương mại mà các quy định của luật dân sự khơng thể đáp ứng được 5. Luật
thương mại vì thế khơng hồn tồn độc lập với luật dân sự mà là một lĩnh vực luật riêng
bổ sung cho các quy định của Luật dân sự để điều chỉnh hành vi thương mại của các
thương nhân.
Nguồn gốc của cuộc tranh luận Luật thương mại hay Luật kinh tế. Trở lại
với bối cảnh Việt Nam vào giai đoạn đầu trở lại nghiên cứu Luật thương mại trong thời
kỳ đổi mới vào những năm 1990, do ảnh hưởng sâu sắc của quan niệm phân chia hệ
thống pháp luật thành các ngành luật, nhiều ý kiến cho rằng không cho ngành luật
thương mại mà chỉ có ngành Luật kinh tế. chính vì thế Luật Thương mại chỉ là một lĩnh
vực pháp luật thuộc ngành Luật kinh tế chứ không phải là một ngành luật độc lập. quan
niệm này đặc biệt được cổ vũ bởi sự ra đời của văn bản Luật Thương mại 1997, đạo
luật về thương mại đầu tiên của thời kỳ đổi mới. Trong quá trình xây dựng Luật Thương
mại 1997, dự kiến rằng luật này sẽ thay thế cho Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989. Tuy
nhiên, do phạm vị điều chỉnh của Luật Thương mại 1997 quá hẹp từ khái niệm về hành
vi thương mại và hoạt động thương mại dẫn đến nó khơng đủ sức bao qt các hoạt
động kinh tế thuộc pháp vi điều chỉnh của pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1980.
Sự khơng tương thích trong các quy định của pháp luật thương mại trước
khi được thống nhất. Theo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, một hợp đồng được xem
5
Xem Nguyễn Quang Quýnh (1967), Dân Luật, quyền 1, Viện Đại học Cần Thơ 1967.
3
là hợp đồng kinh tế nếu như thỏa mãn 3 điều kiện6: (1) Chủ thể của hợp đồng phải là
giữa pháp nhân với pháp nhân hoặc giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh,
(2) hình thức của hợp đồng phải là văn bản hoặc tài liệu giao dịch, (3) Nội dung của
hợp đồng là thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu, ứng
dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các thỏa thuận khác có mục đích kinh doanh. Như
vậy, xét về nội dung, một hợp đồng kinh tế có nội dung đa dạng song xét về chủ thể,
hình thức, chúng lại rất hẹp. Trong khi đó, với quy định của Luật Thương mại 1997,
chủ thể và hình thức được mở ra khá rộng rãi nhưng lại hẹp về nội dung. Về chủ thể,
Luật thương mại điều chỉnh quan hệ giữa “thương nhân với thương nhân hoặc thương
nhân với các bên liên quan”7. Về hình thức, hợp đồng thương mại có thể được lập bằng
văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể. Như vậy chủ thể và hình thức hợp đồng mở rộng
hơn so với quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989. Tuy vậy, nội dung hợp đồng
thương mại lại khá hạn hẹn do khái niệm hoạt động thương mại chỉ giới hạn trong 3
nhóm hoạt động gồm: (2) mua bán hàng hoá, (2) cung ứng dịch vụ thương mại và (3)
hoạt động xúc tiến thương mại8. Chính vì lý do khơng thống nhất này nên đã xảy ra tình
trạng có những hợp đồng là hợp đồng thương mại (theo nghĩa được điều chỉnh bởi Luật
Thương mại 1997) nhưng lại không phải là hợp đồng kinh tế (vì khơng thoả mãn u
cầu về chủ thể và hình thức) nên phải được coi là hợp đồng dân sự và giải quyết theo
thủ tục giải quyết vụ án dân sự. Ngược lại, có những hợp đồng là hợp đồng kinh tế
nhưng không phải là hợp đồng thương mại dù các bên tham gia hợp đồng đều có mục
đích lợi nhuận (ví dụ hợp đồng xây dựng do hoạt động xây dựng chưa được thừa nhận
là hoạt động thương mại theo Luật Thương mại 1997). Sự trớ trêu này đã kéo dài hơn
10 năm sau đó dẫn đến hệ quả Luật Thương mại 1997 hiếm khi được toà án tham chiếu
trong giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng có mục đích kinh doanh.
3. Sự thống nhất của Luật tư và vị trí của Luật Thương mại trong luật tư tại Việt
Nam
Sự thống nhất của Luật tư ở Việt Nam. Năm 2005 được đánh dấu là một năm
quan trọng trong lập pháp về Luật tư tại Việt Nam với sự ra đời của hai đạo luật quan
trọng: Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005. Hai đạo luật này cùng có hiệu
lực từ ngày 1.1.2006. Đồng thời với việc hai đạo luật này có hiệu lực thì Pháp lệnh Hợp
đồng kinh tế 1989 cũng hết hiệu lực sau hơn 15 năm tồn tại và gây khơng ít rắc rối cho
xem các Điều 1 và Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế 1989
Khoản 1 Điều 5 Luật Thương mại 1997
8
Khoản 2 điều 5 Luật Thương mại 1997
6
7
4
hệ thống pháp luật tư. Sự kiện này đánh dấu một dấu mốc quan trọng trong việc thống
nhất luật tư tại Việt Nam. Bộ luật Dân sự 2005 chính thức được xem là đạo luật gốc khi
xác định phạm vi điều chỉnh của Bộ luật này bao gồm các quan hệ dân sự, hơn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động9. Đồng thời, Luật Thương mại 2005 xác
định Bộ luật Dân sự sẽ được áp dụng đối với các Hoạt động thương mại không được
quy định trong Luật thương mại và trong các luật khác10. Như vậy, trong lĩnh vực luật
tư, quan niệm luật kinh tế và luật dân sự là hai ngành luật độc lập đã dần được nới lỏng
hơn, thậm chí trong các trường luật, mơn học luật thương mại được hình thành, thay thế
cho mơn học Luật kinh tế.
Một số thành tựu khi thống nhất luật tư. Từ các quy định của Luật Thương
mại 2005, có thể nhận thấy các điểm nổi bật sau đây:
Thứ nhất: mở rộng khái niệm hoạt động thương mại đến mức cao nhất, theo đó
mọi hoạt động có mục đích sinh lợi đều được xem là hoạt động thương mại. Đây mà
một quan niệm tiến bộ đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế. Khái niệm này tương thích
với các quy định của UNCITRAL và luật pháp của nhiều nước trên thế giới.
Thứ hai, nguyên tắc Luật chung (lex specialis) và luật chuyên ngành (lex
generalis) của truyền thống luật lục địa được áp dụng trong các hoạt động thương mại.
Bộ luật Dân sự và các luật điều chỉnh các hoạt động thương mại chuyên ngành khác là
quan hệ giữa luật chung và luật riêng. Các luật chuyên ngành như luật kinh doanh bất
động sản, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật chứng khốn… được ưu tiên áp dụng trước,
nếu khơng có quy định thì áp dụng luật thương mại. Trường hợp Luật thương mại cũng
khơng có quy định thì áp dụng Bộ luật Dân sự.
Thứ ba, ngoài việc sửa đổi Bộ luật Dân sự và Luật thương mại, việc xây dựng
Bộ luật tố tụng dân sự 2004 với việc thống nhất các thủ tục giải quyết tranh chấp dân
sự và tranh chấp kinh doanh thương mại đã góp phần mạnh mẽ hơn cho việc thống nhất
luật tư. Người ta không phải bận rộn với câu hỏi là tranh chấp kinh tế hay tranh chấp
dân sự để làm cơ sở xác định cơ quan tài phán thích hợp: Tịa kinh tế hay Tòa dân sự.
Vấn đề hủy án do xác định sai tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh tế dẫn đến sai về
thủ tục tụng dân sự và tố tụng kinh tế khơng cịn xảy ra nữa.
9
Điều 1 Bộ luật Dân sự 2005
Khoản 3 điều 4 Luật Thương mại 2005
10
5
4. Một số vấn đề cần sửa đổi trong phần chung của Luật thương mại Việt Nam
2005
Sửa đổi quy định về thương nhân. Luật thương mại thường tập trung giải quyết
hai vấn đề then chốt: thương nhân và hành vi thương mại. Cụ thể hơn, luật này quy định
các điều kiện để trở thành thương nhân và các hành vi thương mại của thương nhân.
Luật thương mại Việt Nam hiện hành dường như chưa có sự đầu tư tương xứng cho các
quy định về thương nhân. Nhiều quy tắc về thương nhân cịn mâu thuẫn. Ví dụ điều 6
Luật Thương mại 2005 quy định thương nhân phải đăng ký kinh doanh song điều 7 của
Luật này lại quy định thương nhân không đăng ký kinh doanh vẫn phải chịu sự điều
chỉnh của Luật thương mại. Quy định này cho thấy sự xung đột giữa việc, một mặt chỉ
thừa nhận thương nhân về pháp lý (phải đăng ký kinh doanh) nhưng mặt khác lại cho
phép thương nhân thực tế tồn tại (không đăng ký kinh doanh vẫn phải chịu sự điều chỉnh
của Luật thương mại). hướng sửa đổi sắp tới cần bãi bỏ quy định về đăng ký kinh doanh
là một trong những dấu hiệu của thương nhân và chỉ cần quy định đấy là nghĩa vụ trong
những trường hợp nhất định.
Cần tái bổ sung khái niệm hành vi thương mại và bỏ khái niệm hoạt động
thương mại. Như đoạn trên đây đã đề cập, luật thương mại có nội dung điều chỉnh về
thương nhân và hành vi thương mại. Luật Thương mại 1997 có cả hai khái niệm “hành
vi thương mại” và “hoạt động thương mại”. Tuy nhiên, cách định nghĩa hai khái niệm
này khá lịng vịng, khơng rõ nghĩa nên cần sửa đổi. Đáng tiếc để sửa đổi quy định khá
lòng vòng này, Luật Thương mại 2005 lại chọn cách bỏ đi khái niệm hành vi thương
mại thay vì khái niệm hoạt động thương mại. Khi không quy định về hành vi thương
mại và nội hàm của hành vi thương mại đã dẫn đến hệ quả khó xử lý đối với các giao
dịch có tính hỗn hợp: một bên thực hiện hành vi thương mại có mục đích sinh lợi với
bên kia khơng có mục đích sinh lợi. Ví dụ giữa thương nhân với các tổ chức phi thương
mại (trường học, bệnh viện công chẳng hạn). Giới hạn khái niệm hoạt động là khơng
phù hợp trong tình huống này.
Cần có cách xử lý phù hợp với việc lựa chọn luật thương mại áp cho những
giao dịch hỗn hợp. Giao dịch hỗn hợp là loại giao dịch giữa một bên có hoạt động
thương mại với bên kia khơng thực hiện hoạt động thương mại. Theo triết lý thông
thường, luật thương mại chỉ dành cho thương nhân mà không áp dụng cho người khơng
phải là thương nhân. Chính vì thế Luật Thương mại 2005 quy định đối với các giao dịch
này, Luật thương mại được áp dụng trong trường hợp bên không phải là thương nhân,
6
khơng có mục đích kiếm lời khi giao dịch với thương nhân chọn luật thương mại để áp
dụng. Như vậy vơ hình trung quy định này đã đi ngược lại với quyền tự do hợp đồng,
cho phép bên không phải là thương nhân áp đặt việc chọn luật lên bên thương nhân
cùng tham gia giao kết hợp đồng. Luật thương mại nên được sửa đổi theo hướng trao
quyền thỏa thuận chọn luật cho các bên tham gia hợp đồng thương mại.
5. Lời kết
Sau hơn 25 năm hình thành và phát triển, Luật thương mại Việt Nam đã dần dần
chiếm lĩnh được vị thế quan trọng trong hệ thống luật tư. Nó trở thành đạo luật quan
trọng cho nhánh luật chuyên biệt điều chỉnh về hoạt động thương mại và các hành vi
thương mại. Nó cũng trở thành mắt xích nối kết quan trọng giữa các luật điều chỉnh các
hoạt động thương mại chuyên ngành với Bộ luật Dân sự. Tuy vậy, như đã phân tích trên
đây, một số nội dung thuộc phần chung của Luật Thương mại 2005 cần tiếp tục được
điều chỉnh để luật này thực sự đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ thương mại của
thương nhân với thương nhân và thương nhân với các bên có liên quan.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989
2. Luật Thương mại 1997
3. Luật Thương mại 2005
4. Bộ luật Dân sự 2005
5. Bộ luật Dân sự 2015
6. Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
7. Ngơ Huy Cương (2015) Giáo trình Luật thương mại, phần chung và thương nhân,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo luật kinh tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
7
9. Nguyễn Như Phát (2001), Luật kinh tế - Mấy kinh nghiệm và bài học từ nước ngồi,
Tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2001
10. Lê Tài Triển, Nguyễn Vạn Thọ (1972), Luật thương mại Việt Nam dẫn giải, tập 1,
Trang 30
11. Nguyễn Quang Quýnh (1967), Dân Luật, quyền 1, Viện Đại học Cần Thơ 1967
8
VẤN ĐỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005 VÀ ĐỀ XUẤT
PHƯƠNG HƯỚNG SỬA ĐỔI TRONG THỜI GIAN SẮP TỚI
ThS Nguyễn Việt Khoa1
Tóm tắt: Chủ thể LTM là vấn đề cơ bản để phân biệt loại hợp đồng chịu sự điều
chỉnh của hợp đồng thương mại hay hợp đồng dân sự, LTM năm 2005 nhiều lần được
lên kế hoạch sửa đổi.Tuy nhiên vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau là có nên giữ hay thay
đổi, một trong những vấn đề tranh cãi là là tiếp tục giữ Luật Thương mại hay thay thế
bằng văn bản khác hoặc quy định luôn hoạt động thương mại do Bộ Luật Dân sự( năm
2015) điều chỉnh để thống nhất chung, một trong những vấn đề là yếu tố chủ thể. Nhằm
đưa thêm một góc nhìn để ban soạn thảo, các nhà làm luật xem xét, tác giả có một số ý
kiến về chủ thể LTM.
1. Quy định của Luật Thương mại năm 2005 về chủ thể của Luật Thương mại, và
kinh nghiệm các nước trên thế giới;
Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005 (sau đây viết tắt Luật TM) thì
chủ thể của Luật TM gồm 2 nhóm chủ thể chính là thương nhân; tổ chức và cá nhân
liên quan đến hoạt động thương mại2 Trong đó:
Thứ nhất, nhóm chủ thể “Thương nhân” là một trong các khái niệm cơ bản và là
chủ thể chính của luật thương mại, vì một quan hệ pháp luật thương mại chỉ được xác
lập khi có sự tham gia của ít nhất một bên là thương nhân. Theo Điều 6 Luật TM3
thương nhân đã được định nghĩa cơ bản. Theo đó, về mặt ngơn từ Khoản 1 Điều 6 Luật
TM tuy không quy định theo cách định nghĩa khái niệm, nhưng nội hàm đã chứa đầy
đủ các yếu tố nội dung của một định nghĩa khái niệm, vì vậy có thể xem điều khoản này
là một định nghĩa khái niệm thương nhân. Theo đó, cá nhân và tổ chức kinh tế có thể
trở thành thương nhân theo quy định pháp luật. Tổ chức kinh tế phải được thành lập
hợp pháp, có thể ví dụ như cơng ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp
danh, doanh nghiệp tư nhân,... Thương nhân là cá nhân phải có đầy đủ năng lực hành
Khoa Luật, Trường Kinh tế, Luật và Quản lý nhà nước, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM (UEH)
Điều 2 Luật số 36/2005/QH11 (2005), Luật thương mại
3
Điều 6 Luật Thương mại 2015
1
2
9
vi dân sự, ở đây là chủ hộ của hộ kinh doanh. Đồng thời, tổ chức kinh tế và cá nhân còn
cần thỏa mãn ba điều kiện:
(1) Phải hoạt động thương mại một cách độc lập về mặt pháp lý, tức là Cá nhân
hay tổ chức đó phải tham gia vào hoạt động thương mại với và là chủ thể độc lập theo
quy định pháp luật;
(2) Hoạt động thương mại có tính thường xun. Tính thường xun ở đây khơng
được hiểu theo nghĩa ngôn ngữ thông thường mà cần hiểu dưới khía cạnh pháp lý: chỉ
cần thương nhân cịn tồn tại, chưa bị phá sản, giải thể hay tạm ngừng hoạt động thì vẫn
thoả điều kiện này. Đối với cá nhân, được hiểu là cá nhân hoạt động thương mại làm
nghề nghiệp chính của mình và tạo ra thu nhập. Đối với tổ chức kinh tế, mục đích thành
lập đã bao hàm cả tính thường xun. Vì vậy u cầu về tính thường xuyên kéo theo hệ
quả pháp lý nhất định, đó là trường hợp thương nhân muốn tạm ngừng hoạt động doanh
nghiệp hay hộ kinh doanh, tổ chức kinh tế khi vượt quá thời hạn luật định, thì phải thông
báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý khi tạm ngừng hoạt động.
(3) Cá nhân, tổ chức kinh tế đăng ký kinh doanh: đối với doanh nghiệp thể hiện
qua Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đối với hộ kinh doanh hay cá nhân/một nhóm
người/hộ gia đình là Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh (hoặc các giấy chứng
nhận có giá trị tương đương). Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận
đăng ký hộ kinh doanh có thể được xem là giấy “khai sinh” ra thương nhân.
Điều 7 Luật TM quy định, thương nhân có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh, kể cả
trong trường hợp không đăng ký kinh doanh thì thương nhân vẫn chịu các trách nhiệm
về mọi hoạt động của mình. Tuy nhiên việc quy định như hiện tại có sự mâu thuẫn với
định nghĩa về thương nhân của Điều 6 Luật TM. Vì trong Điều 6 LTM đã xác định rằng
thương nhân là tổ chức cá nhân đăng ký kinh doanh.
Các nước trên thế giới có các tiêu chí đơn giản nhưng thể hiện rõ bản chất của
thương.
-
Luật thương mại Cộng hòa Pháp quy định thương nhân là: “Người thực hiện
những hành vi thương mại và đó là nghề nghiệp thường xuyên của họ”.
10
-
Theo Bộ luật Thương mại Hoa Kỳ: có 3 loại hình thương nhân chủ yếu là cá
nhân kinh doanh (sole propration), công ty đối nhân (partnership) và công
ty đối vốn (corporation)”.
Các nước khác còn quy định thương nhân cần thực hiện hành vi hay hoạt động
thương mại nhân danh mình và vì lợi ích của thương nhân. Việc xác định điều kiện trở
thành thương nhân của các nước thường dựa trên yếu tố là thực hiện hoạt động thương
mại.
Hai là, Tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động thương mại. Bao gồm:
-
Tổ chức, cá nhân không đăng ký kinh doanh
Tổ chức, cá nhân khơng đăng ký kinh doanh, có thể tham gia vào quan hệ thương
mại và trở thành chủ thể của Luật TM.
-
Cơ quan đăng ký kinh doanh
Cơ quan đăng ký kinh doanh là cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp và chủ thể kinh doanh khác. Và cũng là nơi tiến hành các thủ
tục đăng ký thành lập, thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hộ kinh doanh,
đăng ký tạm ngừng hay chấm dứt hoạt động kinh doanh,...
-
Cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chuyên ngành
Nhằm quản lý nhà nước về kinh tế, thương nhân phải thực hiện các nghĩa vụ theo
quy định của cơ quan quản lý chuyên ngành. Ví dụ: thực hiện các thủ tục về đảm bảo
điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm; thực hiện các thủ tục về đảm bảo điều kiện kinh
doanh tại cơ quan công an khi kinh doanh các ngành, nghề phải đảm bảo điều kiện về
an ninh, trật tự; thực hiện các thủ tục hải quan tại cơ quan hải quan khi thực hiện hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu...
-
Tổ chức, cá nhân thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp thương mại của
thương nhân
Khi giải quyết tranh chấp hoạt động thương mại, Toà án, tổ chức trọng tài, hoà
giải viên (khi thực hiện hoà giải thương mại), trọng tài viên của hội đồng trọng tài vụ
việc được coi là chủ thể của Luật TM. Tuy nhiên, sự xuất hiện của các tổ chức, cá nhân
11
này với tư cách là chủ thể của Luật TM phụ thuộc vào việc có tranh chấp thương mại
xảy ra hay khơng? Số lượng vụ tranh chấp nhiều hay ít và thương nhân của vụ tranh
chấp lựa chọn cách thức nào để giải quyết tranh chấp xảy ra giữa họ?
2. Mối quan hệ của Luật TM và Bộ luật Dân Sự về chủ thể.
Dù hiểu từ góc độ một ngành luật hay lĩnh vực pháp luật thì giữa Bộ luật dân sự
và Luật TM cũng chỉ có sự độc lập tương đối và giữa chúng tồn tại mối quan hệ giữa
luật chung và luật riêng. Luật TM và Bộ luật dân sự đều điều chỉnh các mối quan hệ tài
sản hình thành trên cơ sở quyền tự do thỏa thuận của chủ thể, đồng thời, đều quy định
về tư cách chủ thể trong giao dịch.
Trên cơ sở các quy định chung của Bộ luật dân sự (sau đây viết tắt là BLDS),
Luật TM quy định bổ sung hoặc chi tiết hóa phù hợp với đặc thù của giao dịch thương
mại có nhằm sinh lợi và đặc thù đối với các chủ thể là thương nhân - tổ chức, cá nhân
dùng hoạt động thương mại là hoạt động chính và lấy việc sinh lợi làm mục tiêu hàng
đầu.
Trong mối quan hệ với BLDS, Luật TM là luật riêng, tức là Luật TM có ý nghĩa
bổ sung hoặc cụ thể hố các quy định của pháp luật dân sự. Phương pháp xây dựng
pháp luật theo mơ hình này đã có nguồn gốc từ xa xưa (lex specialis và lex generalis).
Trong quá trình áp dụng, luật riêng bao giờ cũng được áp dụng trước, đối với những
vấn đề mà luật riêng không điều chỉnh thì áp dụng các quy định của luật chung. Hiện
nay, nguyên tắc này được thể hiện khá rõ nét trong pháp luật Việt Nam. Điều 4 Luật
TM nêu rõ nguyên tắc áp dụng Luật TM và pháp luật có liên quan, theo đó, hoạt động
thương mại cần tuân theo Luật TM và pháp luật có liên quan. Nếu hoạt động thương
mại không được quy định trong Luật TM hay pháo luật có liên quan thì áp dụng quy
định của Bộ luật Dân sự.
Mối quan hệ về chủ thể giữa Luật TM và Luật Dân sự trong pháp luật Việt Nam
thể hiện thơng qua những khía cạnh cơ bản như sau:
- Một là, Bộ luật Dân sự là văn bản quy phạm về nghĩa vụ và hợp đồng, khơng
có sự phân biệt chủ thể (kinh doanh hay không kinh doanh) và mục đích (lợi nhuận hay
phi lợi nhuận) trong quy định về hợp đồng dân sự. Luật TM khi quy định về hoạt động
thương mại, chủ yếu chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch
thương mại. Không quy định các vấn đề pháp lý về hợp đồng như: giao kết hợp đồng,
12
hiệu lực của hợp đồng, đảm bảo ký kết và thực hiện hợp đồng,... Các vấn đề này sẽ thực
hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự.
- Hai là, Bộ luật Dân sự quy định về cá nhân, pháp nhân, năng lực hành vi và
năng lực pháp luật, uỷ quyền và đại diện, chấm dứt pháp nhân,... Pháp Luật TM quy
định quy chế thương nhân dành cho tổ chức và cá nhân kinh doanh. Bên cạnh các quy
định riêng này của Luật TM, các quy định chung của Luật Dân sự vẫn có hiệu lực áp
dụng với mọi tổ chức, cá nhân, bao gồm cả tổ chức, cá nhân kinh doanh.
Yếu tố chủ thể sẽ quyết định loại hợp đồng là dân sự hay hợp đồng thương mại,
đồng thời sẽ quyết định chế tài được áp dụng theo BLDS hay LTM.
3. Vận dụng yếu tố chủ thể trong ký kết hợp đồng Thương Mại
Luật TM năm 2005 được ban hành và áp dụng là sự bắt nguồn của định nghĩa
mới trong thực tế hoạt động kinh doanh về “hợp đồng thương mại”. Pháp luật nước ta
vẫn chưa đưa ra khái niệm cụ thể về hợp đồng thương mại mà chỉ định nghĩa cơ bản
của hợp đồng tại Bộ luật dân sự.“Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”4. Đây được xem là định nghĩa cơ
bản của hợp đồng nói chung, gồm hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh và hợp đồng
trong lĩnh vực thương mại.
Ngoài ra, có ý kiến cho rằng khơng nên sử dụng khái niệm trên vì lo ngại nó sẽ
gây ra hệ quả xấu khi tìm kiếm sự khác nhau giữa hợp đồng thương mại và hợp đồng
dân sự. Thực tiễn kinh doanh hiện nay, khái niệm này vẫn được sử dụng phổ biến mang
ý nghĩa là hợp đồng trong lĩnh vực thương mại. Định nghĩa về “hợp đồng thương mại”
đã xuất hiện trong hoạt động pháp lý, kinh tế và được hiểu là hợp đồng hình thành trong
lĩnh vực thương mại”.
Theo đó, bản chất chung của hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận để xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt các quyền, nghĩa vụ trong hoạt động thương mại. Nhưng cần
lưu ý rằng, hợp đồng thương mại có các đặc điểm khác biệt bắt nguồn từ các điều kiện
của hoạt động thương mại. Theo đó, hợp đồng thương mại có các các đặc điểm sau:
Thứ nhất, ít nhất một bên chủ thể trong hợp đồng thương mại là thương nhân.
4
Theo Điều 385 BLDS năm 2015
13