Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Môn kinh tế chính trị Mác - Lê nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.68 KB, 21 trang )

PHỤ LỤC

BÀI THU HOẠCH
A. MỞ ĐẦU...................................................................................................5
B. NỘI DUNG................................................................................................7
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Chương I. Khái quát về bản chất, mục tiêu và đặc trưng của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...................................7
KINH
TẾ
THỊđịnh
TRƯỜNG
ĐỊNH
HƯỚNG
1. Bản chất kinh
tế thị
trường
hướng xã hội
chủ nghĩa
ở Việt Nam.......7
2. Mục tiêu xâyXÃ
dựng
và phát
triểnNGHĨA
nền kinh tế
trườngNAM
định hướng XHCN
HỘI
CHỦ
ỞthịVIỆT
.....................................................................................................................8


3. Đặc trưng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam..............9
Chương II. Tính tất yếu hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam..............................................12
1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với
quy luật phát triển khách quan..................................................................12
2. Kinh tế thị trường có rất nhiều ưu việt, là động lực quan trọng thúc đẩy sự
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước......................................................13
3. Mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân mong muốn một xã hội dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh...................................................................14
Chương III. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay...................................................15
1. Những thành tựu đạt được trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam.................................................................15
2. Những hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam....................................................................................16
3. Giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam...17
4. Liên hệ về vấn đề phát triển kinh tế tại quận Long Biên giai đoạn 20152020...........................................................................................................18
C. KẾT LUẬN.............................................................................................21


1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

KÝ HIỆU


GIẢI THÍCH KÝ HIỆU

1
2
3
4
5

C.Mác
TBCN
XHCN
CNXH
KTTT

Các Mác
Tư bản chủ nghĩa
Xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội
Kinh tế thị trường

2


A. MỞ ĐẦU
Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của
lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao
hơn trên con đường phát triển và nền kinh tế TBCN chính là nền kinh tế thị
trường phát triển đến trình độ phổ biến và hồn chỉnh. Nấc thang cao hơn
chính là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế
XHCN. Để chuyển lên nấc thang này, nền kinh tế thị trường phải phát triển

hết mức, phải trở thành phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội.
Đây là một kết luận lý luận quan trọng. Nó khái quát quá trình phát
triển của lịch sử nhân loại, trong đó, kinh tế thị trường được xác định là một
nấc thang tất yếu, mang tính phổ biến.
Thực hiện cơng cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, chúng ta đã chuyển
mô hình kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Qua nhiều năm, với sự nỗ lực phấn đấu của tồn
dân tộc, cơng cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử: Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, có sự thay đổi
cơ bản và tồn diện; kinh tế tăng trưởng nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được đẩy mạnh;
đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng
và an ninh được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng
nâng cao; sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và
lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu
đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp
thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày
càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội
XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét
cơ bản. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là vấn đề còn mới trong lịch sử.
Lý luận về kinh tế thị trường, nhất là đảm bảo giữ vững định hướng XHCN là
vấn đề phải thường xuyên được nghiên cứu, bổ sung. Vì vậy, tơi chọn đề tài:
“ Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” làm tiểu luận kết thúc
mơn Kinh tế chính trị Mác - Lênin trong chương trình hồn chỉnh cao cấp lý
3


luận chính trị. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài này là rất rộng, nên tôi chỉ
tập trung vào một số vấn đề cơ bản:
Chương I. Khái quát về bản chất, mục tiêu và đặc trưng của kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Chương II. Tính tất yếu hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Chương III. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

4


B. NỘI DUNG
Chương I. Khái quát về bản chất, mục tiêu và đặc trưng của kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một
kiểu hình kinh tế thị trường vừa tuân theo các quy luật chung của nền kinh tế
thị trường, vừa hàm chứa những giá trị xã hội chủ nghĩa trong vận hành, quản
lý, cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh. Bản chất của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được phản ánh thông qua các biểu hiện dưới đây:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh
tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
quy luật của kinh tế thị trường
Tính chất hiện đại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thể hiện sự hướng tới tiếp thu, tích hợp có chọn lọc các thành tựu mới
về các loại thị trường, các yếu tố thị trường, cơ chế vận hành... của các nền
kinh tế thị trường phát triển nhất thế giới. Nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập theo chuẩn mực thế giới.
Các quy luật kinh tế chủ yếu chi phối trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam cơ bản bao gồm: quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh
tranh, quy luật lưu thông tiền tệ...

Trên thị trường các quy luật này có quan hệ tác động lẫn nhau và thông
qua sự hoạt động của các quy luật đó sẽ điều tiết hành vi của các chủ thể tham
gia nền kinh tế.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh
tế thị trường mà trong nó, hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh
tế cũng như quản lý của Nhà nước ngoài nguyên tắc tuân thủ các quy luật thị
trường còn hàm chứa, gắn với và hướng tới những giá trị cơ bản của chủ
nghĩa xã hội. Nhưng giá trị căn bản của CNXH Việt Nam thể hiện tập trung ở
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

5


Thứ nhất, nền kinh tế có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền XHCN định hướng và điều tiết nền kinh tế,
thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường
Thứ hai, do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo, phát huy dân chủ,
XHCN, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ ba, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, do nhân dân tổ chức ra
dưới sự lãnh đạo của Đảng, quyền lực của Nhà nước là thống nhất, khơng chỉ
được phân cơng, phối hợp mà cịn có sự kiểm soát trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là nền kinh tế được xây dựng ở
một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ, Nhà nước pháp quyền XHCN quản
lý, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, nhằm mục tiêu đi lên XHCN
Thứ tư, xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp để thúc đẩy phát triển
mạnh lực lượng sản xuất
Thứ năm, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; không ngừng nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
2. Mục tiêu xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN

a. Mục tiêu tổng quát
Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã
chỉ rỏ: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện: “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được mục tiêu đó
trong phát triển nền kinh tế thị trường, phải tạo điều kiện để giải phóng mạnh
mẽ sức sản xuất và khơng ngừng phát triển lực lượng sản xuất; phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN phù
hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối; phát triển kinh tế thị trường
để từng bước xây dựng hạ tầng kinh tế cho chủ nghĩa xã hội; cải thiện và nâng
cao đời sống nhân dân.
b. Mục tiêu cụ thể
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phấn đấu đến năm 2030, là nước
đang phát triển có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế
6


quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động,
nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới
sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập
quốc tế”
Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa mà nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải đạt là:
Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu
người tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong
xã hội ngày càng được thu hẹp.
Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị
trường cho ngân sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi

trường sinh thái, bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa học,
cơng nghệ và an ninh, quốc phịng.
Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi
ích ngay trong nội bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào
giải quyết các vấn đề xã hội, ở việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá
trị khơng chỉ về kinh tế mà cịn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.
Về mục tiêu chính trị: Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ
hóa nền kinh tế, mọi người, mọi thành phần kinh tế có quyền tham gia vào
hoạt động kinh tế, vào sản xuất kinh doanh, có quyền sở hữu hợp pháp về tài
sản của mình; quyền của người sản xuất và người tiêu dùng được bảo vệ trên
cơ sở pháp luật của nhà nước.
3. Đặc trưng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Đặc trưng về sở hữu: Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một
chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể). Từ khi tiến hành đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
thừa nhận trên thực tế có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm
cả công hữu và tư hữu.
Đặc trưng về cơ cấu kinh tế: Là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác

7


là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Đặc trưng về phân phối: Thực hiện phân phối theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa
trên các nguyên tắc của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từ chỗ
coi Nhà nước là chủ thể quyết định phân phối chuyển dần sang xác định thị
trường quyết định phân phối lần đầu và Nhà nước thực hiện phân phối lại.

Về cơ chế vận hành của nền kinh tế: Kết hợp giữa cơ chế thị trường với
vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa
X, tháng 3-2008, Đảng ta khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường,
vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu
tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là nền kinh tế có tổ
chức, có kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa vừa phát huy những ưu thế của kinh tế thị trường và kinh tế kế
hoạch, vừa loại bỏ những khuyết tật của hai nền kinh tế đó, nhằm thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhà
nước quản lý bằng chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch; sử dụng cơ
chế thị trường để giải phóng sức sản xuất. Nhà nước ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật nhằm định hướng và tạo môi trường pháp lý cho sự phát
triển các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không phải thị trường điều tiết hồn tồn
mà cịn có sự điều chỉnh, quản lý của Nhà nước để đạt các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, khắc phục những bất cập, khuyết tật của cơ chế thị
trường.
Về phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thực
8


hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước
sử dụng như một công cụ, phương tiện, một động lực để xây dựng chủ nghĩa xã

hội. Cơ chế vận hành của kinh tế thị trường là một cơ chế mở, bị điều tiết bởi
các quy luật kinh tế cơ bản: giá trị, cạnh tranh, cung cầu nên kinh tế thị trường
tạo ra khả năng kết nối hình thành chuỗi giá trị cho nền sản xuất toàn cầu.

9


Chương II. Tính tất yếu hình thành và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường là mơ hình kinh tế mà hầu hết các quốc gia hiện nay
đang thực hiện, tuy nhiên cách thức xây dựng, triển khai mô hình này có sự
khác biệt giữa các nước do đặc điểm riêng về văn hóa, chính trị, xã hội. Đối
với Việt Nam, chúng ta bắt tay xây dựng Kinh tế thị trường chúng ta khẳng
định: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan
trong thời kỳ quá độ.
1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù
hợp với quy luật phát triển khách quan
Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những điều kiện
chung để kinh tế hàng hóa xuất hiện vẫn cịn tồn tại. Do đó, sự tồn tại kinh tế
hàng hóa , kinh tế thị trường ở nước ta là một tất yếu khách quan:
Phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hóa
vẫn tồn tại và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta
hiện nay. Phân công lao động xã hội phát triển thể hiện ở chỗ các ngành nghề
ở nước ta ngày càng đa dạng, phong phú, chuyên mơn hóa sâu. Tác động của
phân cơng lao động:
- Góp phần phá vỡ tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế tự nhiên
trước đây và thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ hơn.
- Là cơ sở và là động lực để nâng cao năng suất lao động xã hội, nghĩa
là làm cho nền kinh tế ngày càng có nhiều sản phẩm thặng dư dùng để trao
đổi, mua bán. Do đó, làm cho trao đổi, mua bán hàng hóa trên thị trường ngày

càng phát triển hơn. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế: Do tồn tại nhiều
hình thức sở hữu ( sở hữu tồn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu
hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan
hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hóa -tiền tệ.
Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt
nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng, mặt
khác các đơn vị kinh tế cịn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật – cơng nghệ,

10


về trình độ quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả cũng khác nhau nên quan
hệ kinh tế giữa họ phải thực hiện bằng quan hệ hàng hóa tiền tệ.
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại trong điều kiện phân công lao động
quốc tế mỗi quốc gia riêng biệt là chủ sở hữu đối với mỗi hàng hóa đưa ra
trao đổi trên thị trường, sự trao đổi này phải trên nguyên tắc ngang giá.
Với những lý do trên, kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, ở
Việt Nam những điều kiện cho sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng
hóa khơng mất đi mà cịn phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu, sự
phát triển kinh tế hàng hóa tất yếu hình thành kinh tế thị trường.
Như vậy, sự lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại và đặc điểm phát triển
của dân tộc.
2. Kinh tế thị trường có rất nhiều ưu việt, là động lực quan trọng
thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Do cạnh tranh trong nền sản xuất hàng hóa, buộc các chủ thể sản xuất
phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất làm cho năng xuất

lao động tăng, chi phí sản xuất giảm ở mức thấp nhất nhờ đó mà chiến thắng
trong cạnh tranh. Quá trình đó đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Kích thích tính năng động, sáng tạo của các chủ thể kinh tế, kích thích
việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã , tăng khối lượng hàng hóa và dịch
vụ, làm cho sản xuất gắn với tiêu dùng. Kinh tế thị trường chịu sự chi phối
của quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu, buộc mỗi người sản xuất tự chịu
trách nhiệm về hàng hóa mình làm ra. Mỗi người sản xuất đều chịu sức ép
buộc phải quan tâm tới sự tiêu thụ trên thị trường, sao cho sản phẩm của mình
được xã hội thừa nhận và cũng từ đó họ mới có thu nhập.
Thúc đẩy phân cơng lao động, chun mơn hóa sản xuất vì thế mà phát
huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, của đất nước để mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại.
Thúc đẩy q trình tích tụ và tập trung sản xuất, tạo điều kiện ra đời
nền sản xuất lớn xã hội hóa cao; đồng thời chọn lọc được những nhà sản xuất
11


kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, đội ngũ lao
động lành nghề đáp ứng nhu cầu của đất nước.
Phát triển nền kinh tế thị trường làm cho lực lượng sản xuất phát triển
sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi
người.
Kinh tế thị trường là một thành tựu phát triển văn minh của nhân loại
trong sản xuất và trao đổi sản phẩm, là phương thức phân bổ nguồn lực hiệu
quả loài người đã đạt được, là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
nhanh và hiệu quả cao.
Dưới tác động của các quy luật thị trường nền kinh tế luôn phát triển
theo hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật – cơng nghệ, nâng cao năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm.
3. Mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp

với nguyện vọng của nhân dân mong muốn một xã hội dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Sự tồn tại của kinh tế thị trường ở nước ta tạo ra một động lực quan
trọng cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội. Với đặc điểm lịch sử của dân tộc, Việt Nam khơng
thể lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chỉ có lựa chọn mơ
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới phù hợp với ý chí và
nguyện vọng của đông đảo nhân dân về một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.

12


Chương III. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1. Những thành tựu đạt được trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Có thể nói, trải qua 35 năm đổi mới, mơ hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng hồn thiện, trở thành đóng góp
lý luận cơ bản và sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội XIII,
Đảng ta nhận định: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp
tục được hồn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện
đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng
bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới” (2). “Thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo
hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập” (3). Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp
với yêu cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy
nền kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải
thiện rõ rệt. Nhờ vậy, sau 35 năm đổi mới, chúng ta đã giành được những

thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, trở thành nước có thu nhập trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế
khu vực và thế giới, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế.
Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới trở thành
quốc gia thu nhập trung bình thấp. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới
(1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% (4), thì
giai đoạn 1991 - 1995, tăng trưởng GDP bình quân đã đạt 8,2%/năm (5). Các
giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao, riêng giai đoạn 2016 - 2019
đạt mức bình quân 6,8(6). Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt
Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16
nền kinh tế mới nổi thành công nhất (7). Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi
phần lớn các nước có mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do
tác động của đại dịch COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng 2,91%,
góp phần làm cho GDP trong 5 năm (2016 - 2020) tăng trung bình 5,9%/năm,
thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới. Quy mô
13


nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD thì đến năm
2020 đã đạt khoảng 343 tỷ USD(8). Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả
về vật chất và tinh thần, năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt trên
3.500 USD. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ - tiêu dùng, tiết kiệm đầu tư, năng lượng, lương thực, lao động - việc làm… tiếp tục được bảo đảm,
góp phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mơ. Tính theo chuẩn nghèo
chung, tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% năm 1990 xuống còn dưới 6% năm
2018(9); hơn 45 triệu người thoát nghèo trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm
2018. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020 được xếp thứ
42/131 nước, đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập (10). Xếp hạng
về phát triển bền vững của Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49
năm 2020(11), cao hơn nhiều so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh
tế.
2. Những hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định

hướng XHCN ở Việt Nam
Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể là:
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc
vận hành của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự
thiếu đồng bộ, thiếu nhất qn và những bất cập trong q trình hồn thiện thể
chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để phát
triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa được xử
lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức
tiềm năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao
động thấp, khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển cịn dàn trải, lãng
phí, chưa công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo,
bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất
và tinh thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu,
vùng xa chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng
14


chung của nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức
có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ
nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo lý, tác
động xấu tới đời sống xã hội.
3. Giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu
quả mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn

nhân lực chất lượng cao. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thế chế phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập”(12).
“Tập trung ưu tiên hồn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt
hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập mơi trường đầu tư kinh
doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động,
quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai,
tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng
cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu
hiệu”.
Để hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế và phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần tập trung vào những nội dung sau:
Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội”. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, cơng bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát
triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước
15


ngồi được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật
chất quan trọng đế Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn
dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị

trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ
chế thị trường.
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị
quốc gia. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát
triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ
trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mơ hình kinh
doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở
phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân
quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân
và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành.
4. Liên hệ về vấn đề phát triển kinh tế tại quận Long Biên giai đoạn
2015-2020
Những thành tựu và nỗ lực đóng góp của quận Long Biên trong quá
trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Giai đoạn 2015-2020 quận Long Biên đạt nhiều kết quả quan trọng
trong lĩnh vực kinh tế. Tốc độ tăng bình quân hằng năm về giá trị sản xuất đạt
27,5%. Sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng mặc dù giảm về tỷ trọng
nhưng vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng giá trị bình qn hằng năm 16%. Giá trị
sản xuất nơng nghiệp bình quân tăng 80 triệu đồng/ha đất canh tác so với năm
2015, đạt gần 300 triệu đồng/ha. Thu ngân sách bình quân hằng năm đạt
7.468 tỷ đồng, tăng 95% so với nhiệm kỳ trước. Tổng mức bán lẻ đạt khoảng
23.086 tỷ đồng, bằng 101% kế hoạch. Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống
đạt 7.980 tỷ đồng, bằng 105% kế hoạch. Giá trị sản xuất công nghiệp và xây
dựng đạt 36.837 tỷ đồng, tương đương 107% kế hoạch. Toàn quận thành lập
mới được 1.540 doanh nghiệp. Về sản xuất nông nghiệp, quận đã chuyển đổi
16



cây trồng được 7,2ha; duy trì quản lý 115ha rau, quả theo quy trình VietGAP,
30ha rau an tồn. Giá trị sản xuất bình quân canh tác trên địa bàn đạt gần 300
triệu đồng/ha
Công tác quy hoạch đô thị và đầu tư hạ tầng tiếp tục tạo bước đột phá,
diện mạo đô thị khang trang, sạch đẹp. Quận đã huy động các nguồn lực trong
và ngoài ngân sách đầu tư 322 dự án với tổng kinh phí 36.384 tỷ đồng phát
triển hạ tầng đô thị. Triển khai bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng 164 dự
án, tổng diện tích 272,9ha, với số tiền hơn 3.900 tỷ đồng. Hằng năm, quận
luôn trong nhóm 3 đơn vị dẫn đầu khối quận, huyện, thị xã của thành phố về
chỉ số cải cách hành chính...
Văn hóa, xã hội phát triển mạnh và đồng bộ, hướng về cơ sở. Đầu tư
xây mới 34 trường học và cải tạo sửa chữa lớn 18 trường. Nâng tổng số
trường đạt chuẩn quốc gia lên 65/76 trường, đạt 85,5%. Cải tạo hệ thống chợ
dân sinh 14 phường; xây dựng 2 trạm biến áp 110kV và xây mới 201 trạm
biến áp khác... Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 0,83% xuống cịn 0,03%.
Trên cơ sở phân tích thuận lợi, khó khăn, thách thức đặt ra giai đoạn
tới, Ban Chấp hành Đảng bộ quận Long Biên xác định mục tiêu tổng quát đến
năm 2025 là: “Tiếp tục phát triển kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trọng
tâm là phát triển thương mại, dịch vụ. Chủ động trong công tác quy hoạch,
tiếp tục phát triển đô thị đồng bộ và hiện đại gắn với cải thiện, nâng cao chất
lượng môi trường sống cho người dân. Quan tâm đầu tư, phát triển văn hóa xã
hội tồn diện, hướng mạnh về cơ sở; thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối
với người có cơng, bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, tạo mơi
trường chính trị ổn định để phát triển”.
Cụ thể hóa mục tiêu trên, Đảng bộ quận đề ra 5 phương hướng, nhiệm
vụ trọng tâm; 12 nhóm chỉ tiêu và 2 khâu đột phá. Theo đó, đột phá thứ nhất
là củng cố, kiện tồn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả,
trọng tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp,

từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập. Đột phá thứ hai là tiếp tục hồn thiện hệ
thống hạ tầng đơ thị, trọng tâm đầu tư thoát nước; bảo đảm cảnh quan, môi
trường; nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
17


Long Biên cũng định hình 8 nhóm nhiệm vụ - giải pháp chủ yếu trong
giai đoạn 2020-2025. Theo đó, lấy phát triển kinh tế là trung tâm, quận sẽ chủ
động đề xuất cơ chế, có chính sách hỗ trợ nhằm phát triển nhanh các loại hình
dịch vụ; tiếp tục phát triển mạnh thương mại, chú trọng thương mại điện tử,
kinh tế số, dịch vụ chuyên chở, lưu giữ và cung cấp hàng hóa (logistics); ưu
tiên dịch vụ giáo dục, y tế, tài chính - ngân hàng, vui chơi giải trí, du lịch, ẩm
thực và lưu trú; phát triển công nghiệp khơng ơ nhiễm...
Cùng với đó, nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của
chính quyền các cấp gắn với tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là
thủ tục hành chính gắn với các mơ hình đang triển khai có hiệu quả, với mục
tiêu lấy người dân và doanh nghiệp là trung tâm phục vụ, nâng cao chỉ số hài
lòng của người dân và doanh nghiệp…

18


C. KẾT LUẬN
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn
hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của
thời đại. Việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là
hoàn tồn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử; địi hỏi chúng ta phải thường
xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận để nhận thức ngày càng đầy đủ, tôn
trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường,
phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm định hướng XHCN

của nền kinh tế.
Những năm tới, đất nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen
nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, nhưng cũng có cơ hội để tiến
lên. Đòi hỏi lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững hơn.
Nắm chắc các chủ trương và các giải pháp lớn của Đảng về hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, triển khai thực hiện có hiệu quả
trong thực tiễn, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được những thành tựu to lớn hơn
nữa trong công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển; tạo nền tảng để đến năm 2030 cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại, vì mục tiêu ‘‘dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng,
dân chủ, văn minh’’./.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình “Kinh tế chính trị Mác - Lê Nin- NXB lý luận chính trị

- Nghị quyết trung ương Nghị quyết Trung ương 5 về hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng XHCN
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2001, tr. 25
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 59-60
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 31
(4), (5) Võ Hồng Phúc: “Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới
(1986 - 2005)”, in trong sách: Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2006, tr. 141, 143
(6) />(7) />(8) “Kinh tế Việt Nam 2020: một năm tăng trưởng đầy bản lĩnh”,

http:/ww.gso.gov.vn
(9)Dẫn theo Ngân hàng thế giới tại Việt Nam
: />(10) />(11) />(12), (13), (14), (15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr.
37, 43, 53-54, 128, 223
(16) Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản số 966 (5-2021)
- Báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ quận Long Biên sơ kết 05 năm thực hiện
Nghị quyết số 05-NQ/TW (khóa XII)

20



×