BÀI TẬP LỚN
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài: Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân khơng
được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”.
Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
Hà Nội – 2021
1
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................3
B. NỘI DUNG PHÂN TÍCH..........................................................................................................3
1.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền con người:...........................................................3
2.
Độc lập dân tộc theo hướng chủ nghĩa xã hội là cơ sở cho hạnh phúc, tự do................5
a)
Độc lập dân tộc và cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội:........................................5
b) Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để bảo đảm nền đọc lập dân tộc vững chắc:.....................5
3.
Độc lập dân tộc gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân..........................................6
a)
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ sâu sắc giữa hạnh phúc, tự do và độc lập
dân tộc:.....................................................................................................................................7
b) Hồ Chí Minh đấu tranh cho quyền tự do, dân chủ của dân tộc Việt Nam:.......................7
4.
Ý nghĩa luận điểm Hồ Chí Minh với Việt Nam hiện nay................................................10
a)
Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc:..................................................11
b) Tiến hành đổi mới đất nước dựa trên định hướng xã hội chủ nghĩa:..............................12
c)
Một số thành tựu đạt được sau 30 năm đổi mới của Đảng theo định hướng XHCN:.....13
C. LỜI KẾT LUẬN.......................................................................................................................15
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................16
2
A. LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam là một nguồn cảm hứng cho phong trào
đấu tranh của nhân dân trên khắp thế giới, từ châu Á đến châu Phi, từ Trung Đông đến Mỹ Latin,
ngay trong lòng các đế quốc ở châu Âu, Bắc Mỹ, và là bằng chứng khẳng định thắng lợi của giai
cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Những người cộng sản Việt Nam dựa
trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lê-nin, các phân tích của Lê-nin về chủ nghĩa tư bản
và vấn đề dân tộc, rồi vận dụng nhằm phân tích tình hình Việt Nam để tìm ra quyết sách đúng
đắn... Trong đó vai trị của Hồ Chí Minh, người đặt nền móng cho cơng cuộc đấu tranh giải
phóng của dân tộc Việt Nam là khơng thể thiếu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã cống
hiến trọn cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Người ln mưu cầu cuộc sống tốt đẹp cho
mỗi người dân Việt Nam: quyền có cuộc sống ấm no, được học hành, được chăm sóc sức khỏe,
trẻ em được ni dưỡng; người già, người nghèo, người tàn tật được giúp đỡ. Sự nghiệp cách
mạng phong phú, sơi động của Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta nhiều “di sản” quý báu,
trong đó, những sáng tạo lý luận của Người về cách mạng giải phóng dân tộc là một dấu ấn nổi
bật, góp phần tạo nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời có giá trị thời
đại thấm thía.
Trong đó có một luận điểm sâu sắc cịn được lưu truyền đến tận bây giờ, đó là: “Nếu
nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Đó
là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích từ trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng” đăng trên Báo Cứu quốc, số ra ngày 17/10/1945. Thông qua bài tiểu luận này,
chúng ta sẽ cùng phân tích luận điểm ấy của Bác cũng như ý nghĩa, sức ảnh hưởng của câu nói
đến tình hình Việt Nam ngày nay.
B. NỘI DUNG PHÂN TÍCH
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền con người:
Quyền con người là một giá trị phổ quát và là vấn đề có tính lịch sử dài lâu cả về phương
diện thực tiễn cũng như lý luận. Do cách tiếp cận đa dạng, vấn đề quyền con người thường có
những nhận thức khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Hồ Chí Minh tiếp cận vấn đề quyền con
3
người xuất phát từ truyền thống dân tộc Việt Nam và từ bối cảnh thực tiễn cụ thể của đất nước,
đồng thời kế thừa có chọn lọc những nội dung hợp lý của tư tưởng nhân quyền hiện đại.
Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con người. Người đã tìm hiểu và tiếp nhận những
nhân tố về quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ, Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của Cách mạng Pháp, như quyền bình đẳng, quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Người khẳng định: “Đó là những lẽ phải
khơng ai chối cãi được”.
Trên cơ sở đó, Người đã đưa ra những luận điểm mới, sâu sắc và toàn diện về quyền con
người, phù hợp với đặc điểm của tình hình cụ thể ở Việt Nam. Hồ Chí Minh quan niệm quyền
của mỗi người gắn chặt và không tách rời với quyền của dân tộc, do đó Người đã đấu tranh địi
quyền con người cho cả dân tộc, quyền tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc. Khơng dừng lại ở đó,
Người đã đòi quyền cho tất cả các dân tộc đang bị áp bức bóc lột trên thế giới. Đây là sự phát
triển, khái quát cao, đem lại những nội dung mới về quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong đó, Người khẳng định một chân lý của thời đại mới đó là: “Tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”.
Hồ Chí Minh khơng chỉ đấu tranh địi quyền cho con người, mà Người cịn nhấn mạnh
tới quyền làm người. Bởi vì, quyền con người không chỉ cần ăn, mặc, ở, đi lại để tồn tại mà còn
vươn lên trên cái tồn tại để hồn thiện và phát triển bản thân. Đó chính là quyền học tập, sáng
tạo, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự do, quyền dân sự, quyền về chính trị, kinh tế - văn hóa
xã hội, cũng như quyền của các nhóm người đặc biệt trong xã hội như: quyền các dân tộc thiểu
số, quyền phụ nữ, quyền của trẻ em, quyền của nhóm người có hồn cảnh đặc biệt, khó khăn cần
được xã hội quan tâm, tạo điều kiện, giúp đỡ để họ hòa nhập với cộng đồng xã hội.
Như vậy, từ những quyền cơ bản của con người được mở rộng thành quyền dân tộc và gắn
chặt với độc lập dân tộc, quyền tự quyết dân tộc là một cống hiến lý luận của Hồ Chí Minh vào
kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại. Theo Người, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền
với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên
thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Và độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân
lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
4
sản. Và để hiểu rõ hơn điều này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ý nghĩa của cách mạng vơ sản đối với
nền độc lập ở phần tiếp theo.
2. Độc lập dân tộc theo hướng chủ nghĩa xã hội là cơ sở cho hạnh phúc, tự do
a) Độc lập dân tộc và cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội:
Vận dụng một cách sáng tạo lý luận cách mạng không ngừng cả chủ nghĩa Mác- Lenin
trong điều kiện của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng chiến lược
của cách mạng ta là: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Như vậy, giải phóng dân tộc, giành lại độc lập sẽ là mục tiêu đầu tiêu của cách mạng,
là cơ sở, tiền đề cho mục tiêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho con đường cứu nước giải phóng dân tộc của
Hồ Chí Minh khác biệt về chất với con đường cứu nước những năm đầu thế kỷ ở nước ta và
nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới. “Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc” là dòng tiêu ngữ của nước
ta suốt 70 năm qua, tuy đơn giản nhưng đó là “ham muốn tột bậc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và
trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam thì trước hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc,
tuy vậy, nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và sẽ
chẳng có nghĩa lý gì. Vì thế, hạnh phúc tự do là thước đo giá trị của độc lập dân tộc. Người cũng
nhấn mạnh, chỉ có trong chế độ XHCN thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống
riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của minh, có điều kiện phát triển
tồn diện. Khi Hồ Chí Minh xác định giành độc lập theo con đường cách mạng vô sản, tức là đã
khẳng định độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội.
b) Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để bảo đảm nền đọc lập dân tộc vững chắc:
5
Chủ nghĩa xã hội là xu thế tất yếu của thời đại và phù hợp với lợi ích của nhân dân Việt
Nam. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải mang tính định hướng xã hội chủ
nghĩa thì mới giành được thắng lợi hồn tồn và triệt để. Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh
cịn là một xã hội tốt đẹp, khơng cịn chế độ áp bức bóc lột. Đó là một xã hội bình đẳng. công
bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, đảm bảo phúc
lợi xã hội cho người già, trẻ em và những người cịn khó khăn trong cuộc sống; mọi người đều
có điều kiện để phát triển như nhau. Đó cịn là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao gắn liền
với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, là
một xã hội có sự phát triển cao đạo đức và văn hóa…, hịa bình hữu nghị, làm bạn với tất cả các
nước dân chủ trên thế giới.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng cơ sở cho phát triển
của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Với một chế độ xã hội như trên, chủ nghĩa xã hội sẽ có khả
năng làm cho đất nước phát triển mạnh mẽ, sẽ tạo nền tảng vững chắc để bảo vệ nền độc lập dân
tộc và hơn thế nữa, sẽ là một tấm gương cho các quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia mới
giành được độc lập dân tộc đang định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội hiện thực cũng
sẽ góp phần hạn chế những cuộc chiến tranh phi nghĩa, bảo vệ được nền hịa bình trên thế giới,
độc lập dân tộc sẽ được giữ vững.
Người khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người chủ duy nhất. Đó là
sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế
độ do nhân dân làm chủ, dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh,
dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, phải được thể chế hố bằng
pháp luật, được hồn thiện, nâng cao trong q trình phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân
trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết định vận mệnh của dân tộc, tạo ra sức đề kháng trên phạm
vi xã hội, loại trừ và có khả năng chống trả bất kỳ một hành động nào đe dọa độc lập, tự do của
dân tộc. Thực hiện được một xã hội như vậy thì độc lập dân tộc mới thực sự vững chắc, sự
nghiệp giải phóng dân tộc mới thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để.
3. Độc lập dân tộc gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Quyền con người nói chung và sự độc lập, tự do nói riêng là khát vọng lớn nhất của các
dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất
cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những gì tơi hiểu”. – Trích “Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ tịch”. Với Người, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc
6
và dân chủ; độc lập phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và hơn thế nữa,
độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, cơm no áo cho nhân dân lao động.
a) Tư tưởng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ sâu sắc giữa hạnh phúc, tự do và độc lập
dân tộc:
Người đánh giá cao học thuyết “Tam Dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do: dân tộc
độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Và bằng lý lẽ để thuyết phục, trong khi viện dẫn
bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 “Người ta sinh ra tự
do và bình đẳng về quyền lợi, và phải ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi”, Hồ Chí Minh
khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Người cũng đã xác định rõ ràng mục tiêu của đấu tranh
cách mạng là: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập... dân chúng được tự do... thủ tiêu
hết các thứ quốc trái... thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày
nghèo...thi hành luật ngày làm 8 giờ”. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, nước
nhà được độc lập và một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Đó cũng là
ý nghĩa mà Người gửi gắm qua câu nói: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì
độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”.
Hơn nữa, độc lập phải gần tới hạnh phúc của nhân dân. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 trong hồn cảnh nhân dân đói rét, mù chữ,... Hồ Chí Minh yêu cầu:
“Chúng ta phải…
Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành”.
Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, Người ln
coi độc lập gắn liền với tự do. hạnh phúc của nhân dân, như Người từng bộc bạch đầy tâm
huyết: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
b) Hồ Chí Minh đấu tranh cho quyền tự do, dân chủ của dân tộc Việt Nam:
Trong mọi hoàn cảnh lịch sử, kể cả tình thế cách mạng khó khăn, thách thức như “ngàn cân treo
sợi tóc”, việc bảo đảm cuộc sống nhân dân vẫn luôn là một nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Năm
7
1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc
tự quyết đã được các đồng minh
thắng trận trong Chiến tranh thế
giới thứ nhất long trọng thừa nhận,
thay mặt những người Việt Nam
yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi tới
Hội Nghị Véc-xây bản Yêu sách
gồm 8 điểm, đòi các quyền tự do,
dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Đầu năm 1930, Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng, một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, có tư tưởng cốt
lõi là độc lập, tự do cho dân tộc.
Tháng 5 năm 1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn
hết thảy”. Người chỉ đạo thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo
Mười chính sách của Việt Minh, trong đó có mục đầu tiên là: “Cờ treo độc lập, nền xây bình
quyền”. Tháng 08/1945, Hồ Chí Minh đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân ta
tỏng câu nói bất hủ: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập!”.
Cách mạng Tháng Tám thành cơng, Người thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn
độc lập, long trọng khẳng định Trước tồn thế giới:
“Nước Việt Nam có quyền tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập.
Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do và độc lập ấy”.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thực sự, hồn
tồn, gắn với hịa bình, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ của đất nước. Và trong lời tuyên bố với
quốc dân ngày 23/10/1946, Hồ Chí Minh nói: "Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào
còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên. Tôi trân trọng hứa với đồng bào
rằng; Với quyết tâm của đồng bào, với quyết tâm của toàn thể nhân dân, Nam Bộ nhất định trở
lại cùng thân ái chung trong lòng Tổ quốc". Người cũng nêu lên những việc phải làm ngay để tạo
8
khơng khí hịa bình, và xây đắp con đường dân chủ để đi tới sự nghiệp Việt Nam thống nhất của
chúng ta. Ðối với Người, độc lập dân tộc không tách rời với thống nhất Tổ quốc và độc lập,
thống nhất Tổ quốc, gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ. Thể hiện quyết tâm bảo vệ độc
lập và chủ quyền dân tộc, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi vang dội núi sông: “Không! Chúng ta thà
hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Khi Đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh, ồ ạt đổ quân viễn chinh và phương tiện
chiến tranh hiện đại vào miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc với quy
mô và cường độ ngày càng ác liệt, Hồ Chí Minh nêu cao chân lý lớn nhất của thời đại: “ Khơng
có gì q hơn độc lập, tự do”. Độc lập dân tộc, cuối cùng, phải đem lại cơm no, áo ấm và hạnh
phúc cho mọi người dân.
Khi đó công cuộc xây dựng đất nước, chăm lo cuộc sống cho nhân dân thật vơ cùng khó
khăn và đầy thách thức, bởi đất nước vừa thoát thoát khỏi ách thực dân phát xít, bị bóc lột kiệt
quệ sức người, vơ vét cạn kiệt tài nguyên, vật lực để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc. Trong
bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định từng cơng việc cụ thể, từng bước đi thích hợp; đã
đưa ra mục tiêu phấn đấu để nhân dân thoát nạn bần cùng, mọi người có việc làm, đời sống ấm
no và hạnh phúc.
Người đã viết thư gửi đồng bào toàn quốc kêu gọi ra sức cứu đói, chống nạn đói, “coi cuộc
chống nạn đói cũng như cuộc chống ngoại xâm”. Người đặc biệt quan tâm đẩy mạnh phong trào
tăng gia sản xuất và tiết kiệm để chống đói. Người đề nghị Hội đồng Chính phủ phát động một
chiến dịch tăng gia sản xuất và mở cuộc lạc qun cứu đói. Trong Thư gửi nơng gia Việt Nam,
Người khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa...
Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”. Trong lúc tăng gia sản xuất
chưa đến ngày thu hoạch, công việc khẩn cấp là phát huy truyền thống tương thân tương ái, đùm
bọc nhau. Người khởi xướng phong trào “Hũ gạo cứu đói” và gương mẫu thực hiện. Với niềm
đồng cảm sâu sắc cùng đồng bào, Người khơi dậy truyền thống nhân văn, tương thân tương ái
của dân tộc, động viên mọi người tham gia chống giặc đói: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn,
nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta khơng khỏi động lịng. Vậy tơi đề nghị với đồng bào cả nước và tôi
xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó để cứu
dân nghèo”. Phong trào được thực hiện sâu rộng, chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân cả nước
đã quyên góp được một lượng lớn gạo cứu đói và nạn đói đã sớm được khắc phục.
9
Trong 30 năm trường chinh kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đầy gian khổ và hy
sinh, thắng lợi của trận Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp (19451954) và thắng lợi của cuộc Tổng tiến công Mùa xuân 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước (1954-1975). Miền Nam đã được giải phóng, hai miền Nam Bắc đã “sum họp một
nhà”, cả nước hịa bình, độc lập, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, những nỗ lực của nhân dân Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ
quốc trải dài mấy thập niên cũng chính là để bảo đảm cho mọi người dân Việt Nam được thụ
hưởng đầy đủ nhất quyền con người; trong đó, có quyền được sống trong hịa bình, độc lập, tự do
và quyền tự quyết của dân tộc - được quyết định vận mệnh, con đường phát triển của mình.
Đến khi cuối đời, Hồ Chí Minh vẫn luôn trăn trở cho đời sống ấm no, hạnh phúc của nhân
dân của toàn dân. Người nhận thức những khó khăn thách thức trước mắt trong cuộc sống của
nhân dân và luôn đặt niềm tin mạnh mẽ vào sức mạnh đồn kết của nhân dân trong cơng cuộc
xây dựng đời sống mới ấm no, hạnh phúc. Người căn dặn trong Di chúc: “Nhân dân lao động ta
ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực
dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng
cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với
Đảng. Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm khơng ngừng nâng
cao đời sống của nhân dân”.
4. Ý nghĩa luận điểm Hồ Chí Minh với Việt Nam hiện nay
Như vậy, qua việc phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, ta có thể thấy luận
điểm: “Nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa
lý gì” của Bác là vơ cùng đúng đắn và sâu sắc. Bởi đối với Người, giành độc lập dân tộc và đem
lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân là hai mục tiêu cốt lõi của cách mạng Việt Nam;
độc lập dân tộc và ấm no, hạnh phúc cho nhân dân là hai nội dung xuyên suốt, bao trùm và quan
hệ khăng khít và biện chứng.
Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chăm lo đời sống nhân dân là một trong những
mục tiêu then chốt của cách mạng; cụ thể hóa đầy sáng tạo thành đường lối, chủ trương, chính
sách và từng bước được hiện thực hóa thành cơng, thể hiện sinh động trong thành tựu đạt được ở
từng chặng đường lịch sử cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta trong suốt chặng đường lịch sử từ
10
năm 1930 đến nay. Và cho đến thế hệ hiện tại, vấn đề về đời sống ấm no, hạnh phúc của nhân
dân vẫn luôn là một trong những mục tiêu phấn đấu của Đảng, Nhà nước Việt Nam.
a) Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc:
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - đại hội thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội đã khẳng định: "Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến
lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua đã khẳng định trong thời kỳ đổi mới: "Toàn Đảng, toàn
dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hơm nay và thế hệ mai sau”.
Chiến tranh lạnh trên thế giới kết thúc, hồ bình, hợp tác phát triển là xu thế chung, nhưng
cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp, gay gắt. Nguy cơ xung đột vũ trang và
chiến tranh cục bộ vẫn chưa bị loại trừ; mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ
nổ ra ở nhiều nơi và gây mất ổn định nhiều khu vực. Chủ nghĩa đế quốc đang lợi dụng ưu thế về
kinh tế và kỹ thuật, nhân danh chống khủng bố, để thực hiện chiến lược “diễn biến hồ bình” can
thiệp vào cơng việc nội bộ các nước, buộc các nước xã hội chủ nghĩa, các nước đang phát triển đi
vào quỹ đạo của chúng. Trong bối cảnh hiện nay, quan niệm về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội phải được chú ý toàn diện từ độc lập về lãnh thổ, về chủ quyền an ninh quốc gia đến độc lập,
tự do về kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống và đạo đức xã hội. Không thể giữ vững độc lập tự
chủ nếu lối sống, đạo đức xã hội bị suy thoái, văn hoá dân tộc bị coi rẻ hoặc bị biến dạng.
-
Trong 10 năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước (Đại hội VI, VII), Đảng đã hoạch định
và thực hiện đường lối đổi mới chính trị - quốc phịng như:
● Ban hành Hiến pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản
pháp luật quan trọng, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
● Vai trò lãnh đạo và hiệu lực quản lý của nhà nước từng bước được nâng cao; Quyền làm
chủ của nhân dân được tăng cường.
● Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống lực lượng vũ trang được đáp
ứng tốt hơn. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội được tăng cường.
-
Phát triển quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống
11
cộng đồng quốc tế:
● Thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào, Campuchia. Thiết lập quan hệ
ngoại giao với Uỷ ban Châu Âu.
● Tháng 11-1991, Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ; Tháng 7-1995, Việt
Nam và Hoa Kỳ đặt quan hệ ngoại giao; Việt Nam gia nhập ASEAN.
● Tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản và công nhân, các
phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến bộ trên thế giới. Phát triển
quan hệ với các tổ chức phi chính phủ trên thế giới.
Điều này giúp cho đất nước giữ vững ổn định chính trị, quốc phịng, an ninh được củng cố,
mở rộng quan hệ ngoại giao. Và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác định
rõ ràng hơn. Ðại hội VI (1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện, được coi là Ðại hội mở đầu
thời kỳ đổi mới. Ðại hội VII (1991) là Ðại hội của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
b) Tiến hành đổi mới đất nước dựa trên định hướng xã hội chủ nghĩa:
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì thực hiện những căn dặn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”, chính thể chế nhà nước cùng những quyền lợi và nghĩa vụ công dân
được quy định trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 đã cho thấy, trong điều kiện cụ thể của
đất nước, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nỗ lực thực thi quyền con người theo quy
định của pháp luật. Sau thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xn 1975, nước nhà hịa
bình, độc lập và thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân cả nước lại tiếp tục đồn kết,
đồng lịng dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng vượt qua khó khăn về mọi mặt sau những năm dài
chiến tranh, tiến hành khôi phục và phát triển kinh tế, thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập
quốc tế. Trong hịa bình, mỗi người dân trên đất nước Việt Nam đều cảm nhận được sâu sắc hơn
giá trị của độc lập, tự do, của niềm vui được sống trong Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Hơn 90 năm sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, hơn 75 năm sau ngày Chủ tịch Hồ
Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập, sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và 35 năm
kiên trì thực hiện đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, những thành tựu trên các lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng,v.v.. đã góp phần tạo dựng một diện mạo mới của Việt
Nam, một vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, văn hóa, xã hội
có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện đáng kể, bộ
12
mặt của đất nước và cuộc sống của người dân có những thay đổi. Trên hành trình đó, Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã không ngừng nỗ lực để mỗi người dân được thụ hưởng đầy đủ các quyền
cơ bản của con người, quyền công dân, quyền dân chủ của nhân dân; đồng thời coi trọng thúc
đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng và hiểu biết giữa
các quốc gia, trong đó, có việc thực hiện tốt các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt
Nam là thành viên.
Chủ trương, đường lối của Đảng qua các kì đại hội, chiến lược, chương trình, dự án phát
triển kinh tế - xã hội của Chính phủ đều được xây dựng trên cơ sở lấy người dân làm trung tâm,
hướng về người dân và phục vụ người dân đã mang lại những kết quả tích cực trong việc bảo
đảm quyền con người, từ quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đến quyền dân sự, chính trị, quyền của
các nhóm dễ bị tổn thương… Những đóng góp và nỗ lực đầy trách nhiệm của một dân tộc yêu
chuộng độc lập, tự do, hòa bình và cơng lý trên nhiều lĩnh vực, khơng chỉ trong khu vực mà còn
trong cộng đồng quốc tế theo quan điểm "bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cở
sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển… là bạn, là đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế"; trong cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; trong tạo dựng mơi trường hịa bình, ổn định để xây dựng và phát
triển bền vững đất nước. Mỗi kỳ đại hội, Đảng sẽ xây dựng Kế hoạch 5 năm và đặt ra các chỉ tiêu
cụ thể cho kinh tế - xã hội dựa theo tình hình phát trưởng của đất nước, từ đó đưa ra các chủ
trương phù hợp để nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao vị thế của Việt Nam trong thị trường
quốc tế.
c) Một số thành tựu đạt được sau 30 năm đổi mới của Đảng theo định hướng XHCN:
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng, đánh dấu sự trưởng thành về mọi
mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc.
Về kinh tế:
13
Đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát triển. Kinh tế
tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát
triển.
-
Thời kỳ 2001-2005 đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm là 7,5% và hai năm 2006-2010
tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 7%/năm; trong 10 năm 2001-2010 tăng trưởng 7,26% /năm, đạt
mục tiêu chiến lược đã đề ra. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh so với các nước trong khu vực và thế giới, trở thành nước đang phát triển có thu nhập
trung bình trên thế giới.
Năm
2010,
GDP đạt
101,6 tỷ USD, gấp 3,26
lần so với năm 2000
(31,2
tỷ
USD).
Năm
2008, GDP bình quân đầu
người theo giá trị thực tế
đã đạt 1.047 USD, năm
2010 đạt 1.168 USD, gấp
khoảng 3 lần so với năm
2000.
Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2007-2008 đạt 0,733, xếp hạng 100/177
quốc gia và lãnh thổ, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới. Nước ta đã ra khỏi nhóm nước có
thu nhập thấp.
Về chính trị:
● Chính trị-xã hội ổn định; quốc phịng, an ninh được tăng cường.
● Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố và tăng cường.
● Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế được nâng cao.
Về văn hóa - xã hội:
14
Văn hoá, xã hội đạt được những thành tựu quan trọng, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được nâng lên, một số mặt đạt trình độ của các nước phát triển trung bình.
● Chỉ số phát triển con người tăng lên, từ 0,683 năm 2000 lên 0,733 năm 2008, xếp thứ
100/177 nước tham gia xếp hạng.
● Thu nhập thực tế sau 10 năm gấp 3,5 lần so với năm 2000. Chênh lệch thu nhập giữa
thành thị và nơng thơn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống cịn 2,09 lần năm 2004 và 2 lần
năm 2008. Xây dựng nơng thơn mới có nhiều tiến bộ.
● Đã hồn thành phần lớn mục tiêu Thiên niên kỷ do Liên Hợp quốc đề ra cho năm 2015.
● Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được
đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ
nghĩa.
C. LỜI KẾT LUẬN
Có thể nói, sự nghiệp 30 năm đổi mới của dân tộc ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử trên là do Nhà nước và nhân dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cùng với
sự nỗ lực, phấn đấu không ngừng nghỉ của các tầng lớp nhân dân. Tuy rằng cịn nhiều hạn chế, có
tác động mạnh mẽ của rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan; thách thức rất lớn, nhưng cũng
rất nhiều thời cơ, vận hội mới mở ra cho chúng ta. Trên cơ sở quan niệm đúng đắn của Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lại có kinh nghiệm thực tiễn hơn 70 năm qua, đặc
biệt là thực tiễn hơn 30 năm đổi mới, cho phép chúng ta hiểu được thực chất con đường độc lập
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh hiện nay. Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã
hội là nhu cầu sống còn, là sự lựa chọn duy nhất đúng của Việt Nam. Những thành tựu trên đã
tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những
năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
15
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – NXB Chính trị quốc gia sự thật – Năm 2019.
2. Tạp chí tổ chức Nhà nước - Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc và giá trị thời đại.
3. Cổng thơng tin điện tử Sở Tư pháp Thanh Hóa - Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và
việc hoàn thiện pháp luật về quyền con người tại Việt Nam hiện nay.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người.
16