Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Quan điểm hồ chí minh về mặt trận dân tộc thống nhất và sự vận dụng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.14 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ

TIỂU LUẬN
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài: Quan điểm Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống
nhất và sự vận dụng trong giai đoạn hiện nay.

Sinh viên: Trần Văn Hà
Mã sinh viên: 19020912
Lớp tín chỉ: POL1001_40

HÀ NỘI - 2021

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Cơ sở lý luân và phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6. Kết cấu của tiểu luận

NỘI DUNG
Chương 1:
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm


1.1.2. Khái quát TTHCM về vấn đề Mặt trận dân tộc thống nhất
1.2. Phân tích tthcm về Mặt trận dân tộc thống nhất
1.2.1
1.2.2

Chương 2:
2.1. Cơ sở khách quan của chính sách đoàn kết dân tộc và xây dựng Mặt trận
dân tộc thống nhất trong giai đoạn cách mạng hiện nay
2.2 Mặt trận dân tộc thống nhất trong hệ thống chính trị - xã hội của nước ta
hiện nay.
2.3. Nhiệm vụ của Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn hiện nay

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Mặt trận Dân tộc thống nhất và ln
ln chăm lo, xây đắp khối đại đồn kết tồn dân tộc, góp phần to lớn vào
những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người về Mặt trận Dân
tộc thống nhất là nền tảng tư tưởng định hướng việc xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu chiến lược của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Có thể nói Mặt trận Dân tộc thống
nhất là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Vì vậy nên em đã chọn chủ đề “Quan điểm Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc
thống nhất và sự vận dụng trong giai đoạn hiện nay” để phân tích và hiểu rõ hơn
tầm quan trọng và ý nghĩa của Mặt Trận thống nhất.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Mặt trận Dân tộc
Thống nhất, về bản chất cũng như những nguyên tắc xây dựng và hoạt động của
tổ chức Mặt trận Dân tộc Thống nhất.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài đi vào các vấn đề
sau đây:
Tính tất yếu phải xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất
Những quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất
Nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống
nhất
Những kinh nghiệm trong xây dựng khối đại đồn kết dân tộc
Các hình thức của Mặt trận dân tộc thống nhất qua các thời kỳ
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là Mặt trận dân tộc thống nhất và tư tưởng của Hồ Chí
Minh về Mặt trân dân tộc thống nhất từ năm 1930 với tên gọi khác là Hội Phản
đế đồng minh cho đến thời điểm hiện tại.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Học tập, nghiên cứu chủ đề trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa
học chủ nghĩa Mác - Lênin và bản thân các quan điểm có giá trị phương pháp
luận của Hồ Chí Minh.
3


Phải đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác Lênin để xem xét mọi vấn
đề liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Thống nhất giữa tính Đảng vơ sản và tính khoa học.
- Phải kết hợp phương pháp lịch sử, phương pháp lơgíc
- Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở nắm vững phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng nguyên lý
kế thừa và phát triển sáng tạo.

- Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái qt và mơ tả,
phân tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành khoa học xã hội và
nhân văn.
- Học tập phương pháp của Hồ Chí Minh: gắn lý luận với thực tiễn trong
quá trình cách mạng Việt Nam; lý trí cách mạng với tình cảm cao đẹp.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đề tài “Quan điểm Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất và sự vận
dụng trong giai đoạn hiện nay” cho chúng ta cái nhìn tổng thể và sâu sắc hơn
về sự đóng góp quan trọng của Mặt trận trong sự nghiệp đấu tranh giành độc
lập dân tộc, cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ xưa đến nay.
Quá trình phát triển của cách mạng, tuy phải trải qua những bước thăng
trầm, song quan điểm đó ln ln nhất qn. Từ Hội Phản đế Đồng minh, Mặt
trận Dân chủ Đông Dương, Mặt trận Phản đế Đông Dương, Mặt trận thống nhất
chống phát xít đến Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên việt, Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hồ
bình Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... tất cả những thử nghiệm về lý
luận và thực tiễn các phong trào Mặt trận đã đi đến khẳng định những quan
điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam.
6. Kết cấu của tiểu luận
Gồm 2 chương
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề Mặt trận dân tộc thống nhất
1.2. Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất

Chương 2: Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn hiện nay
4



2.1. Cơ sở khách quan của chính sách đồn kết dân tộc và xây dựng Mặt trận
dân tộc thống nhất trong giai đoạn cách mạng hiện nay
2.2 Mặt trận dân tộc thống nhất trong hệ thống chính trị - xã hội của nước ta
hiện nay.
2.3. Nhiệm vụ của Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn hiện nay

NỘI DUNG
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái niệm

Theo Hồ Chí Minh, dân tộc hay quần chúng nhân dân khi chưa được tổ chức và
giác ngộ về lợi ích, mục tiêu, lý tưởg thì chỉ là số đơng chưa có sức mạnh nhưng
khi đươc tổ chức giác ngộ và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn
sẽ trở thành sức mạnh vô địch. Quy tụ quần chúng nhân dân vào một tổ chức
yêu nước phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng là sự
quan tâm ngay từ đầu của Hồ Chí Minh và là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta.
Tổ chức thể hiện sức mạnh vât chất của khối đại đoàn kết dân tộc chúnh là Mặt
trận dân tộc thống nhất. Mặt trận có thể có tên gọi khác nhau nhưng tựu trung
lại chỉ là một tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp,
dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và các nhân tố u nước ở trong và
ngồi nước, phấn dấu vì mục tiêu độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do,
hạnh phúc của nhân dân.
1.1.2 Khái quát TTHCM về vấn đề Mặt trận dân tộc thống nhất

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh khi
được tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, đó là Mặt trận dân tộc
thống nhất. Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân
yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt, cả trong nước và kiều bào sinh
sống ở nước ngồi. Hồ Chí Minh rất chú trọng đến việc tập hợp quần chúng

nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp như các hội ái hữu hay tương
trợ, cơng hội hay nơng hội, đồn thanh niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi

5


đồng hay phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo u nước hay những
nghiệp đồn… trong đó bao trùm là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Do yêu cầu và nhiệm vụ của từng chặng đường lịch sử, Mặt trận dân tộc thống
nhất đã có những tên gọi khác nhau: Hội Phản đế đồng minh (năm 1930); Mặt
trận Dân chủ Đông Dương (năm 1936); Mặt trận Nhân dân phản đế Đông
Dương (1939); Mặt trận Việt Minh (năm 1941); Mặt trận Liên Việt (năm 1951);
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (năm 1960); Liên minh các
lực lượng dân tộc, dân chủ và hịa bình Việt Nam (năm 1968); Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (các năm 1955, 1976)…Tuy nhiên, dù có nhiều tên gọi khác nhau
nhưng thực chất chỉ là một, là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp đông
đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức, cá nhân u
nước ở trong và ngồi nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất
của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
1.2.

Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất

1.2.1 Tính tất yếu xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất
Trước Hồ Chí Minh, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin chưa đề cập
đến vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Do đặc điểm của thời đại mình, C. Mác và
Ăngghen mới chỉ kêu gọi đồn kết giai cấp vơ sản tồn thế giới và thực hiện
liên minh công nông trong đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa. Tới
V.I.Lênin, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc,
ách áp bức giai cấp và dân tộc đã diễn ra trên phạm vi tồn cầu, tư tưởng liên

minh cơng nơng của C.Mác được V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản mở rộng ra
trên quy mơ tồn thế giới với khẩu hiệu nổi tiếng: “Vô sản tất cả các nước và
các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Song, do chưa đánh giá đầy đủ vấn đề dân
tộc, tư tưởng về đoàn kết dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn chưa
được V.I. Lênin và Quốc tế Cộng sản đặt ra.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh tính bức thiết cần phải có
một Mặt trận dân tộc thống nhất để lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ
khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức
mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy khắp mọi miền đất nước, thu hút
đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại
phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, các phong trào
Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa,
mặc dù đã diễn ra vô cùng anh dũng, với tinh thần “người trước ngã, người sau
6


đứng dậy”, nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Như vậy,
tồn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vơ địch trong đấu tranh
bảo vệ và xây dựng Tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững
chắc, được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung và hoạt động theo một đường
lối chính trị đúng đắn. Nếu khơng được như vậy thì quần chúng nhân dân dù có
đơng tới hàng triệu, hàng trăm triệu con người cũng chỉ là một số đơng khơng
có sức mạnh.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một dân tộc có truyền thống đấu tranh kiên
cường vì độc lập, tự chủ nên đã nhìn thấy sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc,
nguồn động lực to lớn của nhân dân Việt Nam trong dựng nước và giữ nước.
Nhưng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc khơng chỉ dừng lại ở
quan niệm, ở những lời kêu gọi, hiệu triệu mà phải trở thành một chiến lược
cách mạng, phải trở thành khẩu hiệu hành động của tồn Đảng, tồn dân tộc.
Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức.

Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước,
nơi tập hợp mọi con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả
những người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Dù ở bất cứ phương trời nào nếu
tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, vể Tổ quốc Việt Nam, đều được
coi là thành viên của Mặt trận.
1.2.2 Những quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống
nhất
a. Dựng nước và giữ nước là sự nghiệp của toàn dân

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc Thống nhất bắt nguồn từ quan
điểm nhất quán của Người về vai trò quyết định của quần chúng trong lịch sử,
coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng chỉ có thể hồn thành sứ
mệnh lịch sử của mình nếu biết tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong
Mặt trận Dân tộc Thống nhất rộng rãi chống kẻ thù chung và xây dựng đất
nước.
Trong tác phẩm "Đường kách mệnh", đồng chí Nguyễn ái Quốc đã nói:
Kách mệnh là việc chung của dân chúng, chứ không phải là việc của một hai
người. Trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", Mác và Ǎngghen chỉ rõ: "...
Những người cộng sản phấn đấu cho sự đoàn kết và liên hợp của các đảng dân
chủ ở tất cả các nước". Lênin còn cho rằng chỉ một mình giai cấp vơ sản tiến
7


hành cuộc đấu tranh một cách đơn độc "thì đó khơng những là một điều dại dột,
mà cịn là một tội ác nữa" ...
Quan điểm cơ bản trên đã được thể hiện trong thực tiễn đấu tranh giành và
giữ chính quyền trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay. Mặt trận dân tộc thống nhất là sự thực hiện bằng tổ chức việc tập
hợp và phát huy sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp chung: giải phóng dân tộc

và xây dựng đất nước. Từ ngày thành lập, Đảng ta đã coi Mặt trận dân tộc
thống nhất là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, và đã phê phán mọi biểu hiện coi
nhẹ công tác mặt trận, hạ thấp vai trò của quần chúng, coi thường nhân tố dân
tộc trong cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: cơng tác mặt trận là một
cơng tác rất quan trọng trong tồn bộ cơng tác cách mạng.
Quá trình phát triển của cách mạng, tuy phải trải qua những bước thăng
trầm, song quan điểm đó ln luôn nhất quán. Từ Hội Phản đế Đồng minh, Mặt
trận Dân chủ Đông Dương, Mặt trận Phản đế Đông Dương, Mặt trận thống nhất
chống phát xít đến Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên việt, Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hồ
bình Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... tất cả những thử nghiệm về lý
luận và thực tiễn các phong trào Mặt trận đã đi đến khẳng định những quan
điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam.
Để hình thành được mặt trận, tập hợp được hết thảy các lực lượng cách
mạng và tiến bộ trong mỗi thời kỳ cách mạng, thực hiên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng đã đề ra những chủ trương, chính sách thích hợp nhằm đoàn kết
toàn dân, phấn đấu cho một mục tiêu nhất định xem đó là chương trình hành
động thống nhất của tất cả các giai cấp, các đảng phái, các lực lượng tham gia
Mặt trận dân tộc thống nhất. Thể hiện tính chất quần chúng rộng rãi trong cơng
tác mặt trận, Đảng còn linh hoạt trong việc lựa chọn các hình thức và tên gọi
của mặt trận, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể và mục tiêu, nhiệm vụ từng thời kỳ
cách mạng.
b. Đoàn kết dân tộc - nguồn sức mạnh của cách mạng

Một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam
chính là xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công
nông.
Dân tộc ta đã phải trải qua bốn nghìn nǎm lịch sử dựng nước và giữ nước.
Quá trình lịch sử ấy đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, bất khuất
của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Sự đồng tâm của đồng bào

ta đúc thành bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt
đến mức nào, đụng đầu nhằm vào bức tường đó, chúng cũng phải thất bại".
8


Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám khoá I (tháng 5-1941), dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của đồng chí Hồ Chí Minh đã chủ trương tạm gác khẩu hiệu tịch
thu ruộng đất của địa chủ, thành lập Mặt trận Việt Minh để mở rộng khối đoàn
kết dân tộc, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào nhiệm vụ chống đế quốc, giành
độc lập dân tộc. Dưới ngọn cờ đại đoàn kết của Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta
đã dấy lên một cao trào kháng Nhật cứu nước sôi nổi và đều khắp, nắm vững
thời cơ đưa Cách mạng Tháng Tám 1945 đến thắng lợi.
Trong lịch sử cách mạng, nhân dân ta cịn đồn kết với nhân dân các dân
tộc Lào và Campuchia anh em, hình thành Mặt trận đồn kết ba nước, các lực
lượng hồ bình, tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ, ủng hộ sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước đã hình thành trên thực tế ba tầng mặt trận: ở trong nước, trên bán
đảo Đơng Dương và trên thế giới, đồn kết mọi lực lượng có thể đồn kết, tranh
thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ để lên án và cơ lập đế quốc Mỹ xâm lược.
Hơn 60 nǎm qua, nhân dân ta đã tiến hành một cuộc đấu tranh lâu dài
chống lại những đế quốc thực dân lớn mạnh, đã vượt qua biết bao khó khăn,
khổ cực, đổ biết bao xương máu để đưa cách mạng đến thắng lợi vẻ vang cuối
cùng. Một trong những nguyên nhân thắng lợi là Đảng ta ln chǎm lo xây
dựng khối đại đồn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất theo lời dạy
của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
"Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết.
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng".
Dựa trên tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh đảng ta đã xây
dựng nên một khối đại đoàn kết vững bền rộng khắp, chính những điều này đã
góp phần to lớn trong thắng lợi của tồn dân tộc khơng chỉ trong đấu tranh

giành độc lập mà còn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.3 Nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống
nhất
- Thứ nhất, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng

khối liên minh cơng-nơng-trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc,
nơi quy tụ mọi con dân nước Việt. Song đó khơng phải là một tập hợp lỏng lẻo,
ngẫu nhiên, tự phát của quần chúng nhân dân, mà là một khối đồn kết chặt
chẽ, có tổ chức nền tảng khối liên minh cơng – nơng – trí thức, do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ
9


Chí Minh, nó hồn tồn khác với tư tưởng đồn kết, tập hợp lực lượng của các
nhà yêu nước Việt Nam trong lịch sử.
Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đồn kết dân tộc là cơng
nơng, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống
nhất”. Người chỉ rõ rằng, sở dĩ phải lấy liên minh công – nông làm nền tảng “Vì
họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ
đơng hơn hết, mà cũng bị áp bức boc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng
của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi liên minh cơng nơng “là nền”, “là gốc” của đại
đồn kết và chỉ rõ “nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền
vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Vai trị, vị trí,
mối quan hệ giữa công nông với các tầng lớp nhân dân khác trong mặt trận
chống đế quốc cũng đã được Chỉ thị ngày 18-11-1930 xác định: “Cuộc cách
mạng tư sản dân quyền ở Đơng Dương mà khơng tổ chức được tồn dân lại
thành một lực lượng thật đơng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành
cơng”.Giải thích khái niệm đơng, Chỉ thị nêu rõ đó là “tồn dân cùng đứng

trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến làm tay sai phản động”;
cịn khái niệm kín “là đặt để cơng nông trong bức thành dân tộc phản đế bao
la”.
Người căn dặn, trong khi nhấn mạnh vai trò nòng cốt của liên minh công
nông, cần chống lại khuynh hướng chỉ coi trọng củng cố khối liên minh công
nông mà không thấy vai trị và sự cần thiết phải mở rộng đồn kết với các tầng
lớp khác, nhất là với tầng lớp trí thức. Làm cách mạng phải có tri thức và tầng
lớp tri thức rất quan trọng đối với cách mạng. Người nói: “trong sự nghiệp cách
mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trị
quan trọng và vẻ vang; và cơng, nơng, trí cần đồn kết chặt chẽ thành một
khối”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất và liên minh
công – nông luôn được Người xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa dân
tộc và giai cấp. Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, sức mạnh của khối
liên minh cơng – nơng – trí thức càng được tăng cường; ngược lại, liên minh
công – nông – trí thức càng được tăng cường, Mặt trận dân tộc thống nhất càng
vững chắc, càng có sức mạnh mà khơng có một kẻ thù nào có thể phá nổi. Giải
quyết mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất
là một sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi vận dụng học thuyết Mác - Lênin
về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vào
hoàn cảnh cụ thể nước ta. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người đã chỉ
10


rõ: Công nông là gốc của cách mệnh, tiếp theo đó, tư tưởng này được khẳng
định trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và còn được bổ sung: học
trị, nhà bn cũng là lực lượng cách mạng và Đảng phải tập hợp được đông
đảo công nông, tiểu tư sản, trí thức, trung nơng và cả bộ phận tư sản, địa chủ
tiến bộ. Người chỉ ra rằng: liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận Dân
tộc Thống nhất, đồng thời Người cũng chỉ rõ Mặt trận còn là nơi thể hiện sức

mạnh của dân tộc, bao gồm mọi người Việt Nam thực sự yêu nước, tiến bộ. Với
quan điểm đó, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề giai cấp (liên minh cơng nơng) trong
lịng dân tộc (Mặt trận Dân tộc Thống nhất). Các giai cấp nằm trong Mặt trận
Dân tộc Thống nhất là nằm trong liên minh giai cấp, liên minh với các tầng lớp
yêu nước khác, không phải đấu tranh để lật đổ, tiêu diệt, loại trừ giai cấp, mà là
tạo thành lực lượng thống nhất của cả dân tộc để giải phóng dân tộc, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Đặt liên minh công nông trong khuôn khổ nền tảng của Mặt
trận Dân tộc Thống nhất, Hồ Chí Minh đã giải quyết một cách sáng tạo mối
quan hệ hài hoà giữa dân tộc và giai cấp ở nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, đại đồn kết là cơng việc của tồn dân tộc, song nó chỉ
có thể được củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh
đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một
tất yếu bảo đảm cho Mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực trong thực
tiễn.Bởi vì chỉ có chính Đảng của giai cấp cơng nhân được vũ trang bởi chủ
nghĩa Mác – Lênin mới đánh giá đúng được vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử, mới vạch ra được đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn để
lôi kéo, tập hợp quần chúng vào khối đại đồn kết trong Mặt trận, biến tiến
trình cách mạng thành ngày hội thật sự của quần chúng.Chính vì vậy, Hồ Chí
Minh ln xác định, mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận là mối quan hệ máu
thịt. Khơng có Mặt trận, Đảng khơng có lực lượng, khơng thể thực hiện được
những nhiệm vụ cách mạng; khơng có sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận khơng
thể hình thành, phát triển và khơng có phương hướng hoạt động đúng đắn.Hồ
Chí Minh cho cịn rằng, sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là một tất
yếu, vừa phải có điều kiện. Tính tất yếu thể hiện ở năng lực nắm bắt thực tiễn,
phát hiện ra các quy luật khách quan của sự vận động lịch sử để vạch ra đường
lối và phương pháp cách mạng phù hợp, lãnh đạo Mặt trận thực hiện thành công
các nhiệm vụ cách mạng mà không một lực lượng nào, một tổ chức chính trị
nào trong Mặt trận có thể làm được. Mục tiêu của Đảng là đấu tranh giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Ngồi lợi ích giai cấp và lợi ích của dân tộc, Đảng khơng có lợi ích nào khác.

Do vậy, trong Mặt trận, Đảng Cộng sản vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh
đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam khơng có lợi ích riêng mà là gắn liền với lợi ích
11


toàn xã hội, toàn dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền khơng phải chỉ
vì lợi ích của giai cấp mình mà vì "phải trở thành dân tộc" mới có thể giải
phóng được dân tộc và giai cấp.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là một
thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời là lực lượng lãnh đạo
Mặt trận. Nhưng Người cho rằng, quyền lãnh đạo Mặt trận không phải do Đảng
tự phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận. Người nói: "Đảng khơng
thể địi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một
bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh
và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn
và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo"1.
Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận
đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Người viết:
“Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Cơng tác Mặt trận là
một cơng tác rất quan trọng trong tồn bộ cơng tác cách mạng”. Đảng phải
dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân
thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh
gị ép, quan liêu mệnh lệnh.
Sự đồn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết trong
Mặt trận. Đảng đoàn kết, dân tộc đồn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với
nhân dân sẽ tạo nên sức mạnh bên trong, để dân tộc vượt qua mọi khó khăn,
chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
- Thứ hai, Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động dựa trên cơ sở bảo

đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân

dân.
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết toàn
dân, song khối đại đồn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự
thống nhất cao độ về mục tiêu và lợi ích. Ngay từ năm 1925, khi nói về chiến
lược đại đồn kết, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, chỉ có thể thực hiện đồn kết khi
có chung một mục đích, một số phận. Nếu khơng suy nghĩ như nhau, nếu khơng
có chung một mục đích, chung một số phận thì dù có kêu gọi đồn kết thế nào
đi nữa, đồn kết vẫn khơng thể có được.
Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Đây là nguyên tắc
xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được Hồ Chí Minh kế
thừa và nâng lên một bước và là phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử:
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững
12


chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá
đúng vai trò của lực lượng nhân dân. Người viết: “Có lực lượng dân chúng việc
to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Khơng có thì việc gì làm cũng khơng
xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng,
đầy đủ mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn nghĩ mãi khơng ra”.
Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác
định cụ thể phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao
nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết. Đại đoàn kết phải được xây dựng
trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao
động và quyền thiêng liêng của con người: Bởi vì trong mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi
tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả các lợi ích khác nhau đó đều có
một điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp có thực
hiện được hay khơng cịn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có

đồn kết hay khơng và việc nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích
đó như thế nào. Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân
trọng và phát huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những
yếu tố khác biệt, mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của
đồn kết dân tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho
việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi ích. Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối
cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân
chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đồn kết, là sức mạnh dân tộc và là
nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất
biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những phương pháp để thực
hiện nguyên tắc đó trong chiến lược đại đồn kết dân tộc của mình.
Như vậy, độc lập, tự do là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ
các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo vào trong Mặt trận. Lấy lợi
ích tối cao của dân tộc gắn với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động làm
cơ sở. Đó là tổ quốc độc lập, thống nhất, nhân dân tự do, hạnh phúc, dân giàu
nước mạnh. Vấn đề còn lại là ở chỗ, phải làm thế nào để tất cả mọi người thuộc
bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong Mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối cao
đó lên trên hết, trước hết. Bởi lẽ lợi ích tối cao được đảm bảo thì lợi ích cơ bản
của mỗi bộ phận, mỗi người mới được thực hiện.
Trên cơ sở lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền lợi cơ bản của các tầng
lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa là độc lập, tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí này được Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh cụ thể hóa trong từng lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội… phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng trong mỗi thời kỳ lịch sử.
13


- Thứ ba, Mặt trận dân tộc phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương

dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.

Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân
tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau,
với nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
phải theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Nếu như nét nổi bật của tổ chức đảng là ở tính thống nhất chính trị chặt chẽ,
vì Đảng là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp cơng nhân, thì nét nổi bật của
tổ chức mặt trận là ở tính xã hội rộng rãi, tập hợp mọi lực lượng, giai cấp, dân
tộc, tôn giáo, thành phần xã hội trong hình thức một liên minh chính trị. Chỉ có
hiệp thương dân chủ mới giữ được sự tồn tại của liên minh một cách lành
mạnh, thực chất. Hiệp thương dân chủ chính là q trình thảo luận, bàn bạc,
trao đổi từ rất nhiều sự khác biệt, thậm chí đối lập nhau để đi tới cùng thống
nhất về một hay một số vấn đề, một chủ trương, chính sách do Mặt trận đề
xướng.
Hiệp thương, tự nó đã nói nên tính chất bình đẳng, bao hàm sự nhân
nhượng, thậm chí khơng loại trừ cả sự thỏa hiệp khi cần thiết, theo đúng nghĩa
tích cực của khái niệm này. Ở khía cạnh khác, hiệp thương cũng là sự thể hiện
của văn hóa dân chủ. Trong hiệp thương dân chủ thì hiệp thương là cách thức,
phương thức, còn dân chủ vừa là tiền đề vừa là mục tiêu, mục đích. Hiệp
thương dân chủ thực chất cũng là công tác dân vận, công tác vận động quần
chúng theo đường lối, quan điểm của Đảng. Đây cũng chính là yêu cầu lãnh
đạo của Đảng đối với Mặt trận phải đạt tới, tức là đảm bảo sự thành thật, tin
cậy, là tôn trọng, là không mang tính quyền uy để phối hợp thống nhất hành
động nhằm tăng cường sự đoàn kết, sự đồng thuận trong xã hội và nhân dân.
Khi có những lợi ích riêng biệt không phù hợp, Mặt trận sẽ giải quyết bằng
việc nêu cao lợi ích chung của dân tộc, bằng sự vận động hiệp thương dân chủ,
tạo ra nhận thức ngày càng đúng đắn hơn cho mỗi người, mỗi bộ phận về mối
quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi
hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được đem ra để tất cả các thành
viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc
dân chủ hình thức. Đảng là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, nhưng cũng là một

thành viên của Mặt trận. Do vậy, tất cả mọi chủ trương, chính sách của mình,
Đảng phải có trách nhiệm trình bày trước Mặt trận, cùng với các thành viên
khác của Mặt trận bàn bạc, hiệp thương dân chủ để tìm kiếm các giải pháp tích
cực và thống nhất hành động, hướng phong trào quần chúng thực hiện thắng lợi
các mục tiêu đã vạch ra.
14


Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hịa mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc
và lợi ích giai cấp, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước
mắt… Phải làm cho tất cả các thành viên trong Mặt trận thấm nhuần lợi ích
chung, lợi ích tối cao của dân tộc, phải đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết.
Những lợi ích chính đáng phù hợp với lợi ích chung của đất nước và dân tộc
phải được tôn trọng. Ngược lại, những lợi ích bộ phận khơng phù hợp sẽ dần
dần được giải quyết cùng với tiến trình chung của cách mạng, thơng qua lợi ích
chung, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận
về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Trong q trình hoạt động,
Mặt trận cần quan tâm xem xét, giải quyết thỏa đáng, thấu tình đạt lý mối quan
hệ lợi ích giữa các thành viên bằng việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc hiệp
thương dân chủ.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong Mặt trận dân tộc thống nhất
sẽ góp phần củng cố sự bền chặt, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao và thực hiện
được mục tiêu: “Đồng tình, đồng sức, đồng lịng, đồng minh”. Đồng thời, đó
cũng là cơ sở để mở rộng khối đại đồn kêt, lơi kéo thêm các lực lượng khác
vào Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Thứ tư, Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đại đoàn kết chặt chẽ, lâu

dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúo đỡ nhau cùng tiến bộ.
Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm

tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi đến nhất trí;
bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố tiêu cực cần phải khắc
phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương
châm "cầu đồng tồn dị", lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt
khác, Người nêu rõ: "Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng
cường đoàn kết. Người thường xuyên căn dặn phải khắc phục tình trạng đồn
kết xi chiều, phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình để biểu dương
mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết nội bộ. Người viết: “Đồn
kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí.
Đồn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của
nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì
nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tồn dân cần đồn kết
lâu dài, đồn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong q trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận dân
tộc thống nhất ln đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hịi, một chiều, chống
coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời
chống khuynh hướng đồn kết mà khơng có đấu tranh đúng mức, đoàn kết một
15


chiều, vơ ngun tắc trong khối đại đồn kết dân tộc. “Chúng ta làm cách mạng
nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo
xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta”.
1.2.4 Những kinh nghiệm trong xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất
a. Xác định đúng kẻ thù, sắp xếp đúng bạn đồng minh

Muốn có chính sách mặt trận đúng đắn, trước hết phải xác định đúng kẻ thù
cụ thể, trước mắt. Điều đó địi hỏi phải có lập trường giai cấp vững vàng, nhãn
quan chính trị sâu sắc, nhạy bén. Trong đấu tranh cách mạng, không thể chỉ nêu
ra kẻ thù chung chung, mà phải chỉ rõ kẻ thù cần phải đánh đổ trong từng giai

đoạn chiến lược, có khi trong từng thời kỳ của một giai đoạn. Có như vậy mới
tập trung được toàn bộ lực lượng cách mạng đánh đổ chúng.
Trong thời kỳ 1945-1946, công tác mặt trận lúc này hết sức phức tạp,
nhưng phong phú và sáng tạo. Cùng một lúc cách mạng nước ta phải đối phó
với nhiều kẻ thù, nhưng Đảng đã đánh giá đúng các loại kẻ thù, xác định đúng
kẻ thù chính, để có sách lược và phương pháp đấu tranh phù hợp, tạm thời hồ
hỗn với kẻ thù này, phân hố, cơ lập kẻ thù kia, tránh thế bất lợi phải chống
với nhiều kẻ thù cùng một lúc, để tǎng thêm sức mạnh giành thắng lợi. Trong
kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã sáng suốt chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất
không chỉ của dân tộc ta mà của cả loài người tiến bộ là đế quốc Mỹ, nên đã
hình thành được ba tầng mặt trận: ở trong nước, ở Đông Dương và trên thế giới,
tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Trong công tác mặt trận, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân
và quan điểm dân tộc đúng đắn. Vì trong dân tộc có nhiều giai cấp, nên Đảng
phải đánh giá đúng thái độ chính trị của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác
nhau để sắp xếp đúng đắn vị trí các lực lượng trong Mặt trận dân tộc thống
nhất: vai trò lãnh đạo, lực lượng nòng cốt, bạn đồng minh lâu dài và gần gũi,
bạn đồng minh tạm thời, v.v..
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta
xác định rõ vai trò lãnh đạo của giai cấp cơng nhân, vai trị nịng cốt của liên
minh cơng - nơng, vị trí quan trọng của tầng lớp trí thức, tiểu tư sản và ra sức
tập hợp đơng đảo lực lượng về phía cách mạng, đồng thời đánh giá cao truyền
thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân. Đảng đã lôi cuốn giai cấp tư sản
dân tộc, một bộ phận hoặc từng cá nhân xuất thân từ giai cấp phong kiến địa
chủ có tinh thần yêu nước tham gia cách mạng giải phóng dân tộc.
Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ tranh thủ mọi khả nǎng có thể
tranh thủ nhằm tǎng cường mặt trận dân tộc rộng rãi để chống đế quốc và tay
sai. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta tiếp tục lắng nghe, tìm hiểu
16



quan điểm, tư tưởng và thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp để kịp
thời đề ra những chủ trương chính sách đúng đắn, những hình thức tổ chức sát
hợp để tập hợp lực lượng đông đảo, nhằm củng cố khối đoàn kết dân tộc, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
b. Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận
- Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp

Mặt trận là tổ chức tập hợp lực lượng dân tộc chống đế quốc xâm lược và
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Nó bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp được tập hợp,
đồn kết trên cơ sở chương trình hành động chung. Các giai cấp trong mặt trận
đều thống nhất về lợi ích chung của dân tộc. Đối với giai cấp cơng nhân, lợi ích
chung của dân tộc và lợi ích riêng của giai cấp là nhất trí. Nhưng đối với các
giai cấp khác, thì lợi ích riêng của giai cấp và lợi ích chung của dân tơc có mặt
nhất trí và có mặt khơng nhất trí. Trong thời kỳ 1936-1939, Đảng nêu ra mục
tiêu đấu tranh đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, chống chủ nghĩa phátxít, chống
chiến tranh; trong thời kỳ 1939-1945 là đấu tranh chống Nhật, Pháp, giành độc
lập dân tộc; trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước đã có lúc Đảng nêu ra mục tiêu
trước mắt tranh đấu cho miền Nam Việt Nam, hồ bình, trung lập, v.v.. Cương
lĩnh chung của Mặt trận đã thể hiện đúng mối quan hệ giữu lợi ích của tồn dân
tộc với lợi ích của từng giai cấp. Nếu chúng ta vượt ra khỏi giới hạn mục tiêu
đó là đã phạm phải sai lầm tả khuynh. Ngược lại nếu như ta không đấu tranh
kiên quyết để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ đã đề ra thì phạm phải sai
lầm hữu khuynh. Do đó, chúng ta cần xác định rõ ràng mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp để tránh phạm phải những sai lầm khơng đáng có trong q trình
xây dựng Mặt trận.
- Mối quan hệ giữa liên minh công nông và mặt trận.

Đây là mối quan hệ lớn nhất trong công tác mặt trận. Đảng ta đã giải quyết
thành công mối quan hệ này thông qua việc giải quyết đúng mối quan hệ giữa

nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Trong khi nhấn mạnh đoàn kết
dân tộc, khơng bao giờ Đảng coi nhẹ vai trị nền tảng của mặt trận là khối liên
minh cơng nơng, vì liên minh cơng nơng có vững chắc mới có thể mở rộng
được mặt trận; ngược lại, làm tốt công tác mặt trận càng làm cho liên minh
công nông thêm vững chắc. Chỉ nhấn mạnh liên minh công nông mà không chú
ý tranh thủ các giai cấp, tầng lớp khác là hẹp hòi, tả khuynh. Ngược lại, chỉ chú
ý vận động các giai cấp, tầng lớp khác mà không chú ý củng cố liên minh công
nông là phạm sai lầm hữu khuynh.

17


Khi cần tập trung lực lượng để giải quyết những nhiệm vụ cấp bách nhất
của cách mạng, Đảng đã giải quyết đúng mức quyền lợi của công nông và của
các giai cấp, các tầng lớp tham gia mặt trận.
- Mối quan hệ giữa tranh thủ tầng lớp trên đi đôi với phát động quần chúng cơ

bản.
Đây là mối quan hệ phức tạp địi hỏi phải có giải pháp khéo léo. Về bản
chất giai cấp, tầng lớp trên đối lập với quần chúng cơ bản của cách mạng là
công nông. Nhưng Đảng có thể và cần phải tranh thủ tầng lớp trên, nhất là
những cá nhân có uy tín trong quần chúng, đó là điều cần thiết và có lợi cho
việc phát động quần chúng cơ bản. Nhưng phong trào vững chắc phải là phong
trào cách mạng của quần chúng cơ bản. Chỉ khi nào phong trào đó mạnh mới
bảo đảm tranh thủ được tầng lớp trên. Đồng chí Nguyễn Vǎn Cừ đã phân tích:
muốn lơi cuốn được tầng lớp trên tham gia đấu tranh vì quyền lợi của dân tộc
thì điều "cốt yếu là do lực lượng đấu tranh của quần chúng".
Đảng đã chỉ rõ, phải tranh thủ tầng lớp trên có ảnh hưởng đối với quần
chúng ở vùng dân tộc ít người. Mấu chốt của vấn đề đồn kết các dân tộc anh
em là phải thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc, làm cho miền núi tiến kịp

miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp về kinh tế và vǎn hoá, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động, chống tư tưởng dân tộc lớn,
dân tộc hẹp hịi, tự ti dân tộc.
Để đồn kết đồng bào theo các tôn giáo, Đảng đưa ra chính sách tự do tín
ngưỡng và giáo dục quần chúng nhân dân lao động phân biệt tín ngưỡng với
những hoạt động lợi dụng tơn giáo để chống lại chính sách và pháp luật của
Nhà nước. Phải nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của giáo dân, làm cho họ
phân biệt rõ địch - ta, ra sức đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần. Đối với tầng lớp trên trong tôn giáo, Đảng chủ trương đồn kết với họ
trên tinh thần u nước chân chính và giúp đỡ họ hiểu biết đường lối, chính
sách của cách mạng, vận động họ cùng với đồng bào theo các tơn giáo làm
những việc có ích cho Tổ quốc, chống lại mọi âm mưu chia rẽ dân tộc và phá
hoại của kẻ thù.
- Mối quan hệ giữa đoàn kết và đấu tranh

Đoàn kết một chiều, thiếu đấu tranh trong thực tế dẫn đến phá vỡ khối đoàn
kết, thủ tiêu mặt trận. Đấu tranh vượt quá cương lĩnh là phạm sai lầm tả
khuynh, trái lại, thiếu đấu tranh để thực hiện cương lĩnh là hữu khuynh, dẫn đến
mất đoàn kết.
c.

Nâng cao sự lãnh đạo của đảng trong mặt trận
18


Một vấn đề có tính ngun tắc là khơng ngừng tǎng cường sự lãnh đạo của
Đảng trong mặt trận dân tộc thống nhất, phải giữ vững đường lối chính trị, mục
tiêu, nhiệm vụ cách mạng của Đảng, chống mọi khuynh hướng hạ thấp vai trò
của Đảng, đòi chia quyền lãnh đạo trong mặt trận, xa rời phương hướng, mục
tiêu chiến lược của cách mạng. Mấu chốt để giữ vững vai trị lãnh đạo của Đảng

trong mặt trận là hồn chỉnh đường lối cách mạng và không ngừng củng cố
khối liên minh công nông.
Trong các thời kỳ cách mạng, Đảng ta phân tích đúng đắn các mối quan hệ
giai cấp để đề ra một cương lĩnh chung của mặt trận nhằm tập hợp thật rộng rãi
các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp, các cá nhân yêu nước trong
mặt trận. Các giai cấp, các tầng lớp trong nhân dân đi theo Đảng chẳng những
vì Đảng có đường lối đúng, mà cịn vì Đảng có lực lượng. Vì vậy, phải không
ngừng củng cố khối liên minh công nông. Đảng ta rất coi trọng mặt trận, nhưng
trước hết phải xây dựng khối liên minh công nông vững mạnh. Liên minh công
nông bao giờ cũng là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Đảng cũng là một tổ chức chính trị trong mặt trận, nhưng mặt trận thừa
nhận vai trị lãnh đạo của Đảng, vì Đảng có đường lối chính trị đúng, gồm
những người giác ngộ chính trị sâu sắc, tự nguyện, hết lòng phục vụ cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, tiền phong gương mẫu trong
mọi phong trào cách mạng của quần chúng; vì Đảng biết tạo ra sự hiểu biết, tin
cậy lẫn nhau, biết phối hợp hành động giữa Đảng và các thành viên khác trong
mặt trận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đảng "phải tỏ ra là một bộ phận
trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công
tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và nǎng
lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo". Để bảo đảm
sự lãnh đạo của Đảng trong mặt trận, phải luôn luôn tránh hai khuynh hướng
lệch lạc là: cơ độc, hẹp hịi, coi nhẹ tranh thủ các lực lượng có thể tranh thủ;
hoặc đồn kết một chiều, đồn kết mà khơng đấu tranh đúng mức với những tư
tưởng và việc làm sai trái của các thành viên trong mặt trận.
Về phần mình, Đảng khơng ngừng phấn đấu nâng cao nǎng lực lãnh đạo
bằng sự hoàn thiện đường lối chiến lược, đổi mới chủ trương, sách lược cho
phù hợp với tình hình, nhiệm vụ và cải tiến phong cách, phương thức làm việc
trong mặt trận, chống tác phong quan liêu, mệnh lệnh, thiếu kiên trì giáo dục,
thuyết phục. Sự cố kết giữa Đảng ta với Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt,
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập

dân tộc và thống nhất đất nước trước đây, cũng như với Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam hiện nay trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa là một sức mạnh không gì có thể phá vỡ nổi. Trong cơng cuộc đổi
19


mới hiện nay, Đảng ta không ngừng tự đổi mới, nhằm nâng cao nǎng lực lãnh
đạo cách mạng nước ta trong giai đoạn mới. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày
càng mở rộng, tập hợp mọi thành phần, lực lượng của đất nước, tạo thành sức
mạnh tổng hợp làm nên sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và
vǎn minh tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Chương 2: Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn hiện nay
2.1. Cơ sở khách quan của chính sách đồn kết dân tộc và xây dựng Mặt
trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn cách mạng hiện nay
Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nước ta chuyển
sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "... chủ
nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng
tạo của hàng chục triệu người". Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng
đã khẳng định khối đại đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh vơ tận bảo đảm
hồn thành những nhiệm vụ lịch sử trong giai đoạn mới. Qua đó khẳng định vai
trò to lớn của Mặt trận dân tộc thống nhất khơng chỉ trong kháng chiến chống
giặc ngọai xâm, mà cịn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Nếu như trước đây, giải phóng đất nước, giành độc lập dân tộc đã là sự
nghiệp của toàn dân, thì ngày nay xây dựng đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa để mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc lại càng phải là
sự nghiệp của toàn dân. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã và đang xây dựng
là một xã hội mà đất nước và con người thật sự được giải phóng và làm chủ trên
cơ sở nền kinh tế phát triển cao và nền vǎn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Mục tiêu và nhiệm vụ này hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng và lợi ích cơ

bản, lâu dài của tuyệt đại bộ phận nhân dân ta. Là người Việt Nam, ai cũng
mong muốn tham gia xây dựng đất nước vǎn minh, giàu mạnh, sánh vai cùng
các nước trong thế giới hiện đại.
2.2 Mặt trận dân tộc thống nhất trong hệ thống chính trị - xã hội của nước
ta hiện nay.
Mặt trận dân tộc thống nhất bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội được tổ chức và hoạt
động theo một cơ chế bảo đảm đầy đủ quyền lực của nhân dân dưới sự lãnh đạo
20


của Đảng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một trong những chỗ dựa vững chắc
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở hoàn thiện dần chủ trương đường lối
của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trị, vị trí của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định những
quan điểm cơ bản của Đảng về Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam như sau:
“Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trị rất quan trọng trong việc
tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền
và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; đưa các chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hố, xã hội, quốc
phịng, an ninh thành hoạt động thực tiễn sinh động trong cuộc sống của nhân
dân”.
Trong hệ thống chính trị - xã hội của nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
tổ chức xã hội rộng lớn nhất, vừa có tính liên hiệp rộng rãi, vừa có tính quần
chúng sâu sắc. Vì vậy, Mặt trận là đại diện chung cho quyền làm chủ của nhân
dân, là sự nối liền các tầng lớp nhân dân rộng rãi với Đảng, là chỗ dựa của Nhà
nước như Điều 9 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(1992) đã thể chế hoá: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đồn
kết tồn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân,

tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo
và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền
làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của
cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước.
2.3. Nhiệm vụ của Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn hiện nay
Mặt trận dân tộc thống nhất đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử
cách mạng nước ta. Đó khơng những là một nhân tố quan trọng trong thành
cơng của cách mạng Việt Nam trước đây,mà cịn là một vũ khí chính trị sắc bén
để nhân dân ta phát huy sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Do đó mà Đảng ta xác
định nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu của mặt trận là: "Thực hiện tốt liên minh
cơng nơng, đồn kết chặt chẽ trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác,
đồn kết các dân tộc, các tơn giáo, các nhân sĩ... cùng những người Việt Nam
hiện đang sống ở nước ngồi muốn góp phần xây dựng đất nước, nhằm mục
tiêu chung là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần giữ gìn hồ bình ở Đông Nam Á và
thế giới".
21


Bên cạnh việc thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo, Mặt trận đã tiếp tục mở rộng khối đại đoàn kết tồn
dân; tích cực vận động nhân dân phát huy tinh thần chủ động sáng tạo, tự lực, tự
cường vươn lên, khai thác mọi tiềm năng và các điều kiện thuận lợi, khắc phục
khó khăn, thi đua lao động sản xuất kinh doanh, học tập, cơng tác; tích cực tham
gia xây dựng Đảng, chính quyền, giữ vững chủ quyền quốc gia, tồn vẹn lãnh
thổ, phát triển tình đồn kết hữu nghị với các nước trên thế giới.Ngày nay, bước
vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, hội nhập kinh tế quốc tế,
Mặt trận thực hiện chủ trương đoàn kết rộng rãi mọi người Việt Nam; lấy mục
tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các
dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam ở
nước ngồi; xố bỏ mọi mặc cảm, định kiến; không phân biệt đối xử về quá
khứ, thành phần giai cấp; tôn trọng những ý kiến khác nhau khơng trái với lợi
ích của dân tộc; đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh
thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.
Các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận phát động
đã được đồng bào ta ở trong và ngồi nước, tích cực hưởng ứng, tham gia đóng
góp cơng sức, tiền của, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xố đói giảm nghèo, giữ vững ổn định an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội. Cuộc vận động "Tồn dân đồn kết xây dựng
đời sống văn hóa ở khu dân cư" ra đời thực sự hợp ý Đảng, lòng dân, ngày càng
được nhân dân các khu dân cư trên cả nước nhiệt tình hưởng ứng. Cuộc vận
động đã thiết thực góp phần tăng cường, mở rộng khối đại đồn kết tồn dân ở
khu dân cư, đổi mới cơng tác Mặt trận và trở thành nhiệm vụ chung của hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, Uỷ ban Mặt trận các cấp chủ
trì. Đến nay trên cả nước đã có 70.008 khu dân cư được công nhận khu dân cư
tiên tiến; 38.443 khu dân cư văn hố; 11.747.367 gia đình được cơng nhận gia
đình văn hố. Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” đã được Mặt trận các cấp
chủ động thực hiện tốt vai trò phối hợp và thống nhất hành động với các thành
viên; phối hợp với chính quyền và các cơ quan thơng tấn, báo chí, các phương
tiện truyền thơng tăng cường tun truyền, động viên các điển hình cá nhân và
tập thể tích cực tham gia cuộc vận động "Ngày vì người nghèo", Tháng cao
22


điểm "Vì người nghèo" và Chương trình "Nối vịng tay lớn" hàng năm để xây
dựng Quỹ "Vì người nghèo.
Phát huy các kết quả đã đạt được, trong thời gian tới Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên thống nhất hành động, quyết

tâm phấn đấu thực hiện năm nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp, xây
dựng khối đại đồn kết toàn dân tộc.
Thứ hai, động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia phong trào thi
đua yêu nước, đẩy mạnh các cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư", cuộc vận động "Ngày vì người nghèo", cuộc vận
động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", cuộc vận động
"Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"... góp phần đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Thứ ba, vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ và giữ gìn kỷ cương,
phép nước, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh;
nâng cao vai trò và trách nhiệm của Uỷ ban Mặt trận và các tổ chức thành viên
trong việc chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân;
thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội gắn với yêu cầu tăng cường sự
đồng thuận xã hội. Thứ tư, mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân và tăng
cường đoàn kết, hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các
nước trên thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Cuối cùng là kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, đổi mới nội dung, phương
thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.
Bên cạnh đó Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tại chương II, Điều 6 nói về
trách nhiệm và quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện tập
hợp khối đại đoàn kết toàn dân, bao gồm:
Một là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát triển đa dạng các hình thức hoạt
động, các phong trào yêu nước để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở
trong nước và định cư ở nước ngồi, khơng phân biệt thành phần giai cấp, tầng
lớp xã hội, dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo, q khứ nhằm động viên mọi nguồn
lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
23



Hai là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy tính tích cực của các cá nhân
tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo để vận
động nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hố - xã hội, an ninh,
quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước.
Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia tuyên truyền, vận động người
Việt Nam định cư ở nước ngoài đoàn kết cộng đồng, giúp đỡ nhau trong cuộc
sống, giữ gìn bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giữ quan hệ gắn
bó với gia đình và q hương, góp phần xây dựng quê hương đất nước.
Để thực hiện những nhiệm vụ này và ngày càng phát huy mạnh mẽ hơn nữa
vai trò của mặt trận, tǎng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng thì các
cấp, các ngành đều phải quán triệt và làm tốt công tác mặt trận, phê phán tư
tưởng coi nhẹ mặt công tác này. Đồng thời, các cấp uỷ Đảng cần phải tǎng
cường lãnh đạo và tạo điều kiện để mặt trận ngày càng làm tốt ba chức nǎng cơ
bản sau:
Tuyên truyền, giáo dục, vận động các tầng lớp nhân dân giác ngộ về chủ
nghĩa xã hội, nhất trí với đường lối, chính sách của Đảng, hǎng hái tham gia các
phong trào cách mạng nhằm thực hiện hai mục tiêu chiến lược là mục tiêu tổng
quát của thời kỳ quá độ và những mục tiêu cụ thể của chặng đường đầu mà Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã đề ra.
Phối hợp và thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên, giữa mặt trận
với chính quyền từ trung ương đến cơ sở, nhằm phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phản ánh nguyện vọng, ý kiến của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng
và công tác quản lý của Nhà nước; đề xuất và góp phần vào việc xây dựng luật
pháp và chính sách có liên quan đến các tầng lớp nhân dân; cùng các đoàn thể,
các thành viên tổ chức thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động
của các cơ quan nhà nước.
Lịch sử vẻ vang 80 năm qua của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam gắn

liền với những chiến công vang dội của của dân tộc ta trong các cuộc kháng
chiến chống kẻ thù xâm lược và những thành tựu to lớn trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Nhìn lại
24


lịch sử vẻ vang của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, một lần nữa mỗi
chúng ta lại nhận thức đầy đủ hơn về sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân
tộc; về vị trí, vai trị, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Phát huy truyền thống vẻ vang của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ mỗi cán bộ, đảng viên
và mọi người Việt Nam cần nêu cao chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết,
tinh thần năng động, sáng tạo; quyết tâm chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu; ra sức
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Qua những phân tích trên ta có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn
kết dân tộc có vai trị rất quan trọng. Trong đó, đại đồn kết tồn dân trong Mặt
trận dân tộc thống nhất giữ vai trò chủ đạo. Bởi vì, khơng thể hoạt động mà
khơng có một tổ chức phù hợp, khơng có đường lối chiến lược đúng đắn và sự
lãnh đạo tài tình. Mặt trận dân tộc thống nhất ra đời đã đáp ứng được yêu cầu
đó. Nó khơng chỉ là lời giải đáp đúng đắn cho những bài tốn cách mạng vào
thời điểm đó mà còn trong suốt chiều dài lịch sử. Cho đến tận ngày nay nó vẫn
cịn ngun giá trị.

KẾT LUẬN

Như chúng ta đã biết, Mặt trận tổ quốc Việt Nam là nơi quy tụ mọi giai cấp,
tầng lớp, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước trong và ngồi
nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập của dân tộc, thống nhất của tổ
quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Mặt trận dân tộc được xây dựng dựa
trên bốn nguyên tắc chủ yếu, đó là: Mặt trận dân tộc phải được xây dựng trên

nền tảng khối liên minh cơng – nơng - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng;
phải hoạt động dựa trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ
bản của các tầng lớp nhân dân;phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân
chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững;cuối cùng,Mặt trận dân
tộc thống nhất là khối đại đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân
thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Vận dụng triệt để tư tưởng Hồ Chí
Minh trong xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, trên cơ sở sức mạnh đoàn kết
vững bền, chúng ta đã, đang và sẽ sẵn sàng chống lại bất kỳ kẻ thù nào, sẵn
25


×