Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

(Luận án tiến sĩ) vai trò của nhà nước trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 167 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH THỊ THỦY

VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC
TRONG VIỆC ỨNG PHĨ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
N

CNDVBC&DVLS

M s

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS. TS. NGUYỄN THỊ LAN HƢƠNG
. PGS. TS. PHẠM THỊ NGỌC TRẦM

HÀ NỘI - 2021


C ƣơ

1

TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. C c cơ


k í

uv ứ

trì

i

cứu đề c p đế

p ó với biế đổi k í

ý u

c u

về biế đổi

u

ột số cơng trình nghi n cứu của các tác giả nước ngồi về
biến đổi khí hậu và ứng phó với biến đổi khí hậu
BĐKH là một trong những thách thức lớn của nhân loại hiện nay. Bởi
lẽ, BĐKH đã và đang tác động trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội, đe dọa
đến an ninh con người ở các quốc gia, khu vực và trên thế giới. Nhận thức về
vấn đề nghiêm trọng của BĐKH, khơng ít các cơng trình nghiên cứu được đề
cập đến với các cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên không phải ngay từ đầu
BĐKH và tác động của BĐKH được nhận diện rõ mà phải mất một khoảng
thời gian nhất định nhân loại mới có nhận định khá đầy đủ về BĐKH. Trước
thập niên 90, các nghiên cứu về đến BĐKH đã được đề cập với hiện tượng

như: hiệu ứng nhà kính làm cho trái đất nóng lên và đây là một vấn đề nghiêm
trọng, có nguy cơ đe dọa đến tương lai của con người. Như nhà vật lý học
người Pháp (vào năm 1824) Joseph Fourier nhận định: “Nhiệt độ của trái đất
có thể bị tăng lên do sự thay đổi của các thành phần trong bầu khơng khí bởi
sức nóng trong q trình chuyển nhiệt năng, khí quyển hấp thụ nhiệt năng mặt
trời nhiều hơn là phản xạ nó trở lại không gian vũ trụ”; Năm 1861 nhà vật lý
học người Ailen, John Tyndall nhận diện ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng
hiệu ứng nhà kính là do hơi nước cùng một số loại khí dẫn tới hiện tượng hiệu
ứng nhà kính: “Hơi nước như một tấm chăn cần thiết cho sự sống của cây cỏ
trên Trái đất hơn là cho con người”. Và đến năm 1896, nhà hóa học người
Thụy Điển, Svante Arrhenius tiếp tục khẳng định một cách chắc chắn rằng,

6


việc đốt than trong công nghiệp là nguyên nhân dẫn đến hiệu ứng nhà kính.
Ơng dự báo, ngun nhân của hiện tượng nóng lên tồn cầu chính là do lượng
khí thải carbon dioxide ngày một tăng trong bầu khí quyển (khí thải carbon
dioxide được đốt từ các nhiên liệu hóa thạch). Theo quan sát của các nhà khoa
học, vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX, nhiệt độ trung bình của trái đất
tăng và có xu hướng tăng cao có nguy cơ đe dọa đến sự phát triển bền vững
của từng quốc gia. Con người cũng đã có được những con số cụ thể thông qua
việc đo lường tác động của BĐKH [76]. Từ thập niên 90 trở lại đây, các
nghiên cứu về BĐKH tiếp tục được nghiên cứu và đi vào chiều sâu. BĐKH
không chỉ ở nghiên cứu vật lý (tìm nguyên nhân, cơ chế tác động) mà đã đi
vào đánh giá những tác động của BĐKH; tính dễ tổn thương; các giải pháp
khắc phục tác động BĐKH; giải pháp thích ứng với BĐKH....Hơn nữa,
nghiên cứu BĐKH lúc này đã có sự liên kết giữa các ngành khoa học. Năm
1938, kỹ sư người Anh, Guy Callendar (sử dụng số liệu của 147 trạm khí
tượng ở một số quốc gia) nhận định, nhiệt độ trái đất đã, đang tăng lên trong

suốt thế kỷ qua. Đồng thời, ông kết luận nồng độ CO2 cũng tăng và đây có
thể là nguyên nhân của sự ấm lên toàn cầu. Tuy nhiên, kết luận nghiên cứu
của Guy Callendar lúc bấy giờ cũng gặp một số ý kiến phản đối. Tiếp đến,
vào năm 1955, Gilbert Plass (nhà nghiên cứu người Mỹ) đã phân tích mức độ
hấp thụ tia hồng ngoại của một số các loại khí bằng các thiết bị điện tử và ơng
rút ra kết luận: nếu nồng độ CO2 tăng gấp đôi thì nhiệt độ trái đất sẽ tăng lên
3-40C [76]. Năm 1975 khái niệm “nóng lên tồn cầu” cũng được đặt ra. Công
ước quốc tế về BVMT được xây dựng vào năm 1996....
Cùng với các nghiên cứu, các tổ chức nghiên cứu về BĐKH, khung văn
bản pháp lý quốc tế về BĐKH hình thành và đi vào hoạt động. Điều này
khẳng định, khơng cịn cách nào khác, cần phải nhận thức và hành động của
toàn thể nhân loại đối với vấn đề mang tính thảm họa tồn cầu. Năm 1988, Ủy
7


ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (viết tắt là: IPCC) thành lập với mục
đích thu thập và đánh giá những tác động BĐKH. Tổ chức IPCC sẽ chịu trách
nhiệm đánh giá những rủi ro về thay đổi khí hậu do hoạt động của con người
gây ra. Cơng ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu (viết tắt là:
UNFCCC) ra đời tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất năm 1992 (diễn ra ở Rio
de Janeiro (Brasil) với sự tham gia của nhiều quốc gia trên thế giới. Mục đích
quan trọng của cơng ước là nhằm “ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí
quyển ở mức độ có thể ngăn ngừa được sự can thiệp nguy hiểm của con người
đối với hệ thống khí hậu” [76], [77].
Các nghiên cứu trên, cùng các công bố của IPCC (báo cáo lần thứ nhất
năm 1990 cho đến báo cáo lần thứ 6/2021) đã xác định được những nội dung
cơ bản của BĐKH: 1) Nội hàm khái niệm “BĐKH” được mở rộng (KNK;
nước biển dâng; hiện tượng El nino; La nina...); 2) Khẳng định nguyên nhân
BĐKH là do khí C02 tăng do các hoạt động kinh tế - xã hội của con người
làm thải khí nhà kính vào bầu khí quyển làm cho trái đất khơng ngừng tăng

lên; 3) Dự báo nhiệt độ trái đất tăng có thể đạt ngưỡng 1,50C so với thời kỳ
tiền công nghiệp vào giữa những năm 2030; 4) Tác động của BĐKH: băng
tan, nước biển dâng, axít hóa đại dương... sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe con
người và hoạt động sản xuất lương thực tồn cầu; 5) Đề xuất, con người cần phải
có trách nhiệm với BĐKH; 6) Trách nhiệm chia sẻ rủi ro của BĐKH giữa các
quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển; 7) Xây dựng chiến lược quốc
gia về giảm phát thải khí nhà kính... [197], [198], [199], [200].
Tiếp tục khẳng định, hiện tượng trái đất nóng dần lên là do xuất phát từ
lối sống tiêu thụ quá mức nguồn năng lượng hóa thạch và làm cho khí hậu
thay đổi là điều không tránh khỏi. Từ đây, sẽ gây ra những xáo trộn mang tính
tồn cầu như: thiên tai thảm họa diễn ra thường xuyên hơn, mực nước biển
dâng cao... đã, đang ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề an ninh con người. Nhiều
8


quốc gia trên thế giới có nguy cơ nước biển dâng và mất dần diện tích lãnh
thổ; vấn đề suy giảm hệ sinh thái, bệnh dịch thường xuyên xảy ra … song,
chúng ta có thể kiểm sốt được những tác động đó bằng cách thay đổi những
hành động của chính con người [191], [147].
Đánh giá những rủi do, thiên tai do BĐKH tác động trực tiếp kinh tế xã hội tồn cầu, tạo áp lực đối với chính phủ các quốc gia. Với sự nóng dần
lên của trái đất mỗi năm sẽ lấy đi sinh mạng của gần 40.000 người, gây thiệt
hại về kinh tế khoảng 1.200 tỷ USD hằng năm của thế giới (xấp xỉ 1,6% Tổng
sản phẩm quốc nội (GDP)). Dự đoán, đến năm 2030, thiệt hại kinh tế gây ra
bởi biến đổi khí hậu và ơ nhiễm khơng khí sẽ tăng lên 3,2% GDP tồn cầu,
trong đó, những nước kém phát triển nhất sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề hơn cả
với mức thiệt hại có thể lên đến 11% GDP. BĐKH ảnh hưởng nghiêm trọng
đến ngân sách nhà nước, nhà nghiên cứu Nicolas Stem - chuyên gia kinh tế
hàng đầu của Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo: trong vịng 10 năm tới, chi
phí thiệt hại do BĐKH cho toàn thế giới khoảng 7.000 tỷ USD; nếu chúng ta
khơng có quyết sách, hành động giảm thiểu BĐKH thì mỗi năm ngân sách

nhà nước từng quốc gia mất khoảng 5% đến 20% tổng GDP; ngược lại nếu
chúng ta có các quyết sách và hành động mạnh mẽ trong giảm thải khí nhà
kính ở mức 550ppm thì chi phí ngân sách nhà nước sẽ là 1% GDP [211]. Dự
đoán, vào năm 2025, khoảng 5 tỉ người trên thế giới sẽ sống trong những khu
vực có nguy cơ căng thẳng mà mâu thuẫn chủ yếu liên quan đến nước, lương
thực. Đến năm 2050, khoảng 150 triệu người có thể phải rời khỏi nơi cư trú
của mình do nước biển dâng, nước nhiễm mặn... ở khu vực duyên hải. Bệnh
tật, dịch bệnh xuất hiện ngày càng nhiều do ô nhiễm môi trường. Nguyên
nhân BĐKH do nhân tố chủ quan lên tới 90% và nếu các quốc gia không tiếp
tục thực hiện cắt giảm KNK thì vào năm 2050 nồng độ khí CO2 trong khí
quyển sẽ tăng gấp đơi so với thời kỳ tiền công nghiệp. Kết quả sẽ dẫn đến
9


hàng loạt biểu hiện bất thường của khí hậu như: lượng mưa, độ ẩm, bức xạ,
hạn hán, băng tan, nước biển dâng…[194], [33].
BĐKH khơng cịn là câu chuyện của tương lai nữa, những hệ lụy của
BĐKH thời gian gần đây đòi hỏi con người phải thay đổi nhận thức và hành
động. Hiện nay, với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ
chúng ta có thể áp dụng công nghệ hiện đại để giảm thiểu những tác động của
BĐKH, đảm bảo an ninh lương thực cho toàn cầu. Đồng thời chúng ta cũng có
thể, đưa những nguy cơ trở thành cơ hội phát triển ở một số lĩnh vực cụ thể. Các
biện pháp như: vận chuyển hiệu quả, xử lý carbon, năng lượng tái tạo, vấn đề
quản lý... Việc phát huy thế mạnh của công nghệ tiên tiến sẽ giúp chúng ta
duy trì được tăng trưởng kinh tế, năng lượng tái tạo được thay thế cho sự khan
hiếm, sử dụng năng lượng tự nhiên, môi trường sinh thái được cân bằng......
Tuy nhiên, triển khai các công nghệ trong ứng phó BĐKH hiệu quả như thế
nào phụ thuộc vào nhận định nghiêm túc các chính sách cơng trong việc
thương mại hóa ở các quốc gia [196]. Thích ứng với BĐKH bằng cách điều
chỉnh hành vi của con người và cấu trúc nền kinh tế theo hướng thân thiện với

môi trường - là giải pháp giảm thiểu đối với tác động tiêu cực của BĐKH [210].
BĐKH ở góc độ nào đó cũng mạng lại lợi ích cho con người, do vậy cùng với
những biện pháp hạn chế tác động thì việc khai thác lợi ích do BĐKH mang lại
cũng cần được xem xét nghiên cứu, triển khai [208], [200].
Việt Nam - quốc gia đứng thứ 5 về chịu tác động nặng nề của BĐKH.
Do vậy, các tổ chức quốc tế, các nghiên cứu khoa học độc lập đã có nghiên
cứu riêng cho Việt Nam. Tác động của BĐKH ở Việt Nam biểu hiện: hiện
tượng lũ lụt, hạn hán, mực nước biển dâng, xâm nhập mặn, gia tăng các rủi ro
về sức khỏe đối với con người. Sự thiệt hại được biểu hiện qua các con số,
hằng năm Việt Nam mất khoảng 15 tỉ USD (tương đương khoảng 5% GDP)
cho BĐKH và nếu Việt Nam khơng có kế hoạch và hành động ứng phó với
BĐKH thì con số đó tăng lên là 11% GDP vào năm 2030 [194], [33]. Phát
10


triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay và thời gian tới nếu khơng có biện pháp
hiệu quả thích ứng với BĐKH tất yếu chi phí cho giảm thiểu BĐKH là không
nhỏ. Nếu kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng 5,4%/năm (giai đoạn 2007 2050) thì tốc độ tăng trưởng bị tác động bởi BĐKH 5,32 - 5,39%. Và nếu tăng
trưởng kinh tế đạt 500 tỷ USD (năm 2050) thì chi phí giảm thiểu hệ lụy của
BĐKH khoảng 40 tỷ USD [33]. Những thiệt hại về kinh tế - xã hội và vấn đề
con người từ BĐKH là không tránh khỏi đặc biệt là đối với ĐBSH và ĐBSCL.
Để ứng phó với BĐKH ở Việt Nam cần phải xây dựng hệ thống cơng trình
chống lũ (Delta Work) dọc bờ biển; cải tạo hệ thống đê nhằm chống lũ, cung cấp
nước cho nông nghiệp, hỗ trợ giao thông đường thủy; đồng thời phải thay đổi
phương thức quản lý mang tính truyền thống… [94].
Ở bình diện thế giới, nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu của các tác
giả trên thế giới đã chỉ ra những nội dung cơ bản của BĐKH và ảnh hưởng
của chúng tới kinh tế - chính trị - xã hội, sinh kế của người dân toàn cầu.
Đồng thời, cũng khẳng định chi phí giải quyết hệ lụy của BĐKH là rất lớn, là
gánh nặng của ngân sách Nhà nước. Vì thế, vấn đề là nhân loại hơm nay cần

phải hành động bảo vệ trái đất, bảo vệ mơi trường sống của mình.
Về trường hợp cụ thể của Việt Nam, nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân
nước ngồi cũng cung cấp cho chúng ta cái nhìn đa chiều về BĐKH và những
tác động của nó đến đời sống kinh tế - chính trị - xã hội, con người Việt Nam.
Thực tế, những tác động của BĐKH đã và đang dẫn đến những hệ lụy khôn
lường trong quá trình phát triển của Việt Nam. Để thực hiện tốt cơng tác ứng phó
với BĐKH địi hỏi sự nỗ lực tham gia của các chủ thể trong xã hội.
Những nghi n cứu của các tác giả trong nước về biến đổi khí
hậu và ứng phó với biến đổi khí hậu
Nghiên cứu về BĐKH được thực hiện vào những thập niên 90 ở Việt
Nam. Năm 1992, các nhà khoa học Việt Nam công bố báo cáo “BĐKH và tác

11


động của chúng ở Việt Nam” đã có những báo cáo cụ thể về BĐKH. Từ đó
đến nay với những tác động của BĐKH, nhiều cơng trình nghiên cứu về
BĐKH được cơng bố. Hầu hết các cơng trình nghiên cứu về BĐKH với mục
đích, phạm vi nghiên cứu khác nhau song đều khẳng định BĐKH là vấn đề
toàn cầu, Việt Nam là quốc gia ảnh hưởng trực tiếp của BĐKH....Tiếp cận
BĐKH từ góc độ lý luận, theo đó BĐKH được nhận biết thông qua sự gia
tăng nhiệt độ của trái đất (nóng lên tồn cầu), nước biển dâng cùng với các
hiện tượng khí tượng thủy văn cực đoan [117], [18]. Bên cạnh đó, khái niệm
về thích ứng với BĐKH cũng được đề cập đến. Thích ứng với BĐKH là sự
điều chỉnh các hệ thống tự nhiên và con người để từ đó làm giảm tác động của
BĐKH cũng như tận dụng những mặt tích cực của BĐKH đưa lại [75], [77];
[18]. BĐKH có nguyên nhân của nó: nguyên nhân biến đổi khí hậu bắt đầu từ
nguyên nhân địa chất, tuy nhiên trong thời kỳ hiện đại (từ thời kỳ tiền cơng
nghiệp) thì ngun nhân chính lại là do hoạt động của con người - hiện tượng
đốt nhiên liệu hóa thạch là một trong nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiệu ứng

nhà kính, làm trái đất nóng lên [187], [75], [76], [77]. Liên quan đến vấn đề
này, trong: Báo cáo đặc biệt của Việt Nam về Quản lý rủi ro thiên tai và các
hiện tượng cực đoan nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu, Trần Thục (chủ
biên), Nxb Tài nguyên mơi trường và Bản đồ, khẳng định: Biến đổi khí hậu là
do quy trình tự nhiên bên trong hoặc do tác động bên ngoài, hoặc do tác động
bởi hoạt động của con người đến các thành phần khí quyển hay trong khai
thác sử dụng đất.
Vấn đề biến đổi khí hậu không chỉ là đối tượng của khoa học tự nhiên mà
còn là đối tượng nghiên cứu của khoa học xã hội, đặc biệt là triết học. BĐKH ở
tiếp cận triết học được hiểu là mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Việc giải
quyết không tốt mối quan hệ này tất yếu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình thế
giới và an ninh con người [39].
12


BĐKH là tất yếu, song chính phủ các quốc gia trên thế giới phải thực
hiện như thế nào. Những thập niên gần đây, cộng đồng quốc tế đã có nhiều
nỗ lực để giảm thiểu tác động của BĐKH, song tác động của BĐKH ở từng
quốc gia, khu vực là khác nhau. Tác giả Phạm Văn Cự khẳng định: BĐKH
là hệ quả tất yếu của hệ quả phát triển kinh tế thời hậu hiện đại và thực tế
chính phủ các quốc gia có nhiều nỗ lực cụ thể trong việc giải quyết tác
động của BĐKH, song hiện nay, BĐKH vẫn là một đề tài khá “tế nhị” đối
với chính phủ một số quốc gia có nền kinh tế phát triển. Bởi lẽ, thực tế vẫn
cịn một số quốc gia có nền kinh tế phát triển chưa phê chuẩn Nghị định
thư Kyoto và “làm lơ” trước ảnh hưởng của BĐKH toàn cầu. Trong khi đó,
các nước nghèo lại là nạn nhân ảnh hưởng trực tiếp của BĐKH. Vấn đề đặt
ra lúc này là liệu có nguy cơ xuất hiện chủ nghĩa thực dân mới trong việc
giảm thiểu lượng khí nhà kính do con người thải vào khí quyển? Phải
chăng các nước nghèo ln bị thiệt thịi? [49].
Tác động của BĐKH đối với Việt Nam là rất nghiêm trọng, ảnh hưởng

trực tiếp đến thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia, trở thành
rào cản đối với thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, chiến lược phát triển
bền vững. Tác động của BĐKH với những hiện tượng như: nước biển dâng,
hạn hán, xâm nhập mặn, thời tiết cực đoan, bão lũ... ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình sản xuất kinh tế nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, an sinh của người dân.
Nếu nước biển dâng lên 1m có thể ảnh hưởng đến 12% diện tích đất canh tác
và 20% dân số Việt Nam, đặc biệt đối với hai vùng ĐBSH và ĐBSCL chịu
ảnh hưởng nặng nhất. Cùng với đó, chúng ta mất đi khoảng 2 triệu ha trồng
lúa và đe dọa đến sinh kế của người dân và vấn đề an ninh lương thực quốc
gia [148]. Nước biển dâng sẽ ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng giao thông: nếu
nước biển dâng 1m trong khi đó Việt Nam khơng thực hiện các biện pháp
nâng cấp, hoàn chỉnh hệ thống đê biển thì hàng năm có đến 40.000km2 vùng
13


ven biển sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề, riêng với ĐBSCL 90% diện tích đất bị
ngập hồn tồn, thiệt hại về tài sản lên tới 17 tỷ USD [199], [200], [198].
Rút ra các kết luận mang tính lý luận từ nghiên cứu về hiện trạng tác
động của BĐKH, có các cơng trình: Biến đổi khí hậu và tác động xã hội của
chúng đối với Việt Nam, Lưu Ngọc Trịnh, Tạp chí KHXH Việt Nam, tháng
3/2012; Tác động của BĐKH đến hoạt động sản xuất công nghiệp và di cư
của người nông dân, Lương Ngọc Thúy và Phan Đức Nam, tạp chí Xã hội
học, số 1 (2015)... những nghiên cứu này đều khẳng định, chúng ta đang chịu
tác động mạnh mẽ của BĐKH và BĐKH có khả năng làm chậm tốc độ phát
triển hoặc đảo ngược quá trình phát triển ở Việt Nam. Điều này được biểu
hiện qua các lĩnh vực như: Tác động của BĐKH đối với sức khỏe cộng đồng,
đối với giáo dục, đối với hoạt động thương mại, dịch vụ... và nếu khơng có
giải pháp ứng phó đúng, kịp thời thì mục tiêu xóa đói giảm nghèo, cũng như
việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước,
sẽ bị chậm lại hay thậm chí phá sản (theo Lưu Ngọc Trịnh). Tác giả Lương

Ngọc Thúy và Phan Đức Nam nhận định, BĐKH tác động trực tiếp đến vấn
đề di cư của nông dân Việt Nam. Đây chính là một thách thức lớn đối với
Việt Nam trong bối cảnh BĐKH.
Một số nghiên cứu khác cho rằng BĐKH ở Việt Nam có liên quan đến
q trình phát triển đơ thị, do vậy việc xem xét tác động của BĐKH lên đô thị
sẽ là một trong những giải pháp và hành động làm giảm thiểu và thích ứng
với BĐKH. Điều này được khẳng định trong các cơng trình: Mơi trường khu
cơng nghiệp Việt Nam (2009), Báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường quốc
gia; Tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng trong q trình phát
triển đơ thị” (2015), Lê Hồng Kế (chủ biên), Nxb Xây dựng, Hà Nội; Ứng
phó với biến đổi khí hậu trong hoạt động cơng nghiệp, đơ thị và xây dựng
cơng trình”, Trần Đức Hạ (chủ biên), Nxb Xây dựng..…
14


Tại hội thảo khoa học “An ninh phi truyền thống và tác động với Việt
Nam” do Viện Quan hệ quốc tế Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh tổ chức ngày 26/9/2013, một số nhà nghiên cứu cho rằng BĐKH là
một loại an ninh phi truyền thống và là mối đe dọa nguy hiểm đối với nhân
loại, thậm chí cịn nguy hiểm hơn chủ nghĩa khủng bố. Tác giả Mai Hồi Anh,
ng Minh Long...đều khẳng định: an ninh phi truyền thống bao gồm các
vấn đề như BĐKH, ơ nhiễm, suy thối mơi trường, suy giảm nguồn nước, tội
phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao... và thách thức của an ninh
phi truyền thống nó có thể dẫn đến hủy diệt sự tồn tại của một thể chế, một
quốc gia mà không cần đến sức mạnh của quân sự .
Trước hiện trạng BĐKH với Việt Nam các nhà nghiên cứu cũng xây
dựng các giải pháp ứng phó. Về vấn đề này có các cơng trình: Lê Anh
Tuấn (2011) với cơng trình “Phương pháp lồng ghép biến đổi khí hậu vào
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa phương”, Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội; Tác động của biến đổi khí hậu đến lĩnh vực nơng nghiệp và giải

pháp ứng phó (2012), Đinh Vũ Thanh, Nguyễn Văn Viết (chủ biên), Nxb
Nơng nghiệp; Biến đổi khí hậu và nơng nghiệp Việt Nam: Tác động Thích ứng - Giảm thiểu và Chính sách (2014), Nguyễn Văn Viết (chủ
biên), Nxb Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội…Ở đây,
các nhà nghiên cứu gợi ý các giải pháp lồng ghép BĐKH vào thực hiện
các chương trình phát triển kinh tế ở địa phương, từ đó giảm thiểu chất
thải hiệu ứng nhà kính...
Các cơng trình như: Cơ sở khoa học để đồng bằng sơng Cửu Long thích
ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng (2012), Bùi Lai (chủ biên), Nxb
Nơng nghiệp; Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước và ngập
lụt vùng đồng bằng sông Cửu Long (2013), Trần Hồng Thái (chủ biên), Nxb
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội; Nâng cao sức chống chịu trước
15


biến đổi khí hậu (2013), Trương Quang Học, Nxb Khoa học và Kỹ thuật; Chủ
động ứng phó biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên môi
trường - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (2013), tập thể các tác giả: Trần
Quốc Toản, Trần Thục, Nguyễn Thế Chinh, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật,
Hà Nội; Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu”
(2015), Hồng Văn Thắng (chủ biên), Nxb Khoa học Tự nhiên và Công nghệ;
Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các điều kiện tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên và đề xuất các giải pháp chiến lược phịng tránh, giảm
nhẹ và thích nghi, phục vụ phát triển bền vững kinh tế xã hội ở Việt Nam,
Nguyễn Văn Thắng (2010), Báo cáo Tổng kết đề tài KC.08.13/06-10.…Các
cơng trình này cơ bản đều nhất trí rằng, việc bảo vệ và khai thác tốt tài
nguyên thiên nhiên là một trong những biện pháp giảm thiểu tác động của
BĐKH ở nước ta hiện nay.
Một số nghiên cứu cho rằng, truyền thông là giải pháp hữu hiệu đối với
việc giảm thiểu và thích ứng của BĐKH trong xã hội hiện nay. Chẳng hạn, cơng
trình:“Bối cảnh truyền thơng về biến đổi khí hậu đăng tải trên phương tiện

truyền thơng đại chúng Việt Nam” (2015), Lưu Hồng Minh và Sonja
Schirmbeck (chủ biên), Nxb Thế Giới, Hà Nội. Cơng trình này cho chúng ta
cách nhìn mới về vai trị của cơng tác truyền thơng đối với việc thích ứng, giảm
thiểu biến đổi khí hậu. Truyền thơng với vai trị là phương tiện nhận thức thơng
qua việc truyền tải, giải thích, tun truyền, vận động... sẽ góp phần tạo được dư
luận xã hội và môi trường thuận lợi cho việc thay đổi thái độ và hành vi của cả
cộng đồng xã hội cũng như nhóm xã hội. Hơn thế, cơng tác truyền thơng được
xem là “người chuyển giao” quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về
BĐKH. Cùng với việc khẳng định tầm quan trọng của truyền thơng đối với
BĐKH, cơng trình đưa ra kiến nghị, giải pháp cần thiết để nâng cao chất lượng
của công tác truyền thông với BĐKH.
16


1. . C c cơ
tro



trì

i

p ó với biế đổi k í

p ó với biế đổi k í

cứu đề c p đế vai trò của
u v vai trò của


u ở Việt Na

iệ

ƣớc tro

ƣớc


ay

1.2.1. Các cơng trình đề cập đến vai trị của nhà nước trong ứng phó
với biến đổi khí hậu
Liên quan đến vai trị của Nhà nước trong ứng phó với BĐKH, có một số
cơng trình bàn về vai trị của nhà nước nói chung có thể tham khảo bao gồm:
Cơng trình “Biến đổi khí hậu và nhà nước: Nghiên cứu trường hợp chủ
nghĩa hiện thực về môi trường” của tác giả Anatol Lieven (bản tiếng Việt,
Viện Thông tin Khoa học xã hội, TN2020-39,40,41) bàn về các vấn đề BĐKH
với tư cách một mối đe dọa đối với an ninh thế giới, chủ nghĩa hiện thực và
BĐKH, thất bại của chủ nghĩa quốc tế tự do trong ứng phó với BĐKH…
Cuốn sách “Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi” - Báo cáo
về tình hình phát triển thế giới 1997 - Ngân hàng Thế giới - Người dịch: Lê
Hồng Phục; Lưu Đoàn Huynh; Minh Long (1998) - Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia - Hà Nội, các tác giả cho rằng, cần thiết phải xem xét lại Nhà nước
phải làm gì và làm như thế nào để hướng tới một nhà nước hiệu lực và hiệu
quả. Các tác giả đều thống nhất: cần thiết làm cho vai trò nhà nước phù hợp
với năng lực của nó đồng thời phải nâng cao năng lực của nhà nước bằng cách
củng cố lại các thể chế công cộng. Trong bối cảnh BĐKH hiện nay những vấn
đề này cần phải được nghiên cứu sâu hơn.
Ngồi ra, ở một số cơng trình nghiên cứu của các học giả quốc tế như:

cơng trình “Tồn cầu hóa kinh tế và chức năng của nhà nước” của Lei Da, và
“Q trình tồn cầu hóa và nhà nước: cái mới trong việc điều chỉnh kinh tế ở
các nước phát triển” của OsadachaJa I.M, Viện Thông tin khoa học xã hội,
Hà Nội 2003; “Nhà nước và thị trường” của OsadachaJa I.M và “Các chức
năng của nhà nước trong kinh tế thị trường” của IASIN E, Viện thông tin
17


khoa học xã hội, chuyên đề, Hà Nội 1998. Trong các cơng trình này các tác
giả nêu các quan điểm trái ngược nhau về vai trò của nhà nước trong thời đại
mới. Quan điểm thứ nhất cho rằng: sự can thiệp của nhà nước trong nền kinh
tế hiện đại (kinh tế thị trường) ngày càng giảm và trở nên không cần thiết.
Theo họ, q trình tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế buộc các quốc gia
phải tuân thủ những “luật chơi chung của tồn cầu” do đó, nhà nước sẽ mất
dần năng lực quản lý, điều hành xã hội. Quan điểm thứ hai lại cho rằng: trong
nền kinh tế hiện đại, vai trò của nhà nước là một tất yếu và không thể thiếu.
Bởi lẽ, nền kinh tế thị trường bên cạnh những yếu tố tích cực thì nó cũng làm
xuất hiện những vấn đề phức tạp như: khủng hoảng, ô nhiễm môi trường, tệ
nạn xã hội, phân hóa xã hội.... Sự can thiệp của nhà nước cùng với những tác
động của thị trường sẽ hạn chế những vấn đề đó. Hơn nữa, trong nền kinh tế
thị trường, hội nhập quốc tế, nhà nước sẽ luôn điều chỉnh vai trị, chức năng
quản lý, điều tiết của mình cho phù hợp với thời kỳ mới thông qua các công
cụ quản lý vĩ mô. Xã hội càng phát triển và nhân loại phải đối mặt với những
thách thức mới, trong đó có mơi trường thì vai trị, trách nhiệm của nhà nước
càng cao.
Trước những diễn biến và ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH đối với toàn
cầu, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã và đang nỗ lực trong việc giảm
thiểu những tác động tiêu cực của BĐKH. Bước đột phá mới của các quốc gia
trong việc ứng phó với BĐKH là bước đầu đạt được kết quả trong hội nghị
Công ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH lần thứ 21 (COP21), diễn ra

vào tháng 12/2015 với sự tham gia của 196 nước cam kết giảm khí thải nhà
kính từ 20C xuống cịn 1,50C. Trong Cơng ước này, nhà nước có vai trị đặc
biệt quan trọng trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tiếp cận tác động của BĐKH từ góc độ khoa học xã hội và nhân văn,
một số nghiên cứu khẳng định cần làm rõ vị trí, vai trị của Nhà nước đối với
18


tài nguyên và môi trường trong các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, phát
triển con người, xã hội với việc khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ mơi
trường trong tiến trình phát triển xã hội. Trên thực tế vai trò của Nhà nước
đối với tài nguyên và mơi trường, ứng phó với BĐKH ln là nhân tố quyết
định hiệu quả cũng như sự thành công hay thất bại của công cuộc này. Bằng
phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích tổng
hợp, phương pháp nghiên cứu liên ngành, các nhà nghiên cứu đã làm rõ: mối
quan hệ giữa tự nhiên và con người, xã hội trong quá trình phát triển của xã
hội, khẳng định tài nguyên, môi trường vừa là nền tảng cho sự phát triển kinh
tế - xã hội, vừa chịu sự tác động của con người, xã hội; phương thức hữu hiệu
của quản lý Nhà nước đối với tài nguyên, mơi trường chính là cơ sở xã hội và
cơ sở văn hóa. Về vấn đề này có thể nêu một số cơng trình quan trọng sau:
Quản lý Nhà nước đối với tài ngun và mơi trường vì sự phát triển bền vững
dưới góc nhìn xã hội - nhân văn (2006), Phạm Thị Ngọc Trầm (chủ biên); Cơ
sở xã hội nhân văn trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên môi trường,
(2006), Lê Thị Thanh Hương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Nhân tố con
người trong quản lý Nhà nước đối với tài ngun mơi trường trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam,(2008), Hà Huy Thành và Lê Cao
Đoàn (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; …
Liên quan đến vai trò của nhà nước trong ứng phó với BĐKH cịn có
một số cơng trình nghiên cứu đi sâu vào vai trị, trách nhiệm của nhà nước
trong một số lĩnh vực cụ thể như: Từ cảnh báo của Ăngghen về thảm họa

thiên nhiên nghĩ về vai trò của nhà nước đối với bảo vệ mơi trường sinh thái
(2011), Đỗ Thị Ngọc Lan, Tạp chí Lý luận chính trị (số 7); Vấn đề quản lý
Nhà nước về bảo vệ môi trường trong dự thảo luật bảo vệ mơi trường (sửa
đổi), Tạp chí nhà nước và pháp luật (2005), Phạm Hữu Nghị. Sách: Cẩm nang
quản lý môi trường (2009), Lưu Đức Hải (chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19


Bài viết: Quản lý nhà nước về tài nguyên và mơi trường trong điều kiện biến
đổi khí hậu (2009), Trần Thanh Lâm, Tạp chí Quản lý nhà nước (159), Chiến
lược (2001-2010) và kế hoạch hành động (2001-2005) quốc gia về bảo vệ môi
trường,(dự thảo), Bộ Khoa học Công nghệ và Mơi trường, Nxb Thế giới, Hà
Nội 2001... Các cơng trình này đều khẳng định sự cần thiết nâng cao hơn nữa
vai trò của nhà nước đối với việc bảo vệ môi trường trong điều kiện BĐKH,
đồng thời nêu lên những nội dung cụ thể liên quan đến nhiệm vụ của nhà
nước trong ứng phó với BĐKH cũng như sự phối kết hợp của nhà nước với
các bên liên quan trong cơng tác này.
Các cơng trình đề cập đến vai trị của nhà nước trong ứng phó
với biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu về thực trạng vai trị của nhà nước trong việc ứng phó với
BĐKH, có các cơng trình sau:
Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường nhằm
phát triển thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế,(2008),
Đoàn Thị Thanh Hương, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Hà Nội; Quan hệ Việt Nam
liên minh Châu Âu trong triển khai cơ chế phát triển sạch giai đoạn 2011 2010” (2012), Nguyễn Quang Thuấn, Nguyễn An Hà (đồng chủ biên), Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội; Nhà nước Việt Nam với vấn đề bảo vệ mơi trường
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn, Lê Thị
Thanh Hà (2013), Nxb Chính trị - Hành chính; …Tại đây, các tác giả đều khẳng
định, để nâng cao hiệu quả nhà nước với vấn đề mơi trường, ứng phó với BĐKH
cần thiết phải rà soát, bổ sung lại cơ chế, chính sách về ứng phó với BĐKH; phát

triển nguồn nhân lực về ứng phó với BĐKH; hợp tác quốc tế về BĐKH.
Cơng trình nghiên cứu, Quản lý Nhà nước về môi trường - thực trạng
và giải pháp” (2009), tác giả Trần Hồng Hà, Tạp chí Quản lý nhà nước, đánh
giá những kết quả đạt được trong quản lý của Nhà nước về môi trường như:
20


hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ mơi trường; xây dựng
chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường; công tác tổ chức thực hiện các
chính sách, pháp luật bảo vệ mơi trường được chú trọng. Song, theo tác giả,
công tác quản lý nhà nước về bảo vệ mơi trường cịn nhiều hạn chế: Văn bản
pháp luật về bảo vệ môi trường trong thực tế bộc lộ nhiều bất cập; năng lực
thẩm định chất lượng môi trường của các bộ, ngành, cơ quan chưa cao; công
tác truyền thông về môi trường chưa hiệu quả…
Công trình Biến đổi khí hậu tồn cầu và vấn đề đặt ra với Việt Nam,
,(6/8/2016), của tác giả Trần Hồng Hà nhận định: Trong bối
cảnh BĐKH đã trở thành một thách thức thì việc chủ động ứng phó với BĐKH
là nhiệm vụ trọng tâm của nhà nước Việt Nam. Nhà nước chủ động xây dựng
biện pháp ứng phó với BĐKH; rà sốt, bổ sung lại cơ chế, chính sách về ứng
phó với BĐKH; phát triển nguồn nhân lực về ứng phó với BĐKH.
Bàn về thực trạng quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính phục vụ cho
BĐKH, có các cơng trình: Tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu, Kim
Ngọc, Phương Thanh Thúy, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10, 2013...
các tác giả gợi ý một số giải pháp chi tiêu hiệu quả cho việc ứng phó với
BĐKH và khẳng định tài chính là chìa khóa cho ứng phó với BĐKH.
Bộ Kế hoạch Đầu tư (4/2015), báo cáo: “Ngân sách cho ứng phó với
BĐKH ở Việt Nam”, . Báo cáo đánh giá các chính
sách về chi tiêu cho cơng tác ứng phó với BĐKH ở Việt Nam giai đoạn 2010
- 2013 tại 5 bộ, ngành quan trọng: Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn; Bộ Công thương; Bộ Xây dựng; Bộ Giao

thông vận tải (thực hiện ở 3 tỉnh: Bắc Ninh, Quảng Nam và An Giang). Báo
cáo đưa ra các giải pháp chi tiêu hiệu quả cho việc ứng phó với BĐKH và
khẳng định sự cần thiết phải nhân rộng các nỗ lực đó.

21


Bàn về mối quan hệ giữa BĐKH và phát triển bền vững có cơng trình:
Phát triển bền vững ở Việt Nam trong bối cảnh mới của tồn cầu hóa, hội
nhập kinh tế và biến đổi khí hậu” (2015), Ngơ Thắng Lợi, Vũ Thành Hưởng
(Đồng chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia. Các tác giả cho rằng phát triển bền
vững với hội nhập và BĐKH là những vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau,
phát triển bền vững như thế nào đó sẽ có tác động với giảm thiểu BĐKH; còn
BĐKH ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển bền vững như: dẫn đến sự giảm sút
tăng trưởng kinh tế; tác động tới các khía cạnh xã hội và hệ lụy là sức khỏe,
tinh thần con người ở mức báo động. Phát triển bền vững là xu hướng mang
tính tồn cầu, tuy nhiên cùng với đó, những hậu quả phát sinh trong q trình
phát triển ngày càng nhiều, thậm chí đe dọa cuộc sống nhân loại. Điều này đòi
hỏi các quốc gia phải không ngừng xây dựng các chiến lược cũng như việc
hình thành các mơ hình cụ thể cho phát triển bền vững trên toàn thế giới cũng
như trong từng quốc gia. Cơng trình chỉ rõ những ngun nhân dẫn đến phát
triển thiếu bền vững ở Việt Nam.
Để giảm thiểu tác động của BĐKH, Việt Nam nhất thiết phải học hỏi
các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, cần thiết phải nghiên cứu cách thức sử
dụng nguồn lực tài chính từ ngân sách của nhà nước cũng như từ sự hỗ trợ
của các nước dành cho BĐKH, cách thức hợp tác với các quốc gia khác để
huy động được các nguồn tài chính, khoa học cơng nghệ phục vụ cho ứng phó
với BĐKH ở Việt Nam. Về vấn đề này có các cơng trình như: Tác động của
biến đổi khí hậu tồn cầu, phản ứng chính sách của một số nước và bài học
cho Việt Nam (2015), Lưu Ngọc Trịnh (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội; Các

biện pháp ứng phó với Biến đổi khí hậu, (2015), NxB Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội; Biến đổi khí hậu ở Việt Nam: Một số kết quả nghiên cứu, thách thức
và cơ hội trong hội nhập quốc tế, Phan Văn Tân, Ngô Đức Thành, Tạp chí
Khoa học ĐHQG, số 2 (2013), Quản lý theo dõi và đánh giá nỗ lực ngân sách
22


của nhà nước cho ứng phó với biến đổi khí hậu: Chia sẻ kinh nghiệm Pháp Việt”, (2015), Nxb Chính trị Quốc gia; Sách chuyên khảo: “Chính sách tăng
trưởng xanh ở một số nước ASEAN trong bối cảnh tái cấu trúc nền kinh tế và
ứng phó với biến đổi khí hậu” (2015), Nguyễn Huy Hoàng (chủ biên), Nxb
Khoa học xã hội,…
Bàn về vai trị của chính phủ Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế, đặc biệt trong cơng tác ứng phó với BĐKH. Có các nghiên cứu: Biến
đổi khí hậu ở Việt Nam: một số kết quả nghiên cứu, thách thức và cơ hội
trong hội nhập quốc tế” (số 2/2013), Tạp chí Khoa học Trái đất và Môi
trường (Tập 29), đồng tác giả Phạm Văn Tân và Ngô Đức Thành; Quan hệ
Việt Nam liên minh Châu Âu trong triển khai cơ chế phát triển sạch giai đoạn
2011 - 2010 (2012), Nguyễn Quang Thuấn, Nguyễn An Hà (đồng chủ biên),
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội…
Bàn về nâng cao vai trò của quản lý Nhà nước đối với tài ngun mơi
trường từ góc nhìn những tác động của yếu tố văn hóa - xã hội trong quản lý
nhà nước đối với tài nguyên môi trường trong xã hội hiện đại có cơng trình:
Những tác động của yếu tố văn hóa - xã hội trong quản lý nhà nước đối với
tài ngun, mơi trường trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”
(2006), Hồng Hữu Bình (chủ biên), Nxb Lý luận Chính trị. Theo đó, yếu tố
văn hóa - xã hội tác động cả tiêu cực và tích cực đối với vấn đề tài ngun,
mơi trường trong q trình phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH) và chủ thể thực hiện chức năng này cũng bao gồm
cả nhà nước. Thường thì Nhà nước sử dụng các cách thức, cơng cụ, phương
tiện khác nhau, vận dụng những quy luật khác nhau để tác động đến các hoạt

động của con người nhằm thay đổi tư duy từ “làm chủ tự nhiên” sang “sống
hòa hợp với tự nhiên”, hướng tới sự hòa hợp giữa tài nguyên - môi trường với
phát triển kinh tế - xã hội.
23


Chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài
nguyên môi trường-một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, (2013), tập thể các tác
giả: Trần Quốc Toản, Trần Thục, Nguyễn Thế Chinh, Nxb Chính trị Quốc gia
- Sự thật, Hà Nội; Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi
khí hậu”(2015), Hoàng Văn Thắng (chủ biên), Nxb Khoa học Tự nhiên và
Cơng nghệ; Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các điều kiện tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên và đề xuất các giải pháp chiến lược phòng
tránh, giảm nhẹ và thích nghi, phục vụ phát triển bền vững kinh tế xã hội ở
Việt Nam, Nguyễn Văn Thắng, (2010), Báo cáo Tổng kết đề tài KC.08.13/0610.…các tác giả đều cho rằng chính việc bảo vệ và khai thác tốt tài nguyên
thiên nhiên là một trong những biện pháp quan trọng giảm thiểu tác động của
BĐKH ở nước ta hiện nay.
Tác giả Trần Ngọc Ngoạn với cơng trình Chính sách thúc đẩy tăng
trưởng xanh - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia (2016), cho thấy trước thực trạng kinh tế thế giới và tình hình biến đổi khí
hậu như hiện nay chúng ta phải nhận thức lại tư duy phát triển. Trên phương
diện kinh tế, thế giới đang chuyển sang phát triển kinh tế xanh dựa vào các
nguồn năng lượng tái tạo, đồng thời hướng đến sử dụng tài nguyên hiệu quả,
giảm phát thải KNK, xanh hóa sản xuất, tiêu dùng…Việt Nam đã nhận thức
sâu sắc về vấn đề này và coi đây là một trong những định hướng vĩ mô, quan
trọng nhất trong ứng phó với với BĐKH. Đảng và Nhà nước đã có các chủ
trương, chính sách cho phát triển kinh tế xanh, song trong giai đoạn tới cần
phải xúc tiến hơn nữa để các chính sách này phát huy hiệu quả của nó.
Cuốn sách Cơ chế chính sách liên kết vùng trong ứng phó với biến đổi
khí hậu ở Việt Nam, Nguyễn Song Tùng (chủ biên) (2017), Nxb Chính trị

quốc gia. Trên cơ sở phân tích, nhận định, đánh giá về cơ chế, chính sách
sách, thực trạng liên kết vùng trong ứng phó với BĐKH, các tác giả đã đề
24


xuất các giải pháp cụ thể bao gồm sự luật hóa chính sách liên kết vùng, quản
trị, điều phối liên kết vùng, nâng cao hiểu biết của người dân và nhận thức của
các lãnh đạo các cấp, nâng cao khả năng tích hợp, lồng ghép chính sách
BĐKH vào các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, hiện đại hóa các hệ
thống quan trắc…Với những nội dung trên, các tác giả cho thấy hiện Việt
Nam đã và đang thực hiện nhanh chóng các giải pháp ứng phó với BĐKH
trên nhiều mặt, khá cụ thể và toàn diện.
Như vậy, lược khảo các cơng trình nghiên cứu trên chúng tơi thấy, dù
khơng bàn trực tiếp đến vai trị của Nhà nước trong ứng phó BĐKH, song các
nhà khoa học đều khẳng định: BĐKH là một trong vấn đề cấp bách ở Việt
Nam hiện nay. Nhà nước phải có trách nhiệm trong việc ứng phó với BĐKH.
Tuy nhiên, do phục vụ mục đích nghiên cứu của từng cơng trình khác nhau,
nên vấn đề này được đề cập ít nhiều khi bàn đến quản lý nhà nước về mơi
trường, hay về các chính sách kinh tế - xã hội có liên quan đến môi trường.
1.3. Đ

i c u

về c c cô

t i v c c vấ đề cầ tiếp tục

i

trì


i

cứu i

qua đề đề

cứu

Điểm các cơng trình nghiên cứu cũng như các văn bản quản lý Nhà
nước có liên quan đến đề tài, có thể nhận thấy các cơng trình cũng như văn
bản trên đã có những đóng góp sau đây:
Một là, số lượng các cơng trình bàn về biến đổi khí hậu và ứng phó với
biến đổi khí hậu từ góc độ nghiên cứu của các khoa học cụ thể khá phong phú.
Hầu hết các nhà khoa học đều khẳng định: Biến đổi khí hậu được hiểu là sự biến
đổi trạng thái của hệ thống khí hậu, có thể nhận biết được thơng qua các dấu hiệu
như: sự biến đổi của nhiệt độ, nước biển dâng, khí thải nhà kính tăng lên, sự thay
đổi thành phần khí quyển... Ngày nay, BĐKH đã trở thành vấn đề cấp bách
mang tính tồn cầu. Để giải quyết vấn đề này khơng thể thiếu vai trị của nhà
nước. Nhà nước sử dụng các cách thức, công cụ, phương tiện khác nhau, vận
25


dụng các quy luật của thế giới vật chất tác động đến hoạt động của con người
nhằm làm cho các mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên hài hòa. Một
số nghiên cứu trong nước cũng chỉ rõ những khó khăn của quản lý nhà nước
trong việc ứng phó với BĐKH. Các nghiên cứu đã nêu chủ yếu bàn đến vấn đề
vai trò của nhà nước trong ứng phó với BĐKH từ góc độ quản lý của nhà nước
đối với tài nguyên thiên nhiên và môi trường, song dựa trên những nghiên cứu
này, tác giả có thể đi sâu nghiên cứu vai trò của nhà nước Việt Nam - với tư cách

là nhân tố chủ quan quan trọng nhất trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu.
Hai là, những nghiên cứu của các nhà khoa học rất phong phú và tiếp
cận vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau như vai trò của nhà nước; quản lý nhà
nước với bảo vệ môi trường; môi trường, bảo vệ mơi trường; biến đổi khí hậu.
Điều đáng lưu ý là, trong một số cơng trình, trên cơ sở luận giải về mối quan
hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên, các tác giả đã khẳng định thực chất của
BĐKH là vấn đề khai thác, sử dụng các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên và
bảo vệ môi trường.
Ba là, từ việc nghiên cứu thực trạng quản lý của nhà nước Việt Nam
trong ứng phó với BĐKH, các nhà khoa học đã đề xuất một số giải pháp nâng
cao vai trò quản lý của nhà nước đối với BĐKH. Đây cũng là nguồn tư liệu
quý để tác giả luận án tham khảo trong nghiên cứu thực trạng ứng phó với
BĐKH và thực trạng vai trò của Nhà nước trong ứng phó với BĐKH ở Việt
Nam hiện nay.
Có thể thấy, cho đến hiện nay, hiện chưa có cơng trình nào trực tiếp
nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong việc ứng phó với BĐKH, nhất là từ góc
độ triết học. Trong khi đó, BĐKH đang là thách thức đối với nhân loại trong thế
kỷ XXI mà nguồn cơn sâu xa của nó liên quan đến cách thức con người ứng xử
với tự nhiên. Trên thực tế, ứng phó với BĐKH hiện nay được xem là vấn đề có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng, tác động cũng như quyết định đến mục
26


tiêu PTBV của các quốc gia. Do đó, cần thiết phải có những cơng trình nghiên
cứu chun sâu về vai trị của nhà nước trong việc ứng phó với BĐKH làm cơ sở
lý luận, định hướng cho hoạt động thực tiễn ứng phó với BĐKH ở nước ta.
Với ý nghĩa đó, trên cơ sở kế thừa những giá trị của các cơng trình,
nghiên cứu đã có, luận án sẽ tiếp tục tập trung làm rõ các nội dung sau:
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận của ứng phó với biến đổi khí hậu: Từ
góc độ triết học, luận án tập trung làm rõ cơ sở triết học của ứng phó với biến đổi

khí hậu; nghiên cứu vai trị của Nhà nước nói chung, từ đó xác định các nội dung
về vai trị của Nhà nước trong ứng phó với biến đổi khí hậu hiện nay.
Hai là, Từ thực tiễn thực hiện vai trị của Nhà nước trong ứng phó với
biến đổi khí hậu tại Việt Nam, luận án xem xét phân tích thực trạng thực hiện
vai trị này trên cả hai bình diện: những điểm đã làm được và những điểm cịn
tồn tại, hạn chế, qua đó chỉ ra nguyên nhân và khái quát những vấn đề đặt ra
trong q trình thực hiện vai trị của nhà nước trong ứng phó với biến đổi khí
hậu tại Việt Nam hiện nay.
Ba là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vai trị của nhà nước
trong ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam như đã nêu, luận án đề xuất
một số quan điểm, giải pháp nhằm phát huy hiệu quả vai trò của nhà nước
trong thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
Tiểu kết c ƣơ

1

Biến đổi khí hậu và ứng phó với BĐKH là thách thức nghiêm trọng đối
với nhân loại trong thế kỷ XXI, do đó, những năm qua đã có rất nhiều học giả
trong và ngồi nước quan tâm nghiên cứu vấn đề này. Cho đến nay các cơng
trình nghiên cứu đã tập trung phân tích, lý giải các vấn đề liên quan đến chủ
đề BĐKH; môi trường; PTBV.... từ các cách tiếp cận khác nhau. Trên cơ sở
những nghiên cứu đã có, luận án khái quát, tổng hợp, chắt lọc để thu nhận những
27


giá trị về mặt khoa học phục vụ cho việc triển khai các nội dung của đề tài.
Chủ động ứng phó với BĐKH cũng như xác định ứng phó với BĐKH
khơng chỉ là thách thức mà cịn là cơ hội tăng trưởng kinh tế. Phát triển xã hội
theo hướng phát triển bền vững đang là xu thế, chính sách phát triển của chính
phủ các quốc gia. Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH,

trong công tác ứng phó với BĐKH những năm qua, Việt Nam đã rất nỗ lực
thích ứng với các ảnh hưởng của BĐKH, song, cơng tác ứng phó với BĐKH
cịn chưa thực sự hiệu quả. Nguyên nhân này, theo chúng tôi bắt nguồn từ nhà
nước. Điều cần thiết hiện nay là phải nâng cao hơn nữa vai trị của nhà nước
trong ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên, cho đến nay, những cơng trình nghiên
cứu chuyên sâu, phân tích, làm rõ về mặt lý luận vai trị của nhà nước trong
việc ứng phó với BĐKH ở Việt Nam cịn khá khiêm tốn. Vì vậy, cần thiết
phải có nhiều hơn nữa các cơng trình nghiên cứu mang tính lý luận chuyên
sâu về vấn đề này, làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách và triển khai
chỉ đạo thực tiễn cơng tác ứng phó với BĐKH, hướng đến đạt được các mục
tiêu PTBV trong giai đoạn tới.

28


C ƣơ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ỨNG PHÓ
VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ VAI TRỊ CỦA NHÀ NƢỚC
TRONG ỨNG PHĨ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VIỆT NAM
.1. Một s vấ đề ý u

về ứ

p ó với biế đổi k í

u

2.1.1. Biến đổi khí hậu và ứng phó với biến đổi khí hậu
2.1.1.1. Biến đổi khí hậu
* Khí hậu

Khí hậu là một khái niệm thuộc các chuyên ngành nghiên cứu trực tiếp
về phương diện địa vật lý của trái đất. Theo đó, khí hậu“là tổng hợp các điều
kiện thời tiết ở một khu vực nhất định đặc trưng bởi các giá trị thống kê dài
hạn, các biến số của trạng thái khí quyển ở khu vực đó” [5].
Như vậy, khí hậu là một hệ thống tổng hợp các yếu tố, điều kiện chứ
không phải là một bộ phận riêng lẻ của thời tiết. Thành phần của hệ thống khí
hậu rất phức tạp, bao gồm năm thành phần chính: khí quyển, thủy quyển,
băng quyển, bề mặt đất, sinh quyển. Giữa các thành phần này có mối liên hệ,
tác động qua lại với nhau, trong đó, khí quyển được xem là thành phần quan
trọng nhất của hệ thống khí hậu. Hệ thống khí hậu có vai trị quyết định đối
với việc cân bằng năng lượng của trái đất và làm cho khí hậu trái đất ổn định,
từ đó các sinh vật mới tồn tại và phát triển được. Mặc dù các thành phần của
hệ thống khí hậu có cấu trúc và thuộc tính khác nhau nhưng chúng đều nằm
trong chỉnh thể của hệ thống khí hậu và ln chịu sự tác động của các nhân tố
bên trong và bên ngoài... [157], [51].
* Biến đổi khí hậu
Theo Báo cáo của IPCC (2007a): BĐKH được hiểu là sự biến đổi trạng
thái của khí hậu so với trung bình. Biến động của khí hậu được duy trì trong
29


×