Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài của tòa án Việt Nam và tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.58 KB, 12 trang )

MỤC LỤC


A - MỞ ĐẦU
Hội nhập quốc tế đã và đang là một xu thế tất yếu khách quan của quá trình
tồn cầu hóa các mối quan hệ dân sự - kinh tế - thương mại, hơn nhân và gia
đình, là một vận hội nhưng đồng thời cũng là thách thức gay gắt đối với mọi
quốc gia. Để điều chỉnh và giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, cách phổ biến
là quốc gia xây dựng các quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật của mình
và trong các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Tức là quốc gia
quốc gia đó thừa nhận và cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài tại quốc gia
mình. Để tìm hiểu về vấn đề này, em xin phân tích đề tài 20:
Đề tài 20: Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật nước ngồi của tịa án
Việt Nam và tìm hiểu ngun nhân của thực trạng đó.

B - NỘI DUNG
I.

Khái quát chung về áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc
tế

1. Khái

niệm

Về khái niệm Áp dụng pháp luật nước ngồi, có thể hiểu áp dụng pháp
luật nước ngồi “là việc cơ quan có thẩm quyền của 1 nước vận dụng các quy
định cụ thể của pháp luật 1 nước khác để giải quyết các quan hệ cụ thể”. Pháp
luật nước ngoài hay “Pháp luật 1 nước khác”- ở đây thực chất chính là pháp luật
của một quốc gia - đó là hệ thống văn bản pháp quy ( kể cả luật không thành
văn) của một quốc gia bao gồm Hiến pháp, luật và các ăn bản dưới luật cùng với


những tập quán và án lệ, thực tiễn tư pháp.
Tóm lại, Áp dụng pháp luật nước ngồi là hoạt động thi hành pháp luật
quốc gia thơng qua việc áp dụng quy định của pháp luật nước ngồi nhằm điều
chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi.
2. Mục

đích và ngun tắc áp 2dụng
Xuất phát từ xu thế tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, các quan hệ dân

sự quốc tế đã diễn ra ngày càng phổ biến. Để điều chỉnh và giải quyết các quan
hệ này, đồng thời góp phần dung hịa lợi ích của các quốc gia mình với các quốc


gia có liên quan, đảm bảo sự ổn định, củng cố, tăng cường và thúc đẩy sự phát
triển hợp tác về mọi mặt trong giao lưu dân sự giữa các quốc gia vì sự thịnh
vượng chung của cả thế giới, các quốc gia đã thừa nhận và cho phép áp dụng
pháp luật nước ngoài. Theo quy định của pháp luật Việt Nam,việc áp dụng pháp
luật nước ngoài tuân thủ theo hai nguyên tắc:
Thứ nhất, không áp dụng pháp luật nước ngồi có nội dung hoặc hệ quả trái
với các ngun tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, việc áp dụng phải thống nhất trong mối quan hệ tổng thể của hệ
thống pháp luật nước xây dựng các quy phạm đó.
3. Các

trường hợp liên quan đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài
Liên quan đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế

bao gồm ba trường hợp sau:
Thứ nhất, vấn đề bảo lưu trật tự cơng cộng. Bảo lưu trật tự cơng cộng có
thể được hiểu là việc mỗi quốc gia bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của quốc gia

mình. Theo nội dung của điều khoản bảo lưu thì khi cơ quan có thẩm quyền giải
quyết các quan hệ dân sự quốc tế, pháp luật nước ngồi sẽ khơng được áp dụng
để giải quyết nếu việc áp dụng đó mâu thuẫn với những nguyên tắc cơ bản của
pháp luật trong nước.
Thứ hai, vấn đề lẩn tránh pháp luật. Lẩn tránh pháp luật là hiện tượng
đương sự dùng những biện pháp cũng như thủ đoạn để thoát khỏi hệ thống pháp
luật đáng nhẽ phải được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ của họ và nhằm tới
một hệ thống pháp luật khác có lợi hơn cho mình. Lẩn tránh pháp luật sẽ làm
mất hiệu lực của quy phạm xung đột. Và để lẩn tránh pháp luật, đương sự có thể
dùng nhiều biện pháp, thủ đoạn lẩn tránh như: di chuyển trụ sở, thay đổi nơi cư
trú, thay đổi quốc tịch, chuyển động sản thành bất động sản...
Ở các nước khác nhau lại có các quan điểm khác nhau về vấn đề này. Với
Việt Nam, mọi hành vi lẩn tránh pháp luật sẽ đều bị coi là hành vi phạm pháp,
3

hành vi đó ở Việt Nam khơng có ý nghĩa pháp lí.
Thứ ba, vấn đề dẫn chiếu. Khi có sự xung đột giữa các hệ thuộc luật trong
các quy phạm xung đột của các nước hoặc có sự khác biệt trong việc giải thích


các hệ thuộc luật của các nước có thể làm phát sinh dẫn chiếu. Vấn đề này bao
gồm hai nội dung là: Dẫn chiếu ngược, tức là theo quy phạm xung đột mà cơ
quan có thẩm quyền áp dụng thì pháp luật nước ngoài cần được áp dụng để giải
quyết một quan hệ tư pháp quốc tế cụ thể nhưng trong pháp luật nước ngồi đó
lại có quy phạm xung đột quy định áp dụng pháp luật của nước có cơ quan có
thẩm quyền; Dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba, tức là theo quy phạm
xung đột của nước có cơ quan giải quyết tranh chấp thì pháp luật của nước ngoài
phải được áp dụng nhưng trong pháp luật nước ngồi đó lại có quy phạm xung
đột quy định cần phải áp dụng pháp luật của nước thứ ba. Tuy nhiên, dù là dẫn
chiếu ngược hay dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba cũng đều sẽ làm hạn

chế hiệu lực của quy phạm xung đột. Hiện nay trên thế giới có hai luồng quan
điểm về vấn đề dẫn chiếu này, luồng quan điểm thứ nhất là chấp nhận dẫn chiếu
(Việt Nam theo quan điểm này) và luồng quan điểm thứ hai là không chấp nhận
dẫn chiếu.
Thứ tư, vấn đề có đi có lại. Thực chất, ở đại đa số các nước trên thế giới,
vấn đề áp dụng pháp luật nước ngồi khơng phụ thuộc vào ngun tắc có đi có
lại, đồng nghĩa rằng khi cơ quan tư pháp hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nào đó vận dụng pháp luật nước ngồi để giải quyết vụ việc sẽ không cần thiết
phải xem xét là ở nước ngồi đó có áp dụng pháp luật của nước mình chưa. Vấn
đề có đi có lại trong áp dụng pháp luật nước ngồi cũng khơng làm ảnh hưởng
đến hiệu lực của quy phạm xung đột. Tuy nhiên, ngoại lệ ở một vài nước trên thế
giới, vấn đề áp dụng pháp luật nước ngồi vẫn địi hỏi phải trên ngun tắc có đi
có lại. Chẳng hạn, quy định tại Điều 25 Bộ luật dân sự của Đức năm 1986.
4.

Sự cần thiết của việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam
Áp dụng quy phạm xung đột hay áp dụng pháp luật nước ngồi là địi hỏi
tất yếu khách quan của mỗi quốc gia trong xu thế tồn cầu hóa và là đặc thù của
tư pháp quốc tế. Khi xuất hiện quan hệ tư pháp quốc tế thì hiện tượng xung đột
4

pháp luật sẽ xảy ra vì khi đó hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng có thể được
áp dụng để điều chỉnh và vấn đề áp dụng pháp luật nước ngồi được đặt ra khi
có quy phạm xung đột dẫn chiếu tới vì quy phạm này xác định hệ thống pháp


luật cụ thể nào có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi hoặc có thể do các đương sự thỏa thuận áp dụng pháp luật nước
ngồi. Quy phạm xung đột có thể được xây dựng trong hệ thống hệ thống pháp
luật của quốc gia hoặc trong các điều ước quốc tế mà quốc gia tham gia gồm cả

điều ước quốc tế song phương và đa phương. Nói khác đi, việc một quốc gia cho
phép hay không việc áp dụng pháp luật nước ngồi ở quốc gia mình là hồn tồn
phụ thuộc vào ý chí của quốc gia đó, xuất phát từ yêu cầu của quốc gia trong quá
trình bảo về các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân cũng như pháp nhân
của nước mình, của chính quốc gia trong giao lưu dân sự quốc tế.
Đáp ứng xu thế tất yếu này của tư pháp quốc tế, cũng như các quốc gia
khác trên thế giới, Việt Nam cũng thừa nhận và cho phép áp dụng pháp luật nước
ngoài để điều chỉnh và giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế mà quốc gia có liên
quan, thể hiện sự đối xử của quốc gia với luật nước ngoài là ngang tầm quan
trọng với luật trong nước,qua đó nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
các đương sự cũng như thúc đẩy sự phát triển của giao lưu dân sự quốc tế, góp
phần thực hiện chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia. Tuy nhiên, việc
áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam cũng phải được xác định trong phạm
vi nhất định, đó là phải luôn xuất phát và trên cơ sở của chủ quyền quốc gia, sự
bình đẳng chủ quyền với các quốc gia khác và đồng thời phải đảm bảo hiệu quả
của việc áp dụng pháp luật nước ngồi khơng trái với những nguyên tắc cơ bản
của chế độ xã hội chủ nghĩa và nền tảng pháp luật của nước mình. Chẳng hạn,
Tịa án Việt Nam sẽ phải tính đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong
chừng mực để bảo vệ quyền lợi của vợ chồng và lợi ích của con cái họ trong
trường hợp hai vợ chồng là hai công dân Việt Nam kết hơn với nhau ở Pháp. Họ
có 1 con trai, 1 con gái cùng bất động sản và động sản tại Pháp. Sau hơn 20 năm
cùng chung sống ở Pháp, cho đến khi về Việt Nam sinh sống, chỉ sau khoảng 1
năm thì hai vợ chồng lại xin ly hơn tại tịa án Việt Nam. Như vậy, để giải quyết
5

vụ việc này Tòa án Việt Nam phải xét tới việc áp dụng pháp luật nước ngoài (Cụ
thế là pháp luật Pháp), xét việc công nhận việc kết hôn của hai công dân Việt


Nam ở Pháp là hợp pháp hay không. Và tài sản của họ ở Pháp là tài sản hợp

pháp hay khơng.
Có thể nói, việc áp dụng pháp luật nước ngồi là Việt Nam là rất cần thiết
và việc áp dụng đó được thực hiện trên ba cơ sở là: Khi có quy phạm xung đột
trong Điều ước quốc tế quy định; hoặc khi có quy phạm xung đột trong văn bản
pháp luật quốc gia quy định; hoặc cũng có thể là khi có sự thỏa thuận lựa chọn
của các bên đương sự.
5. Điều

kiện áp dụng pháp luật nước ngoài
Điều kiện để pháp luật nước ngoài được áp dụng tại Việt Nam được ghi

nhận tại Điều 664, 668, 670 BLDS 2015. Với các quy định này, nhìn chung pháp
luật nước ngồi sẽ được áp dụng tại Việt Nam nếu thỏa mãn hai điều kiện sau
đây:
Thứ nhất, pháp luật nước ngoài chỉ được áp dụng trong những trường hợp
được pháp luật quy định. Cụ thể là pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng khi
Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc
luật Việt Nam có quy định; hoặc pháp luật nước ngồi được áp dụng nếu Điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt
Nam có quy định các bên có quyền lựa chọn pháp luật áp dụng đối với quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài. Đây được xem là điều kiện tiên quyết để Toà án
xem xét việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong một vụ việc cụ thể. Mặc dù
việc chấp nhận áp dụng pháp luật nước ngoài hay không, chấp nhận áp dụng đối
với những quan hệ nào, hoàn toàn thuộc chủ quyền của quốc gia. Tuy nhiên, cơ
quan có thẩm quyền của quốc gia, cụ thể ở đây là Tồ án, khơng thể áp dụng một
cách tuỳ tiện cũng như từ chối áp dụng một cách tuỳ tiện.
Thứ hai, pháp luật nước ngoài chỉ được áp dụng nếu thỏa mãn điều kiện
nếu hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngồi khơng được trái với các
ngun tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam [7] . Về bản chất, điều kiện này đã kế
6


thừa tinh thần của Điều 759 BLDS 2005, tuy nhiên cũng có sự thay đổi nhỏ.
Thay vì quy định “việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với
các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam” thì điều luật mới chỉ quy định về “hậu


quả của việc áp dụng…”. Sự thay đổi này khiến cho điều luật trở nên mạch lạc
và dễ hiểu, dễ áp dụng hơn so với cách quy định cũ. Đây là điều kiện quan trọng
nhằm bảo vệ nguyên tắc cơ bản của quốc gia có Tồ án khơng bị ảnh hưởng bởi
pháp luật nước ngoài.
II.

Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam
1.

Thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam
Trong thời gian qua, Việt Nam đã tham gia kí kết 23 Hiệp định tương trợ

tư pháp về dân sự và các lĩnh vực có liên quan trong đó có một số quy định
nhằm quy định cụ thể hơn việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Việt Nam cũng đã
ban hành các văn bản pháp luật trong đó có những quy định rõ ràng các trường
hợp áp dụng pháp luật nước ngoài như Bộ luật dân sự 2005 (Điều759), Luật
thương mại 2005 (Điều 5), Luật hơn nhân và gia đình năm 2014...
Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết
các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngồi tại Việt Nam của các
Tịa án và trọng tài Việt Nam là rất hãn hữu và do vậy nên kinh nghiệm của Tòa
án, trọng tài Việt Nam trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết các
quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngồi là gần như chưa có. Mặc
dù việc áp dụng pháp luật nước ngoài trên cơ sở dẫn chiếu của quy phạm xung
đột có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của các bên nhưng thực tế,

khi có vụ việc dân sự liên quan đến các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố
nước ngồi xảy ra, nếu các bên khơng có thỏa thuận gì về pháp luật điều chỉnh
thì tịa án Việt Nam có xu hướng chung là áp dụng pháp luật luôn pháp luật Việt
Nam để giải quyết. Thậm chí, có trường hợp tịa án Việt Nam thụ lý nhưng liên
quan đến một vấn đề được điều chỉnh bởi pháp luật nước ngồi thì lại từ chối
thẩm quyền giải quyết. Chẳng hạn, vụ việc tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh từ chối thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp xảy ra giữa Công ty Kolon
(Hàn Quốc) và công ty Vinafood (Việt Nam) về vấn đề bồi thường liên quan đến
7

hợp đồng mua bán một số lượng phân bón, xuất xứ Hoa Kỳ giữa hai cơng ty xảy
ra cách đây khá lâu. Đúng như trước đó tác giả Nguyễn Cơng Khanh trong một
bài đăng của mình trên tạp chí Dân chủ và pháp luật đã nói: “tịa án và các cơ


quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam khi giải quyết những vụ việc dân sự
có yếu tố nước ngoài, thường chỉ áp dụng pháp luật Việt Nam, hầu như rất hãn
hữu, nếu khơng muốn nói là chưa bao giờ áp dụng pháp luật nước ngoài, mặc dù
đã được quy phạm xung đột dẫn chiếu”. Hay tại hội thảo “Một số vấn đề thực
tiễn về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản trong Tư pháp quốc tế”, thẩm phán
Ngô Thị Minh Ngọc đã thừa nhận “Chúng tôi chưa bao giờ áp dụng pháp luật
nước ngoài khi giải quyết tranh chấp dân sự hay ly hơn”
Có thể thấy, các quy phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật
nước ngoài tại Việt Nam mới chỉ dừng lại ở lý thuyết và rất hạn chế trong việc
áp dụng, dường như mới chỉ được khai thác chủ yếu dưới góc độ nghiên cứu
giảng dạy. Tại Việt Nam, có chăng việc áp dụng pháp luật nước ngoài mới chỉ
xuất hiện ở một số lĩnh vực về hành chính như đăng ký kết hơn giữa người nước
ngồi với cơng dân Việt Nam tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, nhận
ni con ni có yếu tố nước ngồi... Như vậy, có thể nói việc áp dụng pháp luật
nước ngồi trên thực tiễn Việt Nam là chưa đạt hiệu quả.

2.

Nguyên nhân của những tồn tại
Sở dĩ việc áp dụng pháp luật nước ngồi tại Việt Nam cịn rất hạn chế dù
là do: Pháp luật Việt Nam đã có quy định về vấn đề này nhưng các quy định đó
mới chỉ dừng lại ở mức độ chung, mang tính khái quát, thường dưới dạng:” theo
quy định của Chính phủ”. Và sau khi các quy định trong các luật, bộ luật... được
ban hành lại còn cần chờ được hướng dẫn thi hành bởi các nghị quyết, thơng
tư...thì mới có thể được thi hành trên thực tế. Đồng nghĩa rằng phải mất rất nhiều
thời gian để các quy định về việc áp dụng pháp luật nước ngoài này được ban
hành và hướng dẫn thi hành để áp dụng được trên thực tế, trong khi các quan hệ
pháp luật dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngồi diễn ra ngày càng phổ
biến trên thực tế và đòi hỏi phải được giải quyết nhanh chóng và kịp thời. Chưa
kể đến việc các quy định đã được ban hành cịn có thể có tình trạng chồng chéo,
8

mâu thuẫn, trong cùng một vấn đề nhưng lại có nhiều văn bản pháp luật khác
nhau cùng quy định. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, chủ thể nghiên cứu và áp


dụng pháp luật nước ngồi lại chưa có kinh nghiệm xét xử, chưa thực sự đáp ứng
được yêu cầu mới cả về số lượng và chất lượng.
Theo các quy định của pháp luật Việt Nam, nước ta chỉ hạn chế áp dụng
pháp luật nước ngoài khi quy phạm xung đột dẫn chiếu tới trong trường hợp việc
áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam. Đoạn 2 Khoản 3 Điều 759 BDLS năm 2005 có quy định: “Pháp
luật nước ngoài cũng được áp dụng trong trường hợp các bên có thỏa thuận
trong hợp đồng, nếu sự thỏa thuận đó không trái với quy định của Bộ luật này và
các văn bản pháp luật khác của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Câu hỏi
đặt ra ở đây là nếu sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng không trái với pháp

luật Việt Nam nhưng trái với điều ước quốc tế mà Việt nam là thành viên thì
sao? Điều này hồn tồn có thể xảy ra trên thực tế.
Ví dụ: 1 Cơng ty mang quốc tịch Anh (có trụ sở ở Anh) kí hợp đồng với
một cơng ty mang quốc tịch Việt nam (trụ sở ở Việt Nam). Trong hợp đồng thỏa
thuận pháp luật áp dụng cho nội dung hợp đồng là pháp luật Mỹ. Giả định rằng
giữa Việt Nam và Anh có một điều ước quốc tế về vấn đề này trong đó quy định
đối với hợp đồng giữa thương nhân hai nước thì luật áp dụng để giải quyết cho
nội dung hợp đồng là pháp luật nước ký kết có tịa án thụ lý vụ việc. Vậy thì
trong trường hợp này, việc thỏa thuận giữa hai bên là hoàn toàn phù hợp với quy
định của pháp luật Việt Nam nhưng nó lại trái với điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên (với quy định của điều ước thì rõ ràng khơng cho phép các bên
thỏa thuận về lựa chọn pháp luật).
III.

Một số kiến nghị hoàn thiện vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt
Nam
Thứ nhất, cần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật nước
ngoài tại Việt Nam: Các quy định trong các văn bản pháp luật cần được quy định
một cách cụ thể, rõ ràng, nên quy định việc giải quyết một vấn đề trong cùng
9

một văn bản, giảm dần việc phải ban hành thêm các văn bản pháp luật khác để
hướng dẫn thi hành các quy định đã có. Các hiệp định tương trợ tư pháp cần phải
quy định một cách rõ ràng và cụ thể về các trường hợp áp dụng pháp luật nước


kia để vừa thuận tiện và hiệu quả trong quá trình giải quyết, vừa tránh xung đột
pháp luật.
Thứ hai, tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực về cung cấp
pháp luật nước ngồi. Nói đến áp dụng pháp luật nước ngồi trong tư pháp quốc

tế nói chung, trở ngại lớn nhất cho các cơ quan có thẩm quyền là việc tiếp cận và
giải thích nội dung pháp luật nước ngồi. Rào cản về ngơn ngữ, về chính sách
pháp luật, tư duy lập pháp… của các nước đã tạo nên rất nhiều khó khăn cho các
chủ thể áp dụng pháp luật. Đây là thực trạng không phải chỉ tồn tại trong Tư
pháp quốc tế Việt Nam mà còn cả ở các nước phát triển trên thế giới. Vì vậy, nếu
có thể xây dựng được một cơ chế cung cấp, trao đổi thơng tin pháp luật nước
ngồi giữa các nước thành viên AEC sẽ là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục
những khó khăn đang tồn tại đối với các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Theo đó, Việt Nam có thể đề xuất với các nước thành viên AEC xây dựng một
Hiệp định về vấn đề cung cấp thơng tin pháp luật nước ngồi, ghi nhận các nội
dung cụ thể bao gồm:
- Thiết lập hoặc chỉ định cơ quan có vai trị tiếp nhận u cầu cung cấp thông tin
pháp luật đến từ các quốc gia nước ngồi và chuyển giao thơng tin cần thiết cho
các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia nước ngồi;
- Quy trình, cách thức cung cấp nội dung pháp luật nước ngồi;
- Thời hạn, chi phí của việc cung cấp thơng tin pháp luật nước ngoài…
Thứ ba, hoàn thiện yếu tố con người trong quá trình thực thi pháp luật.
Đây là nhóm giải pháp mang tính bổ trợ, khơng trực tiếp liên quan đến các quy
định của pháp luật. Tuy nhiên, nếu các giải pháp bổ trợ này được triển khai hiệu
quả cũng sẽ giúp cho các quy định pháp luật liên quan đến việc áp dụng pháp
luật nước ngoài đi vào thực tiễn dễ dàng hơn. Cụ thể như sau:
- Cần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ trong ngành Toà án, cụ thể là các
thẩm phán. Như tác giả đã đề cập, thực trạng những quan hệ hợp đồng thương
10

mại quốc tế hầu như không được giải quyết theo đúng những nguyên tắc của Tư
pháp quốc tế, xuất phát rất nhiều từ sự hạn chế năng lực của các thẩm phán.


- Bộ Tư pháp phối hợp cùng các cơ quan, tổ chức hoặc các cơ sở giáo dục

thường xuyên tổ chức các Hội thảo quốc tế với sự tham gia của các chun gia,
các học giả nước ngồi uy tín trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế để cập nhật những
thơng tin về pháp luật nước ngồi, thực tiễn xét xử của Toà án nước ngoài cho
các luật gia, các luật sư, cũng như những đối tượng nghiên cứu pháp luật khác.
Thực tiễn xét xử của Toà án các nước cho thấy, trong quá trình xác định nội
dung pháp luật nước ngồi, Tồ án có thể nhận sự hỗ trợ rất hiệu quả từ phía các
chuyên gia nghiên cứu pháp luật. Do đó, việc đẩy mạnh cơng tác trang bị kiến
thức pháp luật nước ngồi cho nhóm đối tượng này cũng là một giải pháp cần
thiết.
- Các cơ sở đào tạo pháp luật cần chú trọng đầu tư việc giảng dạy Tư pháp quốc
tế cho người học ở mọi cấp độ. Mục tiêu này có thể được đẩy mạnh bằng cách
cho người học tiếp cận với pháp luật nước ngoài thơng qua phương pháp học
bằng tình huống, vụ việc. Những nguyên tắc nền tảng của Tư pháp quốc tế và
những kiến thức về pháp luật nước ngoài được củng cố cho sinh viên luật ngay
từ trong giảng đường sẽ giúp ích rất nhiều khi họ phải đối mặt với những vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngồi trên thực tế.

C - KẾT LUẬN
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế nói chung và
trong tư pháp quốc tế Việt Nam nói riêng là vấn đề khá phức tạp. Từ những phân
tích trên, có thể khẳng định việc vần thiết phải áp dụng lật nước ngoài để giải
quyết các quan hệ dân sự quốc tế, là một nhu cầu khách quan dể bảo đả, lợi ích,
cơng bằng trong xã hội. Song việc áp dụng luật nước ngoài phải luôn gắn liền
với việc bảo đảm độc lập, chủ quyền, bình đẳng và tồn vẹn lãnh thổ quốc gia,
bảo đảm sự an ninh ổn định, chế độ xã hội chủ nghĩa và nền tảng pháp luật của
nhà nước ta.

11



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Tư pháp

2.

TS. Nguyễn Hồng Bắc, Hướng dẫn học môn tư pháp quốc tế

3.

Bộ luật tố tụng dân sự 2004.

4.

Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

5.

Luật hơn nhân và gia đình năm 2014.

6.

Đánh giá về thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam,
/>
7.

Áp dụng pháp luật nước ngồi là gì? Việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong
tư pháp quốc tế?, />
8.


Áp dụng pháp luật nước ngồi: vừa là khó khăn, phức tạp, vừa là tất yếu,
khách quan trong việc giải quyết các vấn đề của TPQT,
/>
9.

Áp dụng pháp luật dân sự nước ngoài tại Việt Nam, so sánh với pháp luật của
một số quốc gia, />
12



×